Thứ Tư, 27 tháng 11, 2013

DỌC ĐƯỜNG - VÕ CHÂN CỬU


BÀI 6
Nhà  Văn  Làm  Thơ…

“Có những khi buồn, có những khi chẳng còn ai để tâm sự, tôi lại chìm đắm vào thơ. Hình như nơi ấy, cái bàng bạc hư ảo của thơ có lúc nó như là biển nước mà tôi, con cá suýt mắc cạn được trở về bơi lội nhởn nhơ…”
          Đó là câu trả lời phỏng vấn của Trương Đạm Thủy, được ông cho in trong “Vượt Vũ Môn”, tập văn xuôi thứ 7 kể từ khi ông được in tác phẩm đầu tiên- tập truyện Miền Đất Hồi Sinh (Nhà xuất bản Sông Hậu, 1964).
Nếu tính từ năm 1975, thì đây là tác phẩm thứ 5, tập văn xuôi thứ 4 của Trương Đạm Thủy. Cột mốc lịch sử năm 1975 rất quan trọng đối với những những người đã sống hoàn toàn bằng viết lách ở Miền Nam.
Sinh năm 1940, chịu cảnh mô côi từ bé, Trương Đạm Thủy được cô nhi viện tỉnh Bến Tre nuôi nấng. Đến tuổi vào đời, ông trôi dạt lên Sài Gòn. Từ niềm say mê và nhiều cơ duyên đưa đẩy, ông vào nghiệp viết lách. Lúc này ngoài các tạp chí chuyên về sáng tác văn học như Sáng Tạo, Hiện Đại, Thế Kỷ 20, các tờ nhật báo (hầu hết là của tư nhân) đều dành đất cho những người làm thơ, viết truyện. Năm 1963, Trương Đạm Thủy được giải thưởng truyện ngắn của nhật báo Tiếng Chuông. “Vòng hoa” này đã đưa chàng trai 23 tuổi mê viết lách chính thức gia nhập “làng văn-trận báo”. Ông vừa làm nghề sửa bản in (chấm mo-rát), vừa viết các tin tức, phóng sự và truyện dài đăng hàng ngày (feuilleton) cho một số nhật báo. Lúc này, truyện dài “feuilleton” bị nhiều giới “trí thức” thành kiến cho là truyện “diễm tình ba xu”. Nhưng nó lại giúp nuôi sống những người viết lách. Ngoài các tác giả chuyên viết truyện diễm tình có sách bán chạy như An Khê, Thẩm Thệ Hà, Ngọc Linh…, những người làm văn chương “chính thống” như Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, và các cây bút thuộc thế hệ kế tiếp như  Viên Linh, Nguyễn Xuân Hoàng, Cung Tích Biền…cũng đều tham gia viết feuilleton trên nhật báo. Điều này cho thấy trong lĩnh vực nghệ thuật nói chung và sáng tác văn học nói riêng, việc đổ lỗi rằng “hoàn cảnh hay sự bó buộc của thể loại đã tạo ra những tác phẩm dở” chỉ là sự ngụy biện. Tất cả đều do con người, cụ thể là cái tâm và “nội lực” của người cầm bút.
Ông là nhà văn đã có chút ít tên tuổi, lại không bị quy kết là “tác giả có tác phẩm phản động, đồi trụy”. Nhưng trong thời kỳ mới Trương Đạm Thủy đã không hề giả giọng ca ngợi một chiều để kiếm chút bổng lộc hay tiến thân. Từ khi viết văn, ông đã tâm niệm rằng người cầm bút phải “sống thực và sống đẹp”, và coi đó như một “cảnh giới tâm linh”, nên ông tiếp tục “viết để trải lòng”. Vì vốn yêu những mảnh đời mà ông bắt gặp ở vùng đất Nam bộ phì nhiêu và còn nhiều hoang dã, cũng như giữa chốn đô thành Sài Gòn tụ hội nhiều tinh hoa-nghịch lý, ông vẫn tiếp tục viết văn theo phong cách riêng của mình. Tác giả Thiên Hà, một người bạn văn của ông từ nhỏ nhận định: nhà văn đã thể hiện những nguyên mẫu hiện đại bằng mạch văn nhẹ nhàng thành cổ tích, liêu trai…Và có những nguyên mẫu chừng như hoang đường, huyền thoại…cũng được nhà văn “biến hóa” thành thực tại thần kỳ…Trương Đạm Thủy đã làm chủ được ngòi bút của mình, làm chủ được đường biên phận số, để tỏa sáng những khát vọng của con người một cách chân thành lung linh…”
Một người bạn, cũng là “độc giả” chí tình của ông là Kiến trúc sư Nguyễn Tài My cho rằng tập truyện Vượt Vũ Môn (tác phẩm mới nhất do NXB Thanh Niên in, phát hành đầu năm 2012) tái diễn thâm thúy đời tác giả: Tìm vào rừng sâu ẩn dật, ngày ngày câu cá, chịu ảnh hưởng giá rét mùa đông, bỗng một hôm ngộ được đàn cá chép vượt vũ môn về cố hương, thực hiện hành trình vượt dòng về sinh nở…”
Trong truyện ngắn “Vượt Vũ Môn”, tôi bắt gặp những câu văn tả chân khá đẹp: … “Có một dạo ông chèo thuyền đi câu trên hồ lớn và đã từng gặp những con cá mẹ đang giờ sinh nở. Ông thấy chúng bơi vòng tròn bên những đám rong xanh mọc sát bên đám cây u du, lau sậy. Sau mỗi vòng lượn, chúng lại quặn mình bắn ra những cái trứng màu trắng ngà trong đám rong tảo mềm mại. Gần nửa ngày như vậy mới xong những cái trứng cuối cùng. Cái bụng căng của cá mẹ trong buổi sáng, khi đến giữa trưa thì đãke5p lép. Bấy giờ, cá mẹ như đã kiệt sức hoàn toàn, nó bơi lờ đờ quanh đám rong như để kiểm tra lần cuối cùng chỗ an toàn sẽ ấp ủ những đứa con bé bỏng thân yêu. Xong, nó lặng lẽ bơi ra giữa hồ, đuôi quẩy nhè nhẹ một lúc, miệng ngáp ngáp mấy cái rồi lật nghiêng mình, ngửa bụng lên trời. Cá mẹ đã thở hơi sau cùng của đời cá.
          Những lần nhìn cảnh ấy, ông lão buồn thương vô hạn, và ông không bao giờ bắt những con cá mẹ đã chết trên hồ ấy đem về cho những bữa cơm của ông. “Ăn sao đành”, ông nói.”
          …….
          Hình như qua đoạn văn này, Trương Đạm Thủy cũng muốn diễn đạt một triết lý về nghệ thuật cũng như quan niệm sống của một số người cầm bút ! Nên không lạ khi những nhà văn như vậy lúc có tuổi cao lại say đắm tìm gặp “Nàng Thơ”.
          Dưới đây là một bài thơ của Trương Đạm Thủy in trong tập thơ đầu tay “Hát xẩm Giữa Đời” –NXB Hội Nhà Văn 2008 :
          Dòng Cạn
          con đò rất buồn, con đò ngắc ngư
          quạnh vắng một dòng sông cạn nước
          phù sa có buồn mấy tầng rễ đước
          ôm bãi bồi van tu hú gọi triều lên

          giữa rừng ta bật hú gọi em
          vọng âm xa vang tiếng gào của gió
          tiếng ta kêu với vô vàn tia máu
          chảy xanh bờ hiu quạnh một rừng thu
         
          đưa ta về chốn nào đất lạ trời cao
          đi tìm câu thơ náu mình xứ khách
          vụt một cánh chim buồn đến khóc.

          ta đi mơ hồ như trong chiêm bao
          về đến bến nào trên dòng sông nhỏ
          tìm em ở đâu góc đời giông bão

          sông ơi, dòng phù sa nước cạn nửa vời
          ta ở đây hú gọi người ở đó
          thôi đậu lại con thuyền ôm nỗi nhớ
          đành ngồi hát vu vơ câu dạ cổ bên rừng đước mồ côi.

“vụt một cánh chim buồn đến khóc” là câu thơ quá hay và lạ. Hình như nó chỉ hiện ra trong lòng của một người đang nuối tiếc những “rừng đước mồ côi”, “mấy tầng rễ đước”,xót xa nhớ tiếng “tu hú gọi triều lên”.

Tôi thua ông Trương Đạm Thủy hơn mười tuổi, nhưng ở các điểm uống bia Sài Gòn, nhiều người vẫn cho rằng “hai cha này giống nhau ở điểm thích ngồi một mình; ít bàn chuyện văn chương thế sự”.Từ hơn ba mươi năm nay, ông kiếm tiền tiêu vặt, uống bia bằng những bài báo ngắn, thường là điểm sách, tạp bút trên những tờ báo nhỏ đây đó. Nhà thơ nữ Phan Ngọc Thường Đoan trong lời tựa cho tập thơ “Hát Xẩm Giữa Đêm” cho rằng : “Có lẽ vì chạm phải những ngang trái và bầm dập của cuộc đời quá sớm, đã quá dạn dày với thế thái nhân tình, hình thành một sự trầm tĩnh nơi anh Trương Đạm Thủy…Anh như cụm mây trắng giữa đời loay hoay không biết bay về đâu”…
Có một bài thơ trong tập nói về tâm trạng này:

          một ngày không biết ở đâu
          gió về phương nào
          vạt chiều lên khúc thu vọng tấu
          nhẹ tênh mắt lá cười buồn

          người đàn ông đi qua khoảnh sân
          nhặt những chiếc lá
          nhặt những dấu chân…
          em bước

          người đàn ông đi quanh những hòn đá
          nơi bầy mèo hoang tha thẩn dạo chơi
          có tiếng đá thì thầm
          hoài niệm sơn khê
          người đàn ông nhặt lên hạt lệ
          …….
                                        (Bước Chân)

Bài thơ mang âm hưởng buồn, nỗi buồn khó hiểu được ? Hình như là tâm trạng của một lớp người bị thời cuộc trói buộc, không được thỏa niềm đam mê trong cuộc sống. Nhưng ông âm thầm chịu đựng, không trách móc, giận dữ chửi đời !
          Nhà văn đến một tuổi nào đó lại thích làm thơ. Có lẽ vần thơ diễn tả được những điều nào đó mà văn xuôi không nói hết.
          Gặp Trương Đạm Thủy lần mới nhất, ông cho biết đang chuẩn bị để …in tiếp tập thơ thứ 2: Mùa Hoa Cải Trắng. Người ta thường nói mùa hoa cải vàng. Chỉ có loại “cây cải trắng” thôi chứ ! Thơ Trương Đạm Thủy, cũng như nhiều người làm thơ Miền Nam, khi in xong, thường vẫn “ở trong lặng lẽ”. Nhưng tôi tin với những câu thơ như vậy, vẫn có những người lặng lẽ tìm đọc.
                                                                                Võ Chân Cửu

          

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét