Thứ Bảy, 30 tháng 6, 2012

CHUYÊN GIA KINH TẾ NỔI TIẾNG PHẠM CHI LAN PHẢN ĐỐI ĐỀ ÁN 12.000 TỶ XÂY TRỤ SỞ BỘ GTVT



Như đã đưa tin, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải (GTVT) Đinh La Thăng vừa phê duyệt đề án trị giá 223.000 tỉ đồng để hiện đại hóa trụ sở làm việc, cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, phát triển đội tàu biển, máy bay, đào tạo nguồn nhân lực theo đề án công nghiệp hóa - hiện đại hóa Bộ GTVT đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030.

Theo đề án, để hiện đại hóa công tác quản lý, chỉ đạo điều hành ứng dụng công nghệ thông tin trong khối hành chính sự nghiệp và trường, viện cần tới 278 tỉ đồng tới năm 2030 cho 24 danh mục phần mềm, cơ sở dữ liệu (153 tỉ đồng giai đoạn 2012-2015 và 125 tỉ đồng cho giai đoạn 2016-2020). Riêng khối doanh nghiệp cần tới hơn 227 tỉ đồng đến năm 2030 cho các loại phần mềm quản trị doanh nghiệp.

Với việc đầu tư, nâng cấp nhà làm việc đảm bảo tiêu chuẩn tại văn phòng bộ, tám tổng cục, cục chuyên ngành và 22 tổng công ty, sáu trường, viện, Bộ GTVT ước tính cần 12.174 tỉ đồng cho đến năm 2030 (riêng từ 2012-2015 cần 7.950 tỉ đồng). Trong đó, đầu tư trụ sở văn phòng bộ là 1.000 tỉ đồng và các tổng cục, cục là hơn 4.800 tỉ đồng. Số tiền đầu tư này nhằm xây dựng trụ sở mới cho một số cục chưa có trụ sở làm việc, nâng cấp trụ sở làm việc của các đơn vị đã chật chội, xuống cấp.

Ngay sau khi đề án được phê duyệt, đã có khá nhiều thông tin trái chiều về đề án này. Để hiểu rõ vấn đề hơn, Phóng viên báo Giáo dục Việt Nam đã có cuộc phỏng vấn chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan về vấn đề này.

Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan (Ảnh T.T)

PV: Bà nghĩ gì về đề án vừa được Bộ trưởng Đinh La Thăng ký duyệt liên quan đến việc nâng cấp nhà làm việc đảm bảo tiêu chuẩn tại văn phòng bộ, tám tổng cục, cục chuyên ngành và 22 tổng công ty, sáu trường, viện của Bộ GTVT?

Chuyên gia Phạm Chi Lan: Tôi nghĩ, hiện tại muốn có một trụ sở khang trang hiện đại là nguyện vọng chính đáng của tất cả các đơn vị như các doanh nghiệp cũng như các cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, vấn đề ở đây là bộ xây dựng thì sẽ dùng tiền ngân sách. Và trong điều kiện kinh tế hiện nay đang khó khăn như thế này, ngân sách nhà nước đang có đòi hỏi thắt chặt chi tiêu, đầu tư từ ngân sách để vừa tăng hiệu quả và vừa giảm bớt những gánh nặng trên những nguồn nộp thuế thì đề xuất này của Bộ GTVT là không hợp thời.
PV: Trong bối cảnh kinh tế khó khăn, chính phủ đang thực hiện việc cắt giảm chi tiêu, kiềm chế lạm phát, việc duyệt đề án này của bộ GTVT nói lên điều gì, thưa bà?

Chuyên gia Phạm Chi Lan: Nó thể hiện là hình như Bộ GTVT không nghĩ đến bối cảnh chung mà chỉ đề xuất riêng cho mình như vậy. Thêm nữa là ngành GTVT cũng là ngành còn đòi hỏi đầu tư rất nhiều để cải thiện hạ tầng giao thông chung đỡ ách tắc cho xã hội hiện nay nhưng mà mọi việc trong vài tháng nay bộ GTVT đề xuất đều là đánh qua phí vào đầu người dân. Trong khi những biện pháp để cải thiện hạ tầng giao thông thì chưa thấy đâu.
Vậy mà bây giờ tiền lại muốn dồn vào để đầu tư cho trụ sở hoành tráng như vậy thì thử hỏi ngân sách dành cho giao thông rồi ngân sách lại dùng để cho Bộ GTVT xây dựng trụ sở lớn như vậy thì liệu hạ tầng giao thông có cải thiện được trong thời gian tới hay không? Đó cũng là trách nhiệm của bộ và bộ phải nghĩ tới. Nếu có sự ưu tiên của bộ bây giờ thì đó nên là sự ưu tiên cho phát triển hạ tầng giao thông hơn là cho việc xây dựng trụ sở bộ, các tổng cục và cục của ngành.


PV: Thời gian vừa qua, bộ trưởng Đinh La Thăng có nhiều đề xuất liên quan đến chuyện thu phí gây nhiều dư luận trái chiều. Trong một cuộc phỏng vấn, Bộ trưởng Thăng có nói tới vấn đề thu phí là để có kinh phí làm giao thông. Tuy nhiên, nay Bộ GTVT lại có đề án như vậy thì theo bà, việc này có gây ra hiểu nhầm cho người dân về việc bộ thu phí để xây dựng trụ sở?

Chuyên gia Phạm Chi Lan: Tôi không nghĩ là sẽ gây ra hiểu lầm như vậy đâu. Bởi vì có muốn huy động được tiền của dân thi cũng phải hỏi ý kiến của dân, phải có sự phê duyệt của Quốc hội và nhất là sự đồng tình từ người dân chứ không phải muốn thu bao nhiêu là thu được. Thêm nữa là nếu có thu được phí từ dân để cải thiện hạ tầng thì cái đó phải được đầu tư vào hạ tầng đồng thời có sự giám sát của người dân chứ không phải ngành giao thông thu được rồi thì muốn tiêu gì thì tiêu.
Nếu danh nghĩa là thu để cải thiện hạ tầng GTVT mà thực tế lại thu để xây dựng trự sở thì điều đó không thể có được.

PV: Vấn đề xây dựng trụ sở to hoành tráng, mua xe “xịn” đã từng chịu nhiều chỉ trích từ dư luận. Theo bà, với đề án như vậy của Bộ GTVT, dư luận có để yên?

Chuyên gia Phạm Chi Lan: Tôi tin chắc, xã hội sẽ không để cho Bộ GTVT làm như vậy. Và cả chính phủ, quốc hội cũng sẽ không để cho Bộ GTVT làm như vậy. Sẽ không có hiểu nhầm đó vì người dân hiểu rằng tiền họ đóng để làm gì. Xã hội bây giờ thông tin rộng rãi và người ta hoàn toàn có thể phản hồi ngay khi có vấn đề.

Tôi nghĩ là dư luận sẽ lên tiếng thậm chí là lên án một đề án như vậy. Và cho dù tiền của dự án như vậy, Bộ GTVT có thể huy động từ chỗ này chỗ khác trên danh nghĩa là ủng hộ bộ, hỗ trợ bộ thì tiền từ mặt bằng cũ hiện nay được nhà nước cho phép bộ bán đi lấy tiền xây dựng trụ sở mới cũng không phải là hợp lẽ. Vì trụ sở hiện nay bộ đang dùng, nhà nước quyết định di dời đi thì đó là đất của công, tài sản của quốc gia chứ không phải tài sản của riêng các bộ. Cái này không phải do bộ làm ra nên bộ muốn tiêu gì thì tiêu.

Các cơ quan nhà nước phải hiểu rõ, mọi nguồn đầu tư và phát triển đều là từ ngân sách, từ tiền thuế của người dân chứ không phải là từ đâu cả. Bộ không phải là cơ quan kinh doanh nên cũng không có quyền nói vì tôi kinh doanh tốt nên được doanh nghiệp cho hưởng cái nọ, cái kia. Điều đó là không thể có được. Ngay cả việc Bộ trưởng Thăng nhận cái xe do một đơn vị phía dầu khí tặng cũng đã làm xôn xao dư luận và hầu hết ý kiến được đưa ra thì tôi hiểu người dân không đồng tình kể cả nguyên lãnh đạo của các cơ quan.


PV: Trong đề án có nêu: với nguồn vốn đầu tư cho các hạng mục nhà làm việc, trang thiết bị, dự án, đào tạo nghề, Bộ GTVT đề nghị các doanh nghiệp tự huy động, cân đối các nguồn vốn tự có, vốn vay, ODA, vốn huy động từ xã hội. Bà nghĩ sao về vấn đề này?


Chuyên gia Phạm Chi Lan: Tôi cho rằng phải có 2 việc phải tách bạch ra: trụ sở của bộ là cơ quan công quyền là trụ sở của cơ quan nhà nước, không có doanh nghiệp lẫn vào đó. Không thể lẫn lộn trụ sở của bộ với trụ sở dành cho doanh nghiệp. Đã là doanh nghiệp dù là thuộc bộ và là doanh nghiệp nhà nước thì cũng phải lo trụ sở riêng. Nếu bộ GTVT để chung một “rọ” thì sẽ tạo ra sự không minh bạch rất lớn, từ đó sẽ tạo sự hiểu nhầm trong chi tiêu.

Tôi cho rằng bộ GTVT xây dựng thì lo cho trụ sở của bộ, nơi làm việc cho bộ trong điều kiện ngân sách cho phép nếu phù hợp với yêu cầu hiện nay của nhà nước về việc di chuyển bộ để tập trung vào một số nơi và ra khỏi trung tâm thành phố thì điều nhà nước cũng sẽ bố trí một khoản ngân sách nhất định cho việc đó.
Tiền xây dựng của bộ không thể nói là tự huy động từ ODA hay là vay mượn ở đâu được vì ODA suy cho cùng cũng là đất nước mình đứng ra vay đất nước khác rồi gánh nặng trả sẽ đè nặng lên vai các thế hệ sau này nếu không phải trả sớm ngay bây giờ. ODA không phải là tiền cho không. Không có chuyện bộ nọ bộ kia đứng ra huy đọng ODA cho mình để xây dựng trụ sở cho mình được. Tôi nghĩ là các nước cung cấp ODA cho mình cũng không ai cung cấp cho việc xây dựng trụ sở cơ quan. Họ cũng phải chịu sự giám sát của người dân đã đóng tiền cho chính phủ nước khác đã cung cấp ODA cho mình.
Còn các nguồn khác thì tôi cũng không nghĩ là nhà nước đứng ra đi vay. Tôi tin là chính phủ không cho phép các bộ được tùy tiện đứng ra tự đi vay để làm việc nọ việc kia nhất là đi xây trụ sở cho mình.
Tóm lại, tôi hoàn toàn không ủng hộ đề án này của bộ GTVT. Tôi nghĩ rằng trên đất nước này còn rất nhiều nơi người dân đi đường vẫn phải lầy lội. Nói trong ngành giao thông thì với số tiền hàng nghìn tỉ đồng như vậy không dám nói là sẽ phủ kín đường nhựa trên đất nước này nhưng nó sẽ giúp cho dân bớt khó khăn đi. Tôi tin với một Bộ trưởng bộ GTVT có lương tâm, các cán bộ có lương tâm thì đó là điều hạnh phúc hơn là việc ngồi trong một trụ sở to hoành tráng.
Rộng hơn, trên đất nước này còn thiếu bao nhiêu trường học, bao nhiêu bệnh viện, các cơ sở y tế phục vụ cho người dân. Tôi nghĩ con số như vậy là quá lớn trong khi nhà nước đang còn yêu cầu phải cải cách hành chính, thu hẹp hoạt động, tổ chức hoạt động sao cho hợp lý.

Cảm ơn bà đã trả lời phỏng vấn!


Theo GDVN

Thứ Sáu, 29 tháng 6, 2012

CÂY CỎ VÔ ƯU ( Bài 1) - VÕ CHÂN CỬU

“Tôi” là Ai ?

Mở đầu cho đợt tản mạn này định lấy tựa là “Vô ưu Hoàng Ngọc Tuấn”, Chợt nghĩ, chúng tôi có một tính chung là ít thích ai nói về mình. Vậy thì cứ chọn đại những biểu từ có nghĩa chung chung nhất…

Một chiều cuối hạ đầu thu đâu đó, Hoàng Ngọc Tuấn (HNT) về nhà đưa cho con tôi mấy chiếc bánh và một cành hoa nhiều nụ rồi lẳng lặng lên chỗ của anh trên gác. Cháu Ty, con gái thứ 2 của tôi, năm đó chừng 14 tuổi. Cháu cầm nhành hoa vô đưa cho mẹ, không nhịn được cười, la lên: Chú Tuấn lần đầu mang về cái này. Mẹ xem, hình như chú có “bồ” !
Vốn ở trong Gia đình Phật Tử ngày xưa, vợ tôi lật qua lật lại nhành hoa hồi lâu rồi bảo: hoa “vô ưu” đó con. Hãy đem cắm vào bình.
Thanh sạch
Loài hoa này vốn ở Ấn Độ, ở Việt Nam chỉ trồng được ở một số nhà chùa. Hoa mọc từng chum, cánh phơn phớt tím đào. Nhưng có lẽ do truyền thuyết là nó ở bên cạnh Thái tử Tất Đạt Đa vào thời khắc ngài thành Phật nên ở Việt Nam, những chùm hoa lành nhiều nụ đều được gọi là hoa vô ưu. Cây Asoka (Bồ cạp nước) có gốc từ Nhật Bản, thân cây lớn, hoa vàng từng chùm phủ cành. Nhưng có lẽ vì thấy nó thanh sạch nên nhiều người cũng phong cho nó là hoa “vô ưu” !
Sự cố gây ngạc nhiên của HNT xảy ra vào khoảng đầu thập kỷ 1990. Công nghệ Internet mới bắt đầu phổ biến ở Sài Gòn. Tên tuổi HNT, nhà văn ở Sài Gòn trước 75 được nhiều người yêu mến. Nhưng bạn bè quen biết lại khá ngạc nhiên khi đọc những dòng cậy đăng của anh trên báo Tuổi Trẻ. Anh nói rõ: HNT hiện đang sống ở Việt Nam, không có “liên quan” gì đến bút danh trùng lập được ký ở một tờ tạp chí văn nghệ và trên mạng ở nước ngoài (HNT này ở Australia).

Nghĩ cũng buồn cười. Nhưng chỉ những người làm văn nghệ trước 75 đang còn ở Sài Gòn, phải kiếm sống nhờ các khoản nhuận bút từ những bài dịch, hay bài viết vô thưởng vô phạt thường xuyên được in báo, thì mới rõ được nguồn cơn. Để gây hiểu lầm, tuyên huấn chỉ xuống triệt đường kiếm sống là rớt mồng tơi !
Với sự gia tăng của lĩnh vực tin học, việc ngồi dịch các mẩu bài từ báo nước ngoài chuyển về theo đường nhanh nhất (đặt mua lại từ sọt rác các chuyến bay đến Tân Sơn Nhất), phải âm thầm lụn bại. Nên HNT dần dần chuyển sang viết nhiều hơn về bóng đá, hoặc cho các chuyên mục “cười”. Nhưng sau lần phải “xưng danh” ấy, anh lại ngày càng “vui vẻ” hơn ! Tuấn nổi tiếng là một người lập dị và khó tính. Thường khi vào các quán bia bình dân, anh chỉ ngồi một mình (lúc này bạn bè Việt Kiều chưa về nước, nên mấy khi anh được kéo ghế trong nhà hàng!). Bạn không hẹn, hoặc người nào đó rủi “mến danh” tự động xách ly qua hỏi chuyện, thì sau cái cụng xã giao, anh sẽ đứng dậy qua chỗ khác ngồi lặng lẽ.
Sau khi đem về chùm hoa vô ưu, anh lại “lên lịch” gặp nhau mỗi tuần tại quán 81 (Căng –tin Hội văn nghệ sĩ. Hoặc khi bất ngờ gặp các “bạn bia” hợp ý - như các nhà thơ Phù Hư, Nguyễn Lệ Tuân (nay đã mất), hoặc Trần Từ Duy (lúc đó còn hàn vi), thì Tuấn vẫn có thể ngồi uống dăm ba chai, nói cười xả láng. Cung cách mới này được HNT giữ đến ngày cuối đời.
Năm nay (Nhâm Thìn) nhuần 2 tháng 4, nếu không thì đã sắp đến ngày các bạn kỷ niệm anh giã biệt cuộc đời (4-6 âm lịch). Điều gì đã tạo nên sự thay đổi trong con người Tuấn ? Nhớ lại chùm hoa lạ anh mang về, tôi nói với nhiều người chơi thân: Chắc là Tuấn bắt đầu “vô ưu” ! Các cây bút tự do thường ít vường vào lễ nghi thánh thần. Nên chùm hoa ấy chắc là của một thiếu nữ mới đi chùa về trao anh !

Câu hỏi cũ
Điều đó có lẽ đúng. Những người chơi thân với Tuấn dần dà đã biết trong “thời khóa biểu hàng tuần của anh” có một ngày khá bận rộn. Những cặp nhân tình lúc này thường phải chở nhau về tận Biên Hòa. Ở đó các khách sạn sớm “đổi mới”, không bắt khách thuê phòng phải xuất trình giấy “hôn thú” ! Vào ngày đó anh mới được cỡi lại xe Honda (của người yêu), chứ thường ngày vẫn trên chiếc xe đạp trành ! Ai cũng mừng là Tuấn bắt đầu “vô ưu”, Từ chỗ một nhà văn “Best seller”, anh đã bỏ được mộng thai nghén, sáng tác văn chương ! Mà viết ra (thực sự là sáng tác), muốn đăng được lên báo hay in cũng không phải dễ. Lý lịch, tư tưởng của anh ra sao ? Viết bỏ ngăn kéo lại càng thêm mệt. Và tốn sức. Lại rủi lúc vui miệng tiết lộ, có một cò mồi nào đó vốn là người quen biết cũ trong giới, nay muốn “tiến thân”, thì lại càng them mệt. Vậy thà tạm ngưng hay bỏ quách. Tôi cũng vậy !
“Viết cho ai, viết để làm gì ?”. Câu diễn đạt vốn có tự muôn đời trong văn chương nay lại sắc mùi “quan điểm”. Câu khẳng định của “thần tượng” J.P. Sartre trước kia mang mùi triết học : Tôi tư duy là tôi tồn tại ! Nhưng vào thời văn nghệ độc quyền, câu nổi tiếng của một nhà thơ “lớn”: Tôi là ai giữa mùa thay đổi ấy ?lại muốn bạn phải “thức tỉnh”: Chọn một dòng hay để nước trôi. Muốn có tem phiếu, anh phải là một “con người mới”…
HNT là ai ? Giới văn nghệ Miền Nam nếu không ưa nhau thì chỉ ít gặp nhau. Sự cãi cọ về “thẩm mỹ”, “trường phái” xảy ra trên mặt báo có khi chỉ là chuyện giỡn, gặp nhau vẫn vui vẻ, chơi chung. Nhưng sau 75, tất cả những gì gọi là văn chương đều bị đánh đổ sập, “văn học Miền Nam” chỉ là một cõi chợ trời – như khẳng định của một viên chức làm “nhà phê bình” tại các lớp học “nâng cao tư tưởng” dành cho văn nghệ sĩ. Mất hết tất cả rồi, thôi hãy để chon vùi, việc gì tự những người trong cuộc lại có cái nhìn lệch lạc. Nhà văn (người sáng tác nói chung) thường dễ cảm xúc khi có ai đó nhìn không đúng về mình. Có lẽ điều đó đúng nên có một lần tôi và các bạn thân đã chứng kiến HNT nổi giận. Hôm đó là ngày làm tuần của thân sinh tôi (năm 1987) tại nhà. Một bạn là nhà văn nổi tiếng với nhiều truyện về bản thân “lao công đào binh”. Sau mấy cốc bia làm ngà ngà, anh buộc miệng “nhận định” HNT chỉ là nhà văn của “tuổi mới lớn”. Bất ngờ từ tay Tuấn, một ly bia được ném vào tường, vỡ toang. Anh em vuốt giận cả 2 cây bút khác “trường phái”. Rồi thôi. Tuấn chỉ lầm lì ngồi đốt thuốc củi tới khi tan hàng.

Bóng thời gian…
HNT nổi tiếng là một nhà văn của giới tuổi trẻ. “Tuổi mới lớn” cũng là tuổi trẻ ! Nhưng tuổi trẻ lại có nghĩa là những gì tươi đẹp nhất và không bị giới hạn bởi các khung. Chỉ là nhà văn của “tuổi mới lớn” có khi lại không phải là nhà văn, theo nghĩa người vốn có những ưu tư về thân phận con người. Để giải quyết “vấn nạn” ưu tư này, nhiều cây bút đã lần lượt chọn theo đường tôn giáo, hoặc “ca tụng xác thịt”, tóm gọn là “đạo” và “dục”. Nhà văn của tuổi trẻ HNT ra sao ? Nét đẹp nào của nhà văn trên cõi trần gian ? Tìm câu trả lời này thật khó.
Cuộc đời lại có những diễn biến khó ngờ. Mới tháng 5 vừa qua, Trần Quốc Định nhắn tôi và Phạm Việt Cường, Phù Hư-những bạn thân giai đoạn cuối đời HNT, đến để anh trao lại mỗi người một tập truyện “Ở một nơi ai cũng quen nhau”-bản dành cho tác giả- mới được nhà xuất bản Thời đại liên kết với một công ty văn hóa phẩm tái bản. Phạm Chu Sa là người làm việc cho công ty liên kết mới tung ra loạt sách này, với 4 tựa sách của HNT, Từ Kế Tường, Đinh Tiến Luyện và Đoàn Thạch Biền. Sách in theo loạt “Pocket book”, gáy dán keo, mỗi bìa trình bày theo mô típ in hình một nữ ca sĩ-tài từ Hàn quốc. Ngoài bìa, tên tác giả, các chữ Tuấn, Tường, Luyện, Biền được in khá lớn. Tuổi mới lớn vẫn thường thích các truyện diễn tả cảm xúc “mới biết yêu”. Và các nhà làm sách qua “nghiên cứu thị trường” cứ nghĩ đây là các sách sẽ bán khá chạy. Nhưng, sách chỉ in 1000 bản, mà nghe đâu không được tiếp nhận nồng nhiệt lắm. Phạm Chu Sa sau đó cho biết: ngay cả các sinh viên mới tốt nghiệp đang làm trong công ty liên kết, hiện tại cũng không biết HNT là ai. Hay tại thiếu công đoạn PR (lăng xê trên báo) ? Nhiều người đọc và cây viết mới sau đó đã nói với tôi: Tuổi trẻ bây giờ sống khác xưa, suy nghĩ khác xưa. Hơi đâu ngồi mơ mộng, tưởng tượng như lứia các anh. Vậy họ thích gì ?- Dâm loạn? bạo lực ? như “bóng đè”. Qua một bài nghiên cưứ trên mạng về sách Việt ở Mỹ, tôi nghe nói ở hải ngoại, sách thuần văn học cũng bán rất khó. Người mua chỉ thích các sách tạo “Xì căng đan” về chính trị, hoặc hồi ký, đời tư của các chính trị gia, tài tử nổi tiếng.
Nghĩ lại cũng buồn. Tôi tự an ủi: giá như sách trước 75 in lại theo kiểu tuyển tập hay toàn tập, đóng bìa cứng, dành cho các nhà sưu tập, người lớn tuổi muốn lưu giữ lại một thời đã mất. Thì có lẽ sẽ bán dễ hơn.
Nhiều cây bút, kể ở ở trong và ngoài nước, vẫn không ngần ngại cho rằng bề sâu của các tác phẩm văn chương Việt Nam, kể cả thơ, vẫn còn rất kém so với các nước Âu Mỹ. Mặc cảm nhược tiểu, hay vì những lý do ngoài văn chương ? Tôi tự an ủi mình: Trong thi ca, vì tiếng Việt là một ngôn ngữ riêng, thế giới chưa thể đồng cảm qua bản dịch được.

Câu trả lời
“Tôi là ai”. Tình cờ lật trang cuối cuốn sách mới tái bản của HNT, Tên truyện “Ở một nơi ai cũng quen nhau-OMNACQN” cũng được chọn làm tên sách. Những dòng cuối truyện, HNT đã tự trả lời:
…”Có một người trong những khi thoát ra khỏi sự ào ạt của đời sống, muốn chụp bắt lại nguyên vẹn hay một phần nào quá khứ của hắn, những kỷ niệm tươi đệp hay buồn bã. Một người mà trí nhớ khốn khổ của hắn rất lờ mờ đến nỗi mỗi khi muốn nhớ lại điều gì, hắn chỉ nhớ những chi tiết vô vị nhất, còn bao nhiêu chuyện quan trọng hắn đều quên hết cả. Thế mà lúc nào hắn cũng ao ước được tìm lại hình ảnh của bạn người thân thiết với hắn, của chính hắn, trong khu vườn cỏ dại. Người ấy là tôi.
Tôi là một người mà hồi đó nếu ai có muốn tìm gặp, xin cứ đi vào khu vườn cỏ, đến quán cà phê vào lúc ban đêm và hỏi bất cứ một người naà ở đấy:
- Anh có thấy một thằng người Huế, hơi gầy, tóc dài không chải, áo quần bê bối, miệng hay hát những câu kỳ cục, thường hút một thứ thuốc lá hiệu Lạc Đà, hay bó gối ngồi một mình với dáng cô độc buồn bã. Nhưng thật ra hắn không có gì buồn cả đâu, đôi khi hắn sung sướng kinh khủng mà vẫn cứ mang bộ mặt thảm hại ấy như thường. Anh có biết thằng đó không ?
Chắc chắn là ngưới nào đó cũng sẽ trả lới bằng một cái gật đầu, vì họ đều quen biết hắn, cũng như ở đây mọi người đều quen biết nhau.
(1969)
Cũng với tựa sách này, năm 2005 chị Đặng Hòa Bình, một người đọc mê văn HNT đã tự bỏ tiền ra in tập sách tại Mỹ dưới nhãn hiệu NXB Hòa Bình, do Hoàng Xuân Sơn viết lời tựa. Hai tập OMNACQN in tại Mỹ và Việt Nam khác nhau vì các truyện có do người sưu tập chọn ra tuỳ tư liệu có trong tay (37 năm đã có nhiều thất tán). Trước 1975, chị Hòa Bình đã tình cờ gặp được NHT, và làm quen với nhà văn. Dù chưa nói nhiều chuyện, nhưng người độc giả đặc biệt này vẫn giữ hình ảnh và những trang văn của người mình quý mến. Gặp chúng tôi tại Sài Gòn tháng 12-2011, Hòa Bình cho biết sẽ tiếp tục để in thêm một tập sách thật xứng đáng của HNT.
Khó mà diễn tả được hạnh phúc của một nhà văn từng tự hỏi “Tôi là ai”.

Thứ Năm, 28 tháng 6, 2012

NẰM BỆNH VỚI THƠ - HOÀNG LỘC

huyết áp anh không ổn
và trời mưa thất thường
mùa ngâu vào tháng sáu
có chạnh lòng em không ?

anh vừa ăn chén cháo
ăn nửa chén đã nhàm
cái miệng nghe đắng chát
nuốt vội cùng tiếng than

trái tim anh không ổn
đã đập nhiều nhịp hơn

trang thơ anh cũng bệnh
nằm bên cạnh đời anh
cả hai cùng thiếu vắng
cả hai đang rất buồn...

24-6-2012

Thứ Tư, 27 tháng 6, 2012

GỬI MỘT KHI NÀO - NGUYỄN LƯƠNG VỴ

I.
Mần thơ gửi một khi nào
Đã xong một cuộc tào lao
Thiên tặc gọi thì phải dạ
Địa phủ đón thì phải chào
Chào cái thây về cát bụi
Mừng cái phách hẹn trăng sao
Thiệt tình vẫn còn tiếc lắm
Cái em ngần mộng phỗng phao…
II.
Phỗng phao một cuộc rong chơi
Nồng tanh thơm thảo một đời
Búng huyết sưng âm mộ địa
Giọt tinh rộ sắc luân hồi
Một niềm thương không đủ gọi
Bao nỗi nhớ chẳng kịp bồi
Muôn nẻo trùng sinh náo nhiệt
Dè đâu ta chết lâu rồi…
III.
Chết lâu rồi giọt nắng phai
Giọt mưa tan đàn nuối dài
Quen lạ hình hài nhớn nhác
Cuồng mê hồn cốt miệt mài
Ma đấy hử ta đấy hử
Ta là ai ma là ai
Chậc lưỡi trọn đời lầm lũi
Cầu bơ cầu bất hỏi hoài…
IV.
Hỏi cứ hỏi hú cứ hú
Quỳ xuống nhìn đêm mới lú
Huyền hồ một búp trăng non
Trắng muốt hai bờ ngực nhú
Cỏ ngất âm đang tượng thanh
Em lừng hương vừa hé nụ
Hú cứ hú quỳ cứ quỳ
Rưng rưng nắng khuya thầm nhủ…
V.
Mần thơ gửi một khi nào
Hắt hơi thở một cái phào
Xuôi tay vui nhé trời đất
Nhắm mắt sướng chưa thấp cao
Bao nhiêu nợ ợ cho sạch
Bấy nhiêu tình ói cái ào
Chẳng có đếch gì phải hỏi
Chờ nhau cái lạnh thấm vào…
VI.
Chờ nhau cái lạnh mênh mông
Phách bay rờm rợp xa trông
Vỗ cái không bồng cái rỗng
Động cái bóng tịnh cái mồng
Trồng một rừng âm thánh thót
Gieo hai núi nhạc bềnh bồng
Thiệt là sang thiệt là bảnh
Ma ta độc ẩm vui không?!…
VII.
Vui chẳng vui sầu chẳng sầu
Chỉ thèm ôm hết sắc màu
Đỏ au từ muôn kiếp trước
Hồng tươm tự thuở sơ đầu
Nâng giấc em tràn mộng ảo
Đỡ hồn ta khẳm chiêm bao
Rồi sao nữa rồi sao nữa?
Thì mần thơ tiếp chứ sao!!!…
9.2011

Thứ Ba, 26 tháng 6, 2012

NGUYỄN ĐỨC SƠN - CHÂN DUNG VÀ HUYỀN THOẠI - NGUYỄN MẠNH TRINH

Nguyễn Đức Sơn - Tranh Đinh Cường

Nguyễn Ðức Sơn là một khuôn mặt thi sĩ lớn của văn chương Việt Nam. Một phong cách văn chương riêng, một mình một chiếu, thơ và văn bộc lộ một tâm thái suy tư khác thường đi ngược lại dòng sống thay vì xuôi chảy.
Ông là người làm thơ mà cuộc sống văn chương và đời thường đã tạo thành nhiều huyền thoại. Những chuyện kể về, những giai thoại nói đến, một chân dung tác giả khác thường được tạo dựng và người đọc, không phải chỉ ở những lớp sau mà ngay ở lớp cùng thời, đã có những nhận định sai lạc về chân dung thực con người thực. Ðó là không kể, như ở trong nước, vì lý do lợi nhuận đã có những cuốn sách khai thác quá độ đời tư để đến thành những khoảng cách thật xa với thực tế.

Bao nhiêu quyển sách, bao nhiêu bài báo đã nói về Bùi Giáng, về Trịnh Công Sơn, về Nguyễn Ðức Sơn…. Và đã có bao nhiêu ngộ nhận xảy ra vì những chi tiết trái ngược nhau từ bài viết này với cuốn sách khác của một chân dung tác giả. Ðộc giả, có lẽ phải có sự cẩn thận khi tiếp cận với những vấn đề đó.
Thí dụ, như trường hợp nhà thơ Nguyễn Ðức Sơn. Có rất nhiều bài viết về ông, của những người quen thân có, quen sơ có và nhiều khi không quen cũng tự nhận là quen có. Trong đời thường, Nguyễn Ðức Sơn có nhiều bi kịch. Và nhiều bài viết khai thác những bi kịch ấy. Thí dụ như “Người đàn bà trên đồi cỏ” của Ðào Hiếu đăng trên báo Xuân Doanh Nhân Sài Gòn cuối năm 2008.
Ðào Hiếu viết về mối tình của Nguyễn Ðức Sơn và Phượng đầy thiên kiến và hình như bày tỏ một nhận xét nào không thiện cảm. Và lạ lùng cũng đều nhắc đến Trịnh Công Sơn:
“Nhưng tôi biết nàng rất đẹp.
Trịnh Công Sơn cũng biết nàng rất đẹp.
Nguyễn Ðức Sơn thì chửi bới nguyền rủa mọi thứ. Tôi nói:” Tôi đến đây để tìm một Nguyễn Ðức Sơn vĩ đại nhưng tôi chỉ gặp một Phượng vĩ đại. Nếu không có người đàn bà này, ông đã chết rồi Sơn ạ!…
…Năm 1972, Nguyễn Ðức Sơn trốn lính về tá túc ở Bình Dương dạy Anh văn tại một tư thục. Nếu không gặp Phượng hắn sẽ chẳng có tác phẩm nào ra hồn. Phượng rọi hào quang của nàng vào cái đầu mê gái tơi bời của hắn và hắn được cô “độ” cho thành… thi sĩ. Tác phẩm “Ðêm nguyệt Ðộng” ra đời từ dòng nước cam lồ róc rách tuôn ra từ nhục thể của “thánh cô Annie Phượng”
…Nhưng những vần thơ mê gái thượng thừa ấy cũng không lay động được Annie Phượng. Chàng khóc lóc rên xiết quỳ lạy… cũng chẳng ăn thua bèn dùng khổ nhục kế. Nếu như ngày nay thì chàng thi sĩ sẽ quấn chất nổ quanh mình rồi lao vào “đánh bom tự sát” nhưng Nguyễn Ðức Sơn thời đó đã trèo lên thành giếng và kêu lên “Bớ Chúc Anh Ðài! Ta chết đây” làm Phượng hoảng hốt. Cuộc hôn nhân bắt đầu như vậy…”Cuộc sống của gia đình Nguyễn Ðức Sơn ở Phương Bối Am cũ là một thảm kịch. Sống như những sơn nhân, thiếu thốn tiện nghi đời sống và luôn luôn bị cái đói đe dọa. Một bữa cả gia đình gồm hai vợ chồng và 3 đứa con bị trúng độc vì ăn rau rừng và một đứa con bị chết. Bà mẹ phải lấy áo rách của mình ra vá để khâm liệm cho con.
Một lần khác khi chữa cháy rừng Phượng bị phỏng nặng. Nguyễn Ðức Sơn và người con trai lớn Nguyễn Ðức Vân phải băng rừng cáng ra nhà thương tỉnh cứu cấp với bệnh tình rất trầm trọng.
Ðào Hiếu kể:
“Ba hôm sau Trịnh Công Sơn từ Sài Gòn lên ghé bệnh viện Bảo Lộc.
“Sơn Núi” hỏi “mày lên đây làm gì?”
Sơn Nhạc Sĩ đáp:”Thăm Phượng. Sao nỡ hành hạ người ta đến vậy?”.
“Sơn Núi” bỏ đi. Trịnh Công Sơn ở lại với các con của Phượng. Có lẽ hôm đó là một ngày của năm 1982. Tôi không biết và các con của Phượng cũng không biết chính xác là ngày nào và tháng nào. Trịnh Công Sơn đã tặng cho gia đình Nguyễn Ðức Sơn 60 triệu đồng. Thời điểm đó số tiền ấy rất lớn. Nó đã cứu Phượng và giành giật Phượng khỏi tay tử thần.”
Một nhà văn cũng quen thân với Nguyễn Ðức Sơn là Nguyễn Ðạt nhận xét về bài viết của Ðào Hiếu:
“Và bài báo của Hà Danh (tức Ðào Hiếu) lúc tôi đọc ở Sài Gòn thấy có nhiều sự kiện về Sơn Núi, về Phượng quá lạ lùng quá không đúng sự thật như tôi biết. Nói chung đọc xong cả bài “Người đàn bà trên đồi cỏ” tôi muốn đề nghị tác giả nên chuyển thể thành một vở tuồng cải lương và Hà Danh rất có khả năng trở thành một soạn giả cải lương ăn khách nhưng khác hẳn với những sọan giả tuồng cải lương như Viễn Châu. Tôi chưa thấy Viễn Châu dựng khống một sự kiện liên quan trực tiếp tới nhân vật vụ việc nào có thật ở ngoài đời. Nên khi tôi vừa lấy tờ báo ra Sơn Núi liền nói: “đ.m. cái lão đào hang càng đào sâu càng tối đặc!”. Tôi không hiểu gì hết. Hóa ra, Sơn Núi gọi nhà văn Ðào Hiếu là đào hang và Sơn Núi nói Hà Danh là bút hiệu khác của Ðào Hiếu. Tôi rất ngạc nhiên khi biết vậy và khá buồn bởi tôi quen biết nhà văn Ðào Hiếu và mến ông. Tôi thấy Ðào Hiếu là một người rất văn nhã lần gặp gần nhất tại một quán cà phê trên đường Trần Quốc Thảo tôi nhận lời viết về Nguyễn Ðức Sơn cho trang web của ông, hình như tên là ” Lề bên trái”. Sau đó tôi được nhiều người bạn cho biết những gì Ðào Hiếu viết không bảo đảm trung thực nên tôi không thể viết bài về Nguyễn Ðức Sơn cho báo mạng của nhà văn Ðào Hiếu được dù đã nhân lời.
Sơn Núi nói: “không thể hiểu lão đào hang ở chỗ nào ra cái vụ việc “nhạc sĩ hàng đầu về đầu hàng” họ Trịnh cho tôi sáu chục triệu đồng nhờ đó Phượng thoát chết.” Phượng, Nguyễn Ðức Lão con trai út anh của hai cô em sinh ra sau chót năm nay 27 tuổi, và Tiểu Khê con gái út của Sơn núi cũng không hiểu người viết bài về họ lấy ở đâu ra vụ việc Trịnh Công Sơn tặng Nguyễn Ðức Sơn sáu chục triệu đồng vào cái năm một chín tám mấy đó số tiền ấy rất lớn. Phượng nói: “Trịnh Công Sơn ghé lên đây hai lần trong một chuyến đi chơi ở Ðà Lạt. Lúc lên tặng một thùng mì chay ăn liền lúc về tặng một thùng “légume”Ðà Lạt, vậy thôi, chớ làm gì co vụ việc sáu chục triệu đồng.” Sơn Núi xác định thêm: “Ông không tin cứ hỏi Bửu Ý, người rất sùng mộ Trịnh Công Sơn và rất không ưa tôi, coi Bửu Ý nói sao về vụ việc Trịnh Công Sơn cứu tử hoàn sanh bà xã tôi với số tiền sáu chục triệu đồng”. Ngay sau khi đọc bài báo tôi hỏi họa sĩ Trịnh Cung bạn thân của Trịnh Công Sơn có biết vụ việc nhạc sĩ họ Trịnh tặng Sơn Núi 60 triệu? Trịnh Cung bảo không biết vụ đó. Thế thì tôi cực kỳ ngạc nhiên không thể hiểu nhà văn Ðào Hiếu lấy ở đâu ra cái tin động trời đất đó. Trong bài ký tên Hà Danh ông viết đại ý rằng ông không nhớ rõ, những người con của Phượng cũng không nhớ rõ ngày tháng nào nhưng là những năm của thập niên 1980 và 60 triệu đồng cũa Trịnh Công Sơn tặng thời gian đó là lớn lắm. Tôi hỏi Sơn Núi – Ðào Hiếu ‘phịa” chuyện ấy thì quá sức bậy, người trong vụ việc có thể thưa kiện ở tòa án không hiểu sao Ðào Hiếu lại phịa như vậy nhỉ? Sơn Núi nói ngay” Thì lão muốn gia nhập “fan club” của Trịnh Công Sơn mà ông không thấy một loạt bài đánh bóng Trịnh Công Sơn trong tờ báo này hả? Này lão đào hang viết” Tôi thấy Phượng đẹp / Trịnh Công Sơn cũng thấy Phượng đẹp. Phải lôi lão “nhạc sĩ hàng đầu về đầu hàng” cùng khen Phượng đẹp thì Phượng mới đúng là đẹp”.
Tôi không biết nhà văn Ðào Hiếu gặp Phượng từ năm nào, chứ từ vài chục năm nay, Phượng quá hom hem gầy guộc. Tôi xót xa khi thấy Phượng “lai”, là lai người dân tộc Tây nguyên ở vùng sâu vùng xa chứ không được như người dân tộc ở thị xã B’lao này. Bài báo “Người đàn bà trên cỏ”, câu chuyện tào lao trá ngụy, Sơn Núi và tôi thà nói chuyện bậy bạ thô tục còn hay hơn sáu chục triệu lần..”
Một thực tế văn học là nhiều khi những huyền thoại văn chương lại phát nguồn từ những bài viết khơi khơi như thế. Ở trong nước với người đọc của dân số hơn 80 triệu một thị trường béo bở thì việc để câu khách lôi kéo độc giả cho mục đích bán sách bán báo, đã có bao nhiêu bài viết về Trịnh Công Sơn, về Bùi Giáng, về Phạm Công Thiện, về Nguyễn Ðức Sơn.. tràn lan như một mốt thời thượng. Thành ra, con người nghệ sĩ của văn chương nhiều khi bị nhòa nhạt đi vì những bài viết kiểu của ông “lạc đường” Ðào Hiếu này.
Nguyễn Ðức Sơn, một nghệ sĩ quái dị. Một trong những nhà thơ tiêu biểu của hai mươi năm văn học miền nam. Một trong những nhà văn luôn đi tìm trong cuộc sống những câu trả lời không thể trả lời. Một trong những người không thể thỏa hiệp với cuộc đời và đi ngược dòng sống với thái độ hung hăng gây gổ. Một trong những người sống trong những bi kịch của loài người. Một trong những người sống phân hai giữa đời thơ và đời thường, giữa tu tập và buông thả, giữa dục tính và lãng mạn. Thế giới của Nguyễn Ðức Sơn là một thế giới kỳ quặc mà con người phân chia thành nửa này nửa kia luôn luôn chống đối nhau và không bao giờ thỏa hiệp với nhau. Nguyễn Miên Thảo đã viết về mẫu người thi sĩ đặc biệt này:
“Nguyễn Ðức Sơn là một người đầy cá tính mà nếu không hiểu thì tưởng là khó tính. Tính cách của ông khác người luôn luôn mâu thuẫn với chính mình. Tôi nghĩ sự “va chạm” nội tại đã đưa ông tới đỉnh điểm của sáng tạo trong tác phẩm của ông. Tâm địa của ông thì rộng bao la nhưng hay… thù vặt, rất mê chủ nghĩa Cộng sản nhưng không ưa “cách mạng” sẵn sàng chửi cả những người khen ngợi ông dù người khen rất thật tình và có nhân cách nhưng trong bụng nguyễn Ðức Sơn thì sướng rơn. Tôi ví dụ một câu chuyện nhỏ. Sau khi tập thơ Những Bài Tình Ðầu ra đời, nhà văn Tam Ích, một nhà văn đứng đắn và nổi tiếng thời đó viết một bài phê bình khen thơ Nguyễn Ðức Sơn hết lời. Nguyễn Ðức Sơn viết một bức thư ngắn nhờ tôi đem về Sài Gòn trao tận tay nhà văn Tam Ích. Nội dung lá thư không phải là lời cám ơn mà vỏn vẹn một dòng chữ như sau: “Bởi vì ông là nhà văn đứng đắn nên tôi không biết chửi ông như thế nào.” Nhà văn Tam Ích nhận thư không giận lại viết thêm một bài ca ngợi Nguyễn Ðức Sơn là thiên tài mặc dầu không nói ra nhưng tôi biết Nguyễn Ðức Sơn sướng trong bụng lắm. Sướng không phải được khen mà vì có cơ hội để chửi người khác…”

Và chuyện kể về mối tình của chàng thi sĩ dị thường kỳ quặc :
“Cuộc tình của Nguyễn Ðức Sơn và cô học trò Nguyễn Thị Phượng chín mùi khi nào thì quả tình tôi không hay biết. Một hôm vào khoảng giữa năm 1967-1968 gì đó tôi không nhớ đích xác Nguyễn Ðức Sơn nhờ tôi lên báo với thầy Thanh Tuệ in gấp tập thơ Ðêm Nguyệt Ðộng để kịp ngày đám cưới. Và khoảng mười ngày sau đám cưới Nguyễn Ðức Sơn- Nguyễn Thị Phượng dược tổ chức tại chùa Tây Tạng Thủ Dầu Một Bình Dương.
Từ sáng sớm một chiếc xe con 4 chỗ ngồi đỗ trước nhà Nguyễn Ðức Sơn, Sơn trong bộ com-lê màu sẫm sang trọng đầu húi cua đã chờ sẵn đón những người trên xe bước xuống đó là Ðại Ðức Thích Thanh Tuệ, chủ nhà xuất bản An Tiêm, giáo sư nhà văn Bửu Ý và Ðại Ðức Thích Nguyên Tánh tức nhà thơ Phạm Công Thiện, Khoa trưởng Văn Khoa Ðại Học Vạn Hạnh. Khi biết tập thơ Ðêm Nguyệt Ðộng không in kịp Nguyễn Ðức Sơn chào đón đoàn nhà trai một câu chửi “Ð.m. thầy thầy có biết ngày hôm nay là ngày trọng đại của tôi không?” Thầy Thanh Tuệ cười trừ còn mọi người thì đã biết Nguyễn Ðức Sơn là ai rồi.
Ðám cưới cử hành tại đại điện chùa Tây Tạng. Thượng tọa Thích Trí Bổn trụ trì chùa, cậu ruột của cô dâu Nguyễn Thị Phượng đại diện nhà gái vừa là chủ hôn (Phượng mồ côi cha mẹ về ở với cậu từ nhỏ). Ðại Ðức Thích Thanh Tuệ đại diện nhà trai, Ðại Ðức Thích Nguyên Tánh ( tức nhà thơ Phạm Công Thiện) và nhà văn Bửu Ý phụ rể. Trong khi niệm hương lễ Phật, Thượng tọa Thích Trí Bổn và Ðại đức Thích Thanh Tuệ quì phía trước, Sơn và Phượng quì phía sau. Sơn dùng miệng mum hết chân nhang khi cắm nhang vào lư ba cây nhang của Sơn lùn tịt không giống ai. Khi qua làm lễ cáo tổ tiên Sơn láy mắt với tôi, tôi nghĩ Sơn bày trò gì đây nhưng không nghĩ ra. Bàn dọn cỗ là loại bàn tròn bằng gỗ mạt bàn rời đặt trên cái giá bốn chân hình chữ X, Sơn và Phượng quì trước bàn cáo tổ tiên lậy bốn lạy Sơn lạy thêm một lạy trồi người tới trước khi đứng dậy đầu dội vào cạnh bàn cỗ bàn bị lật đổ không còn một món. Những người dự lễ cưới không ai không cười trừ Bửu Ý.
Một tuần lễ sau đám cưới tôi từ Sài Gòn về Bình Dương thăm vợ chồng Nguyễn Ðức Sơn vừa bước vào nhà tôi thấy Sơn cầm một con dao dí Phượng vào sát vách. Tôi kêu lên. Sơn làm gì vậy? Sơn vứt dao choàng vai tôi bước ra ngoài “Moa muốn đo sự sợ hãi của Phượng như thế nào!”…”
Trong bài viết của Thái Ngọc San, một nhà văn Việt Công nằm vùng trước năm 1975 khi viết về đời sống gia đình của Nguyễn Ðức Sơn trong truyện ngắn “Bầy Thú Hoang Dã” đã phác họa những người trong gia đình không khác lắm so với những thú rừng hoang dã. Gia đình đông con, vợ thì yếu dại làm sao mà không nghèo khổ cơ cực. Thái Ngọc San nhìn vào bề mặt đời sống ấy mô tả và có chút phê phán rằng nguyễn Ðức sơn có dã tâm của loài thú và tự mình tạo ra những bi kịch đời sống cho gia đình mình. Nhận xét ấy là của người không đi sâu được vào phần trong của cuộc sống ấy.
Nhưng có người viết nhìn bằng con mắt quan sát khác. Chân dung thi sĩ Nguyễn Ðức Sơn là một chân dung đặc dị , mà những chi tiết thường khi trái ngược nhau từ những quan sát nhận xét khác nhau. Nhà văn Nguyễn Ðạt một người có rất nhiều gần gũi với đời thường Nguyễn Ðức Sơn viết:
“Hiển nhiên qua cách nhìn nhận như Thái Ngọc San ở truyện ngắn này thì chỉ ghi lại cái bề mặt của cuộc sống Nguyễn Ðức Sơn và mặc nhiên với những trách cứ phê phán của người quan sát thiếu tâm tình.
Trong gần gũi Nguyễn Ðức Sơn nhiều ngày tháng chúng tôi hiểu rõ nhà thơ Nguyễn Ðức Sơn không hề có dã tâm của loài thú để tạo nên đời sống như Thái Ngọc San đã ghi nhận Ðó là cuộc sống cực chẳng đã phải như vậy mà thôi muốn khác đi cũng không được. Nguyễn Ðức Sơn không biết làm gì khác để thay đổi cuộc sống như bầy thú hoang dã, ông lại càng không thể tính toán bon chen giành giựt với nhân thế. Trên trái đồi rộng bốn năm héc-ta ông không biết và cũng không ưa trồng loại cây nào cho có lợi nhuận ngoài cây thông mà ông yêu thích. Cũng vì Nguyễn Ðức Sơn chăm chút nuôi trồng thông từ mấy chục năm nay trái đồi mang tên Phương Bối ở thôn Ðại Lão xã Lộc Châu bây giờ gần như là nơi duy nhất để ngàn thông còn tồn tại trên cao nguyên hoang sơ Bảo Lộc…
Sự thật mà chúng tôi biết Nguyễn Ðức Sơn đầy tình cảm yêu thương con người như mọi người thiện tâm khác. Lần Phượng bị bệnh thập tử nhất sinh phaỉ giải phẫu tại bệnh viện Chợ Rẫy, chúng tôi ngồi bên ông ngoài hành lang trước phòng giải phẫu. Ông rất căng thảng chờ đợi kết quả phẫu thuật. Chợt có tiếng cô y tá kêu lớn tên ông nước mắt ông tuột ra chảy dài trên khuôn mặt. Ông ngỡ cuộc phẫu thuật thất bại. Phượng đã chết! Hóa ra không phải cô y tá gọi ông để báo tin lành. Và Nguyễn Ðức Sơn cẳng nhảy lên như đứa trẻ vui mừng tột độ.
Lần một đứa con của Nguyễn Ðức Sơn bị bệnh nằm liệt giường chúng tôi cũng có mặt trên đồi Phương Bối. Ông cuống cuồng chạy xuống đồi hỏi người này người kia để chữa chạy kịp thời cho con. Có người bày cách cho người bệnh ăn thịt cóc sống. Ông hét vang như hóa điên vì gặp ngay người bán thịt cóc đi ngang qua. Mang thịt cóc về cho đứa con ăn ngay chợt ông nhớ cả gia đình vốn ăn chay trường ông vội thắp nén hương niệm Phật xin xá tội. Ðứa con vừa nuốt miếng thịt cóc lập tức nôn mửa thốc tháo. Ông lại cuống cuồng lại chạy xuống đồi kêu xe ôm, ôm con ngồi lên xe đưa vào bệnh viện. Ở bệnh viện lúc đứa con đã an toàn đã đi đứng trở lại bấy giờ mới để ý ông chỉ mặc quần cụt mà lại thủng rách cả đũng. Nhưng Nguyễn Ðức Sơn lúc đó vui rộ lên nói lắp bắp những câu hí lộng về cái quần thủng rách…”
Ðời sống của một thi sĩ như Nguyễn Ðức Sơn đầy những biến cố của bi kịch. Là người ngông cuồng kiêu ngạo không coi ai ra gì và ăn nói lỗ mãng dung tục hay chửi thề? Là một người nổi loạn vô chính phủ dùng văn chương để quăng quật vào đời sống những hằn học chất chứa? Là một người không thừa nhận bất cứ một trật tự nào trên thế giới nhưng lại coi thi ca như một tôn giáo linh thiêng?
Tuệ Sĩ đã hỏi về khuôn dáng Nguyễn Ðức Sơn:
“Anh là ai? Là một nhà thơ hiện sinh, nổi loạn, quậy phá? Dưới ngòi bút phê bình anh không thể khác đi được: hiện sinh, nổi loạn, quậy phá, du côn. Tôi cũng không nghĩ khác hơn những ảnh tượng và những ấn tượng mà ngòi bút có thể vẽ, có thể miêu tả. Một gã du côn, một tên phạm thánh. Và còn nhiều từ khác nữa. Nhưng làm sao có thể biết được, một người không đến với ta từ con đường trước mặt, hay bằng tiếng gọi từ sau lưng, mà là một cái gì đó, ở đâu đó.. ”

Với tôi, trong cảm quan của riêng mình, tôi thấy khi đọc thơ hoặc truyện ngắn của Nguyễn Ðức Sơn, tôi mường tượng thấy hình như thế giới của ông không phải là của mặt đất hiện hữu này. Ông sống như để muốn biểu lộ những suy nghĩ bị khép kín bị đóng băng. Thành ra ông như một con tê giác ( tượng hình mà nhà văn Bửu Ý gán cho ông) cứ húc vào hư vô như một phản ứng tự nhiên của một người hình như không còn lý đến căn cước của mình mà vẫn phải sống, vẫn phải trôi theo dòng đời trong khi muốn ngược lại để bơi vào cái khu vực thâm u của chính mình nhưng cũng chưa hề hiểu rõ điều gì là huyễn ảo và điều gì là thực tế.
• Nguyễn Mạnh Trinh

Thứ Hai, 25 tháng 6, 2012

THẾ RỒI MỘT BUỔI CHIỀU VÀNG - VÕ CÔNG LIÊM

gió ngả nghiêng sầu vạn đợi
mưa gọi nguồn lau lách
khoát áo khinh cừu
một buổi chiều vàng
non
đứng đợi khóc sâu miền quá khứ
sông
phôi pha chảy siết không ngừng truông
ôm trọn gói một tinh cầu lơ lửng
rừng xa mây đợi mãi cuối chân trời
đêm
khổ nhục kế
ngày
thôi miên mê
thế rồi
tình lận đận quan san mờ dục vọng
gió quay cuồng thổi vội giấc cung thương
chảy quằn quèo lên ngọn khói chết đam mê say
lửa cháy
tình ta thêm mộng mị
đoá quỳnh
nở vội đêm đen sôi
sông khóc những lúc bất chợt ướt đẫm tóc mây mờ
thổi vô bờ điạ ngục
trần thế chết khi mô

sách trắng trang thư phục vị niệm kinh chầu
chấp nhất đói vọng cổ sinh tăng tiết
áo ngũ thư am thục lúa lốc mòn cánh quạ
song hệ dẫn vãn mộ khúc tiêu tương hà chí dị
ta một hoàng hôn trở giấc
em bóng nguyệt đã qua rồi …


Võ Công Liêm
(ca.ab. 6/2012)

Thứ Bảy, 23 tháng 6, 2012

THƠ LÊ NGỌC THUẬN

CHƯƠNG HÔN MÊ

Cái đầu mụ mẫm hôn mê
Chiêm bao cứ tưởng người về đêm nay
Hóa ra nửa tỉnh nửa say
Cầm ly rượu ngỡ cầm tay của người.

NGUYỄN CA

Xưa anh chậm trễ cau trầu
Để em nhỡ bước qua cầu Bá Vương
Thù mưa, hận nắng vô thường
Làm cho lộn lối lạc đường xa nhau
Em bồ câu hay diều hâu
Bay đi bỏ lại bóng sầu trong anh.

LNT

Thứ Sáu, 22 tháng 6, 2012

NHỚ TRỜI THÁNG GIÊNG - NGUYỄN MIÊN THẢO

Nhớ trời tháng Giêng

Thời gian cứ mãi trôi mau
Ngồi nhớ từng chút ngày đầu gặp em
Nhớ từng sợi tóc em mềm
Nhớ sao giọng nói dịu hiền,xanh xao
Nhớ em một chút gầy hao
Em là ngọn gió thổi vào đời anh
Nhớ từng hơi thở mong manh
Nhớ em mỗi sáng dòn tan tiếng cười
Nhớ em một thoáng bờ môi
Nhớ con mắt biếc nhớ trời tháng Giêng

Thứ Năm, 21 tháng 6, 2012

CAO HUY KHANH - VN HỒ SƠ HẬU CHIẾN 1975 -2012 ( KỲ 116 )

NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ

1.161 - Chân Tín
THỜI NÀO CŨNG ĐẤU TRANH CHỐNG CHẾ ĐỘ
Linh mục Thiên Chúa giáo sinh 1919. Sống ở TPHCM (2012).
hời VNCH cùng đồng đạo Nguyễn Ngọc Lan nổi tiếng chống chế độ Thiệu - Kỳ theo Mỹ, chống chế độ lao tù bất công kiểu quân phiệt, đấu tranh cho quyền tự do dân chủ quần chúng. Chủ trương tạp chí Đối Diện tập hợp giới trí thức Thiên Chúa giáo tiến bộ và thiên tả nói lên nguyện vọng đó.

Nhưng sau 1975 khi đã có thời gian nhận chân thực tế chế độ mới Cộng sản cũng không hơn gì trong việc thực hiện quyền con người như trên nên lại tiếp tục phản đối chính quyền Cộng sản. Đòi hủy bỏ Hiến pháp 1992, tẩy chay bầu cử Quốc hội chỉ thể hiện quyền tự do dân chủ giả tạo “làm vì” mà thôi.
Vì vậy năm 1990 bị bắt quản thúc tại huyện Cần Giờ xa xôi xem như cách ly khỏi TPHCM.
Được dư luận nước ngoài lên tiếng bảo vệ, in phổ biến rộng rãi cuốn “Hồ sơ Chân Tín” phê phán chế độ Cộng sản VN bóp nghẹt quyền tự do ngôn luận, đấu tranh phi bạo lực của công dân.
Cho nên năm 1993 được chính thức trả tự do về lại cư trú tại nhà thờ Dòng Chúa Cứu thế ở TPHCM nơi từng là “đại bản doanh” của linh mục quá cố Nguyễn Ngọc Lan.

Từ đó xem như bị quản thúc tại gia và mặt khác có lẽ do đã lớn tuổi nên cũng ít thấy hoạt động mạnh mẽ sôi nổi như trước nữa.

1.162 - John C. Schafer
CUỘC TÌNH TÁO BẠO ĐẤT CỐ ĐÔ
Giáo sư đại học Mỹ về hưu sinh khoảng 1944. Sống ở Mỹ (2012).
Năm 1968 là sinh viên tình nguyện Mỹ từ một tổ chức xã hội phi chính phủ đến Đà Nẵng dạy tiếng Anh, sau đó ra Huế dạy tiếng Anh ở ĐH Huế.
Chính tại đây đã làm quen với nhạc Trịnh, làm bạn với Trịnh Công Sơn.
Và cũng tại đây nảy nở mối tình nên thơ với một cô sinh viên học trò chính gốc đất thần kinh con nhà gia giáo học ĐH Sư phạm Anh văn.
Cô này sau đó tốt nghiệp ra Quảng Trị dạy học đã quyết định làm đám cưới với ông thầy người Mỹ trẻ trung tài hoa bất chấp sự ngăn cản của gia đình. Thời đó ở xứ cố đô nặng phong kiến, việc con gái lấy chồng nước ngoài còn khá hiếm hoi mà lại là chồng Mỹ khi đang sôi sục phong trào chống Mỹ xâm lược VN nên đây quả là một “scandal” xã hội!
Vì thế không lâu sau đó người chồng Mỹ đành phải đưa vợ mới cưới về Mỹ sinh sống.
Dù bất đắc dĩ phải rời bỏ VN nhưng phải nói ông chồng Mỹ này là một người rất yêu mến VN thật lòng nên từ đó vẫn tiếp tục nghiên cứu viết báo in sách nhiều công trình về văn học nghệ thuật và lịch sử VN. Đặc biệt bây giờ với sự cộng tác gắn bó của người vợ VN trong công tác dịch thuật tác phẩm VN ra tiếng Anh làm tư liệu giúp chồng cũng như dịch các tác phẩm của chồng qua tiếng Việt.
Công việc đó vẫn được duy trì, tiến hành bền bĩ hơn 40 năm đến nay qua vô số đề tài văn hóa VN cả thời hiện đại lẫn cổ điển, cả VNCH lẫn Cộng sản không phân biệt. Đề tài âm nhạc có Trịnh Công Sơn, Phạm Duy; đề tài văn học gồm Lục Vân Tiên, Hoàng Ngọc Phách, Phạm Duy Tốn, Hồ Biểu Chánh, Cung Giũ Nguyên, Võ Phiến, Phan Nhật Nam, Minh Đức Hoài Trinh, Nguyên Ngọc, Lê Lựu, Nguyễn Minh Châu…
Cả 2 vợ chồng đã nhiều lần trở lại VN, về thăm Huế kỷ niệm một tình yêu không biên giới sâu sắc chung thủy.
Năm 2001 đã ra Hà Nội dự đêm nhạc kỷ niệm một năm mất Trịnh Công Sơn. Năm 2012 tác phẩm “Trịnh Công Sơn – Bob Dylan: Như trăng với nguyệt?” được in tại TPHCM qua bản chuyển ngữ của người vợ quê Huế.

1.163 - Nguyễn Văn Huyền
PHÓ TỔNG THỐNG “3 NGÀY”
Luật sư sinh 1911 tại Sóc Trăng – Mất 1995 ở TPHCM (85 tuổi).
Thời Pháp du học Pháp ngành luật.
Năm 1949 ra luật sư về hành nghề tại Sài Gòn. Từng làm luật sư biện hộ cho một số lãnh tụ Cộng sản bị Pháp bắt giữ truy tố tội chống chế độ như Hà Huy Tập, Nguyễn Hữu Thọ… Sau 1954 tiếp tục làm luật sư ở Sài Gòn. Rất có uy tín trong giới Thiên Chúa giáo đồng đạo theo khuynh hướng tiến bộ nên được khuyến khích tham gia hoạt động chính trị. Năm 1967 đứng đầu liên danh Thiên Chúa giáo đắc cử nghị sĩ vào Thượng viện VNCH, được bầu làm Chủ tịch Quốc hội.
Cuối tháng 4.1975 được tân Tổng thống Dương Văn Minh (Phật giáo) mời làm Phó Tổng thống gọi là để cân bằng với lực lượng Thiên Chúa giáo.
Nhiệm vụ đầu tiên là lên đài phát thanh đọc lời hiệu triệu trấn an dân chúng về tình hình đất nước có nguy cơ sắp rơi vào cảnh hỗn loạn sau khi cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bỏ của chạy lấy người, từ chức rồi lập tức được Mỹ hộ tống bay ra nước ngoài. Sau đó, ngày 28.4 dẫn đầu phái đoàn chính phủ VNCH vào Trại Davids (nằm trong sân bay Tân Sơn Nhất) để thương lượng với đại diện Cộng sản (thuộc 2 phái đoàn Cộng sản Miền Bắc và Mặt trận Giải phóng Miền Nam đang trong thời gian dự hòa đàm Paris lúc đó đã tạm ngưng) về việc ngưng bắn hòa giải dân tộc.

Nhưng thời điểm đó đã muộn cho việc này khi quân Cộng sản đang thắng thế chuẩn bị tiến vào Sài Gòn. Tiếp theo như mọi người đã biết, Tổng thống Dương Văn Minh đành phải ra lệnh binh sĩ VNCH “hạ vũ khí” chờ “bàn giao” chính quyền cho Cộng sản trong cảnh hòa bình tránh hai bên cùng là người Việt với nhau đổ máu thêm nữa.
Sau khi Cộng sản giành thắng lợi hoàn toàn, bản thân được ghi nhận công lao đóng góp cho hòa bình thống nhất đất nước liệt vào hàng nhân sĩ tham gia mặt Trận Tổ quốc VN vốn chỉ là một tổ chức chính trị quần chúng mang tính hình thức mà thôi, thực chất vẫn là do “Đảng lãnh đạo”! .
Đã vậy, từ trước 75 người nhiều bệnh tật gầy gò, sức khỏe đã suy yếu nên về sau cũng chẳng làm được gì nữa cho đến ngày qua đời lặng lẽ.

1.164 - Tô Thị Thủy
LÃNH TỤ SINH VIÊN TRANH ĐẤU TỪ BỎ CHÍNH TRỊ
Doanh nhân sinh 1946 tại Long An – Mất 2012 ở TPHCM (67 tuổi).
Năm 1967 là sinh viên khoa Việt – Hán ĐH Sư phạm Sài Gòn.
Nhưng không bao lâu hăng hái tham gia đi đầu trong phong trào sinh viên Sài Gòn xuống đường biểu tình liên tục chống Mỹ, chống chế độ Thiệu – Kỳ. Nhanh chóng trở thành một lãnh tụ sinh viên tranh đấu cùng thời với Huỳnh Tẫn Mẫm, Đoàn Kỉnh.
Sau đó bỏ học tiếp tục hoạt động trong phong trào sinh viên trí thức chống Mỹ, chống Thiệu - Kỳ. Trong thời gian này gặp và kết hôn với một bạn chiến đấu học lớp trên đã được kết nạp Đảng.
Tuy nhiên có điều khá lạ là sau ngày Cộng sản toàn thắng, chỉ có người chồng có ra mặt làm cán bộ ngành giáo dục song chỉ trong một thời gian ngắn rồi sau đó cả 2 vợ chồng đều âm thầm tự động… rút lui khỏi cơ quan Nhà nước! Có lẽ do đã thấy trước sự khác biệt, bất đồng quan điểm giữa lý tưởng đấu tranh chống Mỹ, chống Thiệu – Kỳ đòi quyền tự do dân chủ với chủ nghĩa độc đảng của Cộng sản.
Thay vào đó, 2 vợ chồng bắt đầu bước vào con đường làm ăn, làm hàng xuất khẩu kinh doanh thành công từ rất sớm. Hầu như không còn dính líu gì đến quá trình một thời tuổi trẻ đấu tranh chính trị hết mình!

1.165 - Trần Gia Phụng
SỬ GIA HẢI NGOẠI HIỆN ĐẠI
Nhà sử học Việt kiều Canada sinh tại Quảng Nam. Sống ở Mỹ (2012).
Tốt nghiệp ĐH Sư phạm và ĐH Văn khoa Huế ngành sử địa. Ra trường đi dạy học tại Đà Nẵng.
Sau ngày Giải phóng tiếp tục dạy học một thời gian rồi bỏ vào TPHCM sinh sống.

Năm 1995 đi Canada diện thân nhân bảo lãnh.

Bấy giờ mới chuyên tâm viết hàng loạt tác phẩm sử học về nhiều đề tài thời hiện đại mà mình từng là chứng nhân với quan điểm khác hoặc đối nghịch với cộng sản. Như về trận chiến Mậu Thân 1968, “Mùa hè đỏ lửa” 1972, lịch sử thuyền nhân VN, Miền Bắc sau hiệp định Gennève 1954, Hòa Hảo và nông dân Miền Nam, chính sách Trung Quốc đối với VN, quan hệ Mỹ – Trung Quốc, vấn đề Thái Bình Dương, trận chiến Hoàng Sa 1974…
Xen kẽ là những vấn đề lịch sử xa xưa hơn như nhà Tây Sơn, lịch sử Quảng Nam, chí sĩ Phan Châu Trinh, sự kiện Trung kỳ dân biến, những cuộc đảo chính cung đình, “Những câu chuyện Việt sử” (4 cuốn)…
Công trình lớn đáng kể có bộ “Việt sử đại cương” (từ năm 1.400-1950) gồm 5 tập in từ 2007-2009.

1.166 - Trần Hữu Dũng
QUÊ HƯƠNG VÀ TOÀN CẦU HÓA
Giáo sư đại học Việt kiều Mỹ sinh khoảng 1941 tại Mỹ Tho. Sống ở Mỹ (2012).
Con trai của cố bác sĩ Nhà giáo Nhân dân Trần Hữu Nghiệp (1911-2006), một trí thức Nam Bộ đi tập kết để lại vợ và con trai, sau 1975 trở về TPHCM dạy ngành y đại học và viết sách báo
Con trai lớn lên ở Miền Nam, sau khi tốt nghiêp đại học vào làm Trung tâm Nguyên tử lực ở Đà Lạt. Năm 1963 được học bổng du học Mỹ.
Tốt nghiệp tiến sĩ kinh tế ra dạy đại học ở bang Ohio.
Nhiều năm sau ngày thống nhất đất nước mới về TPHCM gặp lại cha lúc mình đã gần 50 tuổi.
Sau đó vẫn trở lại Mỹ làm việc vì “Sống ở đâu cũng đóng góp được cho quê hương”.
Từ đó năm 2004 lập trang mạng nổi tiếng “Viet Studies” – và trang “Arts & Letters Daily” - chuyên giới thiệu tổng hợp những bài nghiên cứu kinh tế – xã hội – văn hóa quốc tế chất lượng cao viết về VN, được đánh giá là “bộ lọc trí thức” về đề tài VN.
Nhắm mục đích đưa VN hội nhập thế giới và ngược lại: “Toàn cầu hóa và yêu quê hương không trái nhau. Phải có một quê hương giúp toàn cầu hóa trọn vẹn đúng nghĩa hơn”.
Làm tất cả học theo tấm gương người cha ngày xưa, đó là “sự hòa hợp giữa tính bộc trực thẳng thắn của người Nam Bộ và sự tế nhị của một người trí thức sống nhiều, biết nhiều, thấu hiểu và quan tâm đến người khác.”

1.167 - Trần Hữu Hám
“NGU CÔNG VIỆT NAM”
Cán bộ về hưu sinh 1928 tại Thừa Thiên – Huế. Sống ở Thừa Thiên – Huế (2009).
Là cán bộ cộng sản tham gia kháng chiến cả 2 thời kỳ đánh Pháp đánh Mỹ. Về hưu sống ở làng La Chữ.
Giữa những năm 1980, thấy con đường trong làng chạy qua trước mặt nhà toàn đá tảng gập ghềnh kéo dài cả chục cây số làm trở ngại trẻ em trong làng đạp xe đi học lên Huế thật tội nghiệp bèn vác búa ra đập các tảng đá, nạy ra rồi tự tay đắp đất cho con đường bằng phẳng dễ đi hơn. Còn tận dụng các tảng đá đó làm rãnh thoát nước từ trên núi đổ xuống.
Làm cả một thời gian dài (sau rồi cũng có bà con làng xóm góp sức vào) kéo qua những năm 1990 mới tạm gọi là hoàn chỉnh dù lúc đó mình cũng đã thất tuần giống như tích cổ Trung Quốc có ông cụ Ngu Công gần 90 tuổi vẫn dẫn đầu đàn con cháu tay búa tay xẻng đục núi dời núi (đến 2 hòn núi) đứng chắn trước mặt nhà mình!
Không hề được ai trả công xá gì vẫn miệt mài làm cả chục năm như vậy, chỉ vì tâm nguyện “Mình làm việc nghĩa để đền ơn quê hương đã cưu mang gia đình trong những ngày miếng cơm còn xen lẫn củ sắn.”
Ngoài ra còn tự lập một “Bảo tàng nông cụ” gồm các mô hình những phương tiện, đồ nghề làm ruộng của nông dân như cái cày, cái bừa, cối giã gạo, máy xay gạo máy đạp nước … đặt ngay tại nhà cho bà con đến coi chơi.

1.168 - Trần Kim Hùng
TỬ TÙ HAM HỌC
Tù nhân sinh khoảng 1966 tại Huế. Bị giam ở nhà tù Chí Hòa, TPHCM (2006).
Con nhà có học, sau năm 1975 là sinh viên khoa Văn ĐH Huế năm thứ ba.

Nhưng nghe lời bạn bè rủ rê vượt biên mới bỏ nhà vào Sài Gòn cùng một người bạn âm mưu đến nhà một bà dì khá giả chờ lúc không có ai ra tay giết chết (siết cổ) rồi phá tủ cướp vàng và tiền chạy xuống Vũng Tàu tìm tàu vượt biên.
Tuy nhiên chưa đi được thì đã bị công an tóm gọn. Đưa về TPHCM ra tòa lãnh tội chủ mưu chịu án tử hình, bạn là đồng lõa tù chung thân.
May mà có cô bạn gái thời đại học thương tình cùng gia đình lục tìm hồ sơ cũ hồi trước từng có thời gian điều trị bệnh tâm thần ở bệnh viện còn lưu giữ để mang vào TPHCM nộp tòa án xin cứu xét giảm án. Kết quả được giảm xuống tù chung thân.
Người bạn gái chí tình kia trong suốt 3 năm sau đó thường xuyên đi thăm nuôi, rồi cũng đành chia tay theo gia đình đi Mỹ.
Còn lại một mình tiếp tục thụ án dài đăng đẳng từ năm này qua năm khác mà không còn ai đi thăm tiếp tế do cha mẹ già ở quê xa mà hoàn cảnh rất khó khăn. Nhiều lúc chán nản tuyệt vọng tìm cách tự tử đều không thành.
Dần dà cuối cùng bình tĩnh lại, dùng kiến thức đã học được của một sinh viên khoa Văn để tự xét bản thân tìm ra còn đường sống còn chống trầm cảm là con đường tự học. Tự học bằng cách tìm đọc bất cứ tài liệu sách báo nào có được hoặc mượn được, qua đó nghiền ngẫm bao ý nghĩa nhân sinh tự cổ chí kim để xây dựng cho mình một triết lý sống thanh thản chấp nhận cái giá phải trả cho tội lỗi của mình. Từ đó trở thành một tù nhân gương mẫu ai cũng kính trọng.

Năm 2005 người bạn tù chung thân được ân xá ra tù về quê làm rẫy. Sau đó đến lượt mình được nhà tù bắt đầu gửi văn bản lên cấp trên đề nghị cứu xét cho ân xá chưa biết kết quả ra sao.

1.169 - Trần Mạnh Cường (1)
LINH MỤC TUYÊN ÚY Ở LẠI
Tu sĩ Thiên Chúa giáo sinh 1942. Sống ở Đắc Lắc (2007).
Nguyên thiếu tá tuyên úy Thiên Chúa giáo trong quân lực VNCH từng tốt nghiệp khoa Văn ĐH Văn khoa Sài Gòn.
Bởi vậy sau ngày Giải phóng phải đi cải tạo khá dài ngày.
Trở về ưu tiên được đi H.O song đã từ khước chấp nhận ở lại, xin được quay lại phục vụ giáo xứ tại Buôn Ma Thuột thực hiện lý tưởng “Sống phúc âm giữa lòng dân tộc” theo tinh thần Thư chung của Hội đồng Giám mục VN năm 1980.
Chấp nhận sông như vậy phù hợp với niềm tin bản thân: “Không đâu có thể yên bình bằng VN quê mẹ”.

1.170 - Trần Mạnh Cường (2)
TRẢ ƠN RỪNG, RỪNG TRẢ ƠN
Nông dân sinh 1950 tại Quảng Nam. Sống ở Nghệ An (2008).
Vào bộ đội đánh Pháp từ năm 1947.
Năm 1954 tập kết ra Bắc, được bố trí về đơn vị ở Thanh Hóa rồi Nghệ An.
Năm 1959 xin ra quân đi làm công nhân nông trường ở Nghệ An. Ba năm sau lấy vợ dân xứ Nghệ.
Năm 1964 được gọi tái ngũ phục vụ cuộc chiến Miền Nam bắt đầu nóng bỏng. Được chuyển về đơn vị phòng không địa phương từng lập chiến công bắn rơi một máy bay Mỹ.
Chiến tranh kết thúc, trở về lại nông trường cũ xin nhận một vùng đồi núi rộng đến 20 hecta còn hoang vu để khai hoang trồng rừng. Vợ con đều ngại làm không nổi nhưng vẫn quyết tâm làm từ niềm tin “Mình là bộ đội hàng chục năm được rừng che chở, lo gì không làm được kinh tế từ rừng.”
Bắt tay vào khai hoang, xong mới tiến hành trồng rừng. Chỉ thuê nhân công làm việc dễ, còn việc khó việc quan trọng đều tự tay mình làm (không có con trai đỡ đần) như phân bố khu vực trồng rau quả và cây ngắn ngày đem bán để lấy ngắn nuôi dài, khu vực trồng cây công nghiệp lâu năm…
Kết quả sau 30 năm đã hình thành nên một khu rừng đủ các loại cây trồng lớp lang nghiêm chỉnh, có khu rừng cây ăn quả, khu rừng cây làm nguyên liệu giấy… Còn dành ra một khu định làm khu du lịch sinh thái.
Cũng nhờ đó nuôi 7 con gái học hành thành đạt, con đầu vào Quốc hội, con thứ tư lấy bằng tiến sĩ ở Úc: “Rừng đã nuôi cả nhà mình như thế, còn gì hơn nữa!”

(Còn tiếp)

Thứ Tư, 20 tháng 6, 2012

HẠT LÚA - NGUYỄN MIÊN THẢO

ta soi từng hạt lúa vàng
thấy trong tiền kiếp muôn ngàn sinh linh
từ ngày về chốn u minh
chỉ riêng hạt lúa chung tình với ta
và em
với bóng trăng tà. . .

Thứ Ba, 19 tháng 6, 2012

EM LÀ BÁU VẬT CỦA ĐỜI ANH - TRẦN DZẠ LỮ

Hơn nửa đời người
Anh mới gặp
Em là báu vật của đời anh.
Báu vật nên không thể lanh chanh
Để vào túi áo
Cũng không thể để vào hai vai tình ảo
Anh khẻ khàng cất vào phía trái tim.
Chỗ trái tim là nơi em sẽ bình yên
Không sợ thị phi,dư luận
Không sợ ngày qua tháng lại lận đận
Suốt kiếp này anh gìn giữ nghe em!
Cảm ơn em
Người con của Huế
Đẹp không chỉ bóng hình
Môi cười thơm nắng lụa đất Thần Kinh

Dịu ngọt một tâm hồn rất Huế…
Có những điều không thể
Nói ra-Như ban mai phải thấy nắng chan hòa
Như chiều hôm bần thần gió cuốn
Như đêm trăng nằm mộng mị áo hoa cà…
Mình phải cất giấu cõi-người-ta
Những điều không thể.
Có thể ngày mai em là trầm quý
Là gỗ căm xe thiên hạ truy tìm
Là bà Hoàng ngựa xe bề thế
Em là gì…Anh vẫn yêu em!
Có thể ngày mai em nghèo sát đất
Héo úa đời bên chốn cô liêu
Không thấy nổi nụ cười ,chỉ còn nước mắt
Em là gì…Anh vẫn yêu em!
Hơn nửa đời người mới thấy con tim
Rung reng điệu tình lạ lẫm
Có một niềm tin chắc mẫm
Em mãi là báu vật của đời anh
Và không thể lanh chanh rao bán cuộc tình
Anh cất kỷ vào ngăn thứ nhất
Em yêu ơi! Đó là điều rất thật
Khi trái tim này đã thuộc về em…

Trần Dzạ Lữ -SàiGòn 6.2012.

Thứ Hai, 18 tháng 6, 2012

THÁNG GIÊNG NON - HẠ NHIÊN THẢO

Tháng giêng gần
Tháng giêng xa
Khuất dấu hò hẹn
Đá xám chừ đếm tuổi rêu phong
Ngậm ngùi ...
Cỏ ngỡ ngàng nghe tiếng mưa rơi
Tình ơi! này thôi lời nhắn
Sao bây giờ lại quá xa xôi ...

Tháng giêng chưa hết người đã hết
Thánh giá buồn trong tiếng chuông ngân
Con đường cũ sao vẫn dài dịu vợi
Em và mây tím ngát mù sương

Tháng giêng non chao nghiêng nỗi nhớ
Vào đêm vào thơ
Và em và cánh sen non ngơ ngác
Yêu cuộn tròn
Hoài mãi ... khúc mơ sâu.

(17.06.2012)

Thứ Bảy, 16 tháng 6, 2012

ÁO MÀU CÂM NÍN - LÊ NGỌC THUẬN

Có một chút gì đó như hoang tưởng
Có mùi hương từ màu trắng vô thanh
Người mặc áo đen đi vào bóng tối
Một vầng trăng khập khễnh giữa mùa thu

Ta chay mặn bất thường trong bàn rượu
Bạn bè xưa nghi ngại dấu điên khùng
Buồn ẩn mặt trong ly chiều cô quạnh
Bước chân em dẫm đạp bụi phương nào

Đêm hoàng cung, hồn ma cung nữ dậy
Tung tin đồn ta thương nhớ em
Vòng Thành Nội ta qua đường phố đó
Cổng nhà em, một mình ta ngẩn ngơ

Nợ cơm áo làm ta thành đạo sĩ
Ngồi trong lò lửa nấu đời đau
Em đâu biết máu ta vừa chảy ngược
Kiếp nào xưa chúng mình của nhau

Áo câm nín ta mặc tình đơn độc
Nụ hôn đầu xin gửi lại môi sau
Em thánh thiện, nhớ dùm ta vẫn đợi
Ta vẫn chờ giữa hỗn loạn trần gian.

Thứ Sáu, 15 tháng 6, 2012

THƠ VIẾT NHƯNG LÒNG KHÔNG PHỤC - HOÀNG LỘC

em thuở ấy em rất là con gái
có điều chi thì chín vẫn cho mười
em mới đó đã là em thiếu phụ
tội con thuyền phải lạnh ở xa xuôi

ôi quá chán (yêu em mà phát chán)
gió thu đông đã thổi lọt xuân hè
em đếch biết yêu thương (còn làm loạn)
để trái sầu tứ hướng rụng lia chia

ta nho nhã bỗng chửi thề khí phách
thân dật dờ nương náu cõi tình xưa
những chiu chắt cuối đời ta mất sạch
em (với chồng em) chặt cánh tay thơ

vẫn lớn lối ta trăm lần bất bại
mà phù vân vừa rã đám bên trời
em ngang bướng từ thuở còn con gái
khi trở thành thiếu phụ cũng trời ơi

em có dám đưa ta về chín suối
để cam tâm nuôi con cái nhà người ?

9-6-2012

HL

Thứ Năm, 14 tháng 6, 2012

CAO HUY KHANH - VN HỒ SƠ HẬU CHIẾN 1975 - 2012 ( KỲ 15 )

NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ
1.151 - Đặng Đình Áng
“THIỀN SƯ TOÁN HỌC”
Giáo sư tiến sĩ toán sinh 1926 tại Hà Tây. Sống ở TPHCM (2012).
Vào Sài Gòn từ năm 1951.
Năm 1953 được học bổng đi du học Mỹ ngành toán. Năm 1958 tốt nghiệp tiến sĩ toán quay về Sài Gòn dạy đại học.
Năm 1960 làm Trưởng khoa Toán ĐH Khoa học Sài Gòn. Được mời đi thỉnh giảng ở nhiều đại học Mỹ, Pháp, Ý. Đã có hơn 130 bài nghiên cứu chuyên sâu toán trên báo chuyên ngành quốc tế.
Sau 30.4.75 vẫn ở lại dạy đại học như cũ dù có nhiều gợi ý ra nước ngoài làm việc thuận lợi hơn. Năm 1980 được cho phép đi nước ngoài dự hội nghị chuyên ngành quốc tế, được nhiều lời mời ở lại song vẫn từ chối để quay về
Hơn tất cả mọi điều, tình yêu quê hương sâu sắc là chất xúc tác gắn bó với đất nước như bụi tre xanh um tùm trồng trước cửa nhà nơi đô thị hiện đại đang “Tây hóa” bao trùm: “Quê hương là dải đất có núi có sông, có cây cỏ, có con người cùng chung quyền lợi vật chất và tinh thần nhưng không phải chỉ là thế, sâu xa hơn thế là những nấm mồ của những người đã khuất.”
Ngoài ra còn bắt nguồn từ tính nghệ sĩ của một người yêu nhạc, chính là chú ruột của Nghệ sĩ Nhân dân Đặng Thái Sơn: “Toán và âm nhạc đều là nghệ thuật. Chơi nhạc là một cách thiền.”. Mà đã là thiền rồi thì ở đâu không được, ở đâu mà không làm việc được.
Vì vậy cũng như với toán học thu hút, chọn lọc bao nhiêu tinh hoa thế giới để về dạy lại cho học trò trong nước thì âm nhạc cũng thế từng lên sân khấu biểu diễn cùng ban nhạc bạn bè, thổi sáo trúc các giai điệu mượt mà của Mozart. Được học trò yêu mến tôn là “thiền sư toán học”.
Được phong Giáo sư ngay đợt đầu tiên cả nước năm 1980. Năm 2006 một hội nghị toán học quốc tế được tổ chức tai TPHCM mừng thọ ông 80 tuổi.

1.152 - Don Luce
TỪ “CHUỒNG CỌP” CÔN ĐẢO ĐẾN NẠN NHÂN BỆNH AIDS
Nhà báo Mỹ sinh khoảng 1938 tại Mỹ. Sống ở Mỹ (2012).
Năm 1958 là sinh viên tình nguyện qua Sài Gòn dạy tiếng Anh theo chương trình giúp đỡ VN của một tổ chức tôn giáo Mỹ.
Từ đó kết thân với giới sinh viên VN nên khi bùng nổ phong trào sinh viên đấu tranh chống chế độ Mỹ – Ngụy cuối những năm 1960 đã tích cực hỗ trợ họ qua nhiều bài viết đăng báo Mỹ.
Trong đó nổi cộm vụ tố cáo chính quyền VNCH vi phạm nhân quyền đối với trẻ thơ nhân chuyện bắt giam 2 đứa con trai mới 7 tuổi và 5 tuổi của đại tá Việt Cộng Tư Chu (Nguyễn Đức Hùng) chỉ huy trưởng Lực lượng Biệt động Sài Gòn – Gia Định gửi cho nhà bà con ở Sài Gòn buộc sau đó nhà cầm quyền Sài Gòn phải thả ra năm 1968. Tiếp theo là loạt bài đăng báo Tin Sáng và báo Mỹ Time tháng 7.1970 tố cáo tội ác nhà tù “Chuồng cọp” giam giữ hành hạ tù nhân cộng sản tại Côn Đảo.
Bởi vậy năm 1971 bị trục xuất khỏi Miền Nam.
Về Mỹ tiếp tục lên tiếng về tệ trạng ngược đãi tù binh từ Miền Nam VN đến Guantanamo (Cuba), Iraq, Afghanistan trong cuốn “Những con tin của chiến tranh” (Hostage of War).
Năm 1977 hiệu đính bản dịch tiếng Anh cuốn “Đại thắng mùa xuân” của Đại tướng Văn Tiến Dũng (do nhà báo Mỹ John Spragens dịch).
Năm 2005 rồi 2008 mới có dịp trở lại VN, gặp mà không thể nhận ra 2 đứa trẻ ngày nào mình giúp giải thoát khỏi nhà tù nay đều đã gần… ngũ tuần (ảnh)!
Cuối đời còn tham gia công tác giúp đỡ cộng đồng bệnh nhân AIDS bị cách ly sống nơi tận cùng nước Mỹ, bên cạnh thác Niagara sát biên giới với Canada.

1.153 - Lê Thị Mai
TÌNH YÊU “TỔ CHỨC”
Cán bộ về hưu sinh 1931 tại Huế – Mất 1983 ở Đà Nẵng (53 tuổi).
Chị ruột “Tử tù chuồng cọp” Côn Đảo” nổi tiếng Lê Quang Vịnh.
Khi em trai bị tù ở Huế mới đi thăm nuôi qua đó gặp gỡ thầy dạy của em trong tù, một cán bộ cộng sản. Sau khi người này ra tù tìm gặp lại, đôi bên nảy sinh tình cảm, từ đó được người yêu dẫn dắt vào con đường hoạt động cộng sản nằm vùng tại Huế từ năm 1960.
Năm 1965 bị bắt giam ở Huế trong lúc người yêu bị lộ cơ sở đã vượt tuyến ra Bắc.
Năm 1966 cùng một số đồng chí vượt ngục tìm vào chiến khu. Đến 1968 làm đội trưởng một đội công tác trở lại Huế tham gia cuộc chiến Mậu Thân.
Sau gần một tháng chiến đấu trong nội thành Huế, được lệnh rút lui rồi ra Bắc chữa bệnh, qua cả Trung Quốc điều trị. Một năm sau về nước đi học đại học.
Trong thời gian này cố công tìm người yêu cũ song không có tin tức. Thay vào đó, tổ chức (Đảng) gợi ý mai mối cho lấy chồng là một cán bộ tập kết người Quảng Nam.
Sau ngày chiến thắng Miền Nam, quay về cố huơng Huế làm bí thương phường. Đồng thời gặp lại người yêu cũ bây giờ làm hiệu trưởng trường ĐH Sư phạm.
Nhưng hy vọng được ở lại quê nhà Huế không thành do chồng cũng trở về quê Đà Nẵng bắt phải đi theo mình.
Tuy nhiên cuộc sống gia đình sau đó không yên ấm kiểu “đồng sàng dị mộng”, hơn nữa bấy giờ mới phát hiện trước đây khi ở tù đã bị tra tấn để lại di chứng tuyệt đường sinh đẻ. Đành phải cay đắng nhận con nuôi vẫn không an ủi được bao nhiêu.
Từ đó buồn phiền sinh bệnh mất sớm trong nỗi buồn xa quê.

1.154 - Nguyễn Viết Vân
CÂU LẠC BỘ B93
Cán bộ phường sinh tại Hà Nội. Sống ở Hà Nội (2012)
Trong chiến tranh chống Mỹ là lính trinh sát đặc công, bị thương chuyển qua đơn vị công binh.
Sau 1975 xuất ngũ về làm cán bộ phường Kim Mã ở Hà Nội.
Khi thấy tình hình thanh thiếu niên trong phường bắt đầu rơi vào tệ nghiện ngập ma túy mới xin phép lập một tổ cựu chiến binh địa phương làm nhiệm vụ trấn áp bọn trùm buôn bán chất gây nghiện đồng thời đặt quan hệ với các cơ quan, hội đoàn, tổ chức y tế – xã hội hỗ trợ tìm cách giúp con nghiện cai nghiện. Dần dà công tác gặt hái thành quả bước đầu mới tiến lên đặt tên tổ này là CLB Cai nghiện tự quản B93.
Những ai cai nghiện thành công được giúp đỡ học nghề hoặc mở điểm lao động kiếm sống như sửa xe máy, buôn bán vặt… Nhiều người khi rảnh việc còn quay lại gia nhập làm thành viên CLB tiếp tục duy trì, triển khai hoạt động chống ma túy trên địa bàn.
Bản thân làm đầu tàu cho CLB không ít phen đối đầu với bọn côn đồ xã hội đen mấy lần đe dọa nguy hiểm tính mạng. Vợ con lo lắng can ngăn nhưng vẫn kiên quyết không lùi bước: “Ông trời bỏ quên tôi mấy lần chết hụt ở chiến trường thì nay có sá gì sợ chết vì việc nghĩa?”

1.155 - Tôn nữ Quỳnh Như
BI KỊCH TÌNH YÊU TRÍ THỨC THỜI CHỐNG MỸ
Cựu sinh viên tranh đấu chống Mỹ sinh tại Huế – Mất 1978 ở TPHCM.
Bác ruột (Tôn thất Dương Tiềm) và cha (Tôn thất Dương Kỵ) đều là nhà giáo nổi tiếng tham gia phong trào trí thức chống Mỹ – Thiệu nên bản thân là sinh viên ĐH Kiến trúc Sài Gòn cũng dấn thân xuống đường chống chế độ Thiệu – Kỳ.
Từ đó nẩy nở tình yêu với một lãnh tụ sinh viên tranh đấu thời đó là Lê Quang Vịnh vừa là đồng hương vừa là học trò của cha mình. Được người yêu vốn là cán bộ cộng sản đưa vào chiến khu tập huấn về công tác đấu tranh nội thành.
Nhưng sau đó trở về Sài gòn, Lê Quang Vịnh bị bắt đi tù “Chuồng cọp” Côn Đảo mất liên lạc.
Trong thời gian này xuất hiện “dệ tam nhân” Trần Quang Long cũng tham gia tranh đấu chống Mỹ, bỏ dạy học từ Cần Thơ lên Sài Gòn hoạt động, nổi tiếng là nhà thơ tranh đấu lúc đó (tác giả tập thơ “Thưa mẹ, trái tim”), làm chủ tịch Hội Sinh viên sáng tác. Anh cũng là học trò của cha mình nên qua đó quen biết rồi đem lòng yêu thương.
Trong hoàn cảnh thiếu thốn tình cảm, tưởng người yêu xưa đã bỏ mình trong ngục tù nên cuối cùng Quỳnh Như chấp nhận kết hôn với Trần Quang Long năm 1967.
Năm 1968 khi mình đang mang thai thì chồng đi theo cộng sản bỏ vào mật khu Tây Ninh sát biên giới Campuchia khiến vợ ở nhà bị bắt giam. Không bao lâu chồng bị bom B 52 đánh trúng hy sinh trên trận địa khi mới 27 tuổi (năm 2012 mới tìm thấy hài cốt truy điệu liệt sĩ) trong lúc ở Sài Gòn vợ sinh con trai trong nhà tù đặt tên Xuân Thắng với ý nghĩa chờ đợi mùa xuân đại thắng mãi đến 6 năm sau mới đến.
Năm 1969 được ra tù về nhà nuôi đứa con chưa hề biết được mặt cha đến ngày Giải phóng hoàn toàn miền Nam 1975.
Ngày đó người tình cũ Lê Quang Vịnh trở về làm Phó Giám đốc Sở Giáo dục TPHCM, đôi bên tái ngộ trong cảnh bẽ bàng, tình cảm vẫn còn dư âm nhưng người ấy vì lòng tự trọng bây giờ không thể nối lại đường tơ với người từng là vợ cũ của đồng chí mình đã hy sinh! Đành chia tay đi lấy vợ khác em một bạn tù cùng chí hướng.
Nỗi buồn “thân phận tình yêu” hẩm hiu chua xót kéo dài không bao lâu thì mắc bệnh xơ gan qua đời sớm năm 1978.

1.156 - Tôn Thất Cảnh
DẠY DƯỠNG SINH CHỮA BỆNH MIỄN PHÍ
Kiến trúc sư Việt kiều Mỹ về hưu sinh 1927 tại Thừa Thiên – Huế. Sống ở Mỹ (2007).
Nguyên hướng đạo sinh bị bướu trong não nhưng đã tự học và tập môn Thái cực dưỡng sinh (Taichi) mà chữa khỏi bệnh.
Vì thế sau khi qua Mỹ năm 1986 dù tuổi đã khá cao song với tinh thần một hướng đạo sinh đã lập ra Hội Dưỡng sinh và mở lớp dạy môn này cho hàng ngàn người giúp họ chữa bệnh, giữ gìn sức khoẻ. Theo đúng 2 tôn chỉ mà Hướng đạo đã nêu là “Hạnh phúc thật sự chỉ tìm được khi ta giúp người khác” và “Muốn có hạnh phúc phải chia xẻ hạnh phúc của mình cho người khác”.
Hoàn toàn dạy không lấy tiền, chỉ mong có đóng góp tự nguyện để lấy tiền gửi về nước tham gia hoạt động từ thiện.

1.157 - Trầm Tử Thiêng
HƯỚNG VỀ TRẺ TỊ NẠN MỒ CÔI
Nhạc sĩ Việt kiều Mỹ tên thật Nguyễn Văn Lợi sinh 1947 tại Quảng Nam - Mất 2000 ở Mỹ (64 tuổi).
Bắt đầu sáng tác ca khúc từ năm 1958.
Đến khi bị gọi nhập ngũ năm 1966 làm sĩ quan tâm lý chiến tiếp tục viết nhạc, nhiều bài về đề tài lính VNCH, nổi tiếng có “Bài hương ca vô tận” và “Chuyện một chiếc cầu đã gãy” viết về cầu Trường Tiền ở Huế bị Cộng sản đặt bom nổ gãy cầu trong chiến cuộc Mậu Thân 1968.
Năm 1970 được biệt phái về Đài Phát thanh Sài Gòn tham gia thực hiện chương trình Phát thanh học đường.
Sau 1975 trốn trình diện rồi tìm cách vượt biên bị bắt ở tù.
Ra tù đến năm 1985 được xuất cảnh qua Mỹ.
Trên xứ người trở lại với âm nhạc, viết nhạc nói lên nỗi niềm người lưu vong mất quê hương như “Kinh khổ”, “Chợt nghĩ về hai nơi”, “Có tin vui giữa giờ tuyệt vọng”… Qua đó vẫn mong mỏi một đất nước VN hòa bình, thống nhất, hạnh phúc thật sự như thể hiện qua bài “Hòa bình ơi, Việt Nam ơi”. Cộng tác mật thiết với nhạc sĩ đàn em Trúc Hồ cùng chí hướng, đặt lời cho nhiều ca khúc của Trúc Hồ.
Đặc biệt quan tâm nhiều đến giới trẻ em vượt biên mất người thân thành ra mồ côi, tìm cách giúp đỡ. Làm nhạc thiếu nhi về đề tài này với bài được biết đến nhiều nhất “Bên em đang có ta”. Cùng bạn bè lập Thư viện VN ở khu Sài Gòn Nhỏ, bang California.
Trước khi mất có di nguyện lập quỹ hỗ trợ trẻ em tị nạn mồ côi mang tên “Bên em đang có ta” nhan đề ca khúc dành cho các em kể trên.

1.158 - Trần Châu
TRẠI NUÔI NGƯỜI ĐIÊN TƯ NHÂN
Luơng y sinh tại Quảng Trị. Sống ở Ninh Thuận (2011).
Năm 1972 theo gia đình trong khu Công giáo sống ở thánh địa La Vang chạy nạn chiến tranh – thời điểm bùng nổ “Mùa hè đỏ lửa” – vào vùng rừng núi Ninh Thuận khai hoang lập thôn mới đặt tên La Vang ghi nhớ quê hương cũ. Cha tiếp tục hành nghề lương y.
Sau 1975 làm giáo viên xóa nạn mù chữ. Được một thời gian thì cha gọi về truyền nghề lương y, dặn con tuyệt đối chữa bệnh không được lấy tiền vì xem đây là việc thiện mình được giao phó phải làm.
Từ đó trị bệnh miễn phí cho tất cả mọi người trong vùng và cả từ nơi khác nghe tiếng tìm đến. Nhờ ở vùng rừng núi nên có điều kiện tìm được nhiều loại dược liệu Đông y trị bệnh hiệu quả.
Chữa bệnh miễn phí song người bệnh cám ơn vẫn gửi lại tiền trong phong bì đành phải cất giữ không hề đụng chạm tới. Mãi đến năm 1995 mở các phong bì ra tổng kết sơ sơ cũng được 30 triệu đồng không biết làm gì mới nảy ý dùng tiền đó xây một căn nhà cho những người nghèo không nơi nương tựa đến ở.
Nhưng do nơi này nằm chỗ xa xôi hoang vắng nên không có người nghèo nào chịu đến ở. Thế là phải cất công đi ra thành phố tìm… người đem về cho tá túc nuôi nấng. Và rốt cuộc chỉ có những người… điên, mắc bệnh tâm thần không người thân thích lang thang đầu đường xó chợ mình mới có thể đem về nuôi ăn nuôi ở!
Dần dà nơi đây trở thành một trại tâm thần “tư” do một cá nhân dựng nên, hoàn toàn “tự túc”. Nghĩa là bây giờ ngoài thì giờ khám chữa bệnh, mình còn phải nai lưng làm lụng đủ thứ công việc để kiếm tiền kiếm cơm gạo mắm muối nuôi đến hơn 70 bệnh nhân tâm thần “tại gia”!
Vừa chăm lo vườn xoài vừa đào ao nuôi cá, mua hàng về bán lẻ cho bà con quanh vùng, làm nước rửa chén đem bán dạo… Tối ngày tất bật đủ thứ việc ngoài đường, về nhà còn lo tổ chức cơm nước, tập cho tập thể người điên sống sao cho yên ổn hòa thuận. Tập cho họ tự lo nấu nướng, tắm giặt, tập cầu kinh, tham gia đàn ca sinh hoạt văn nghệ giải sầu...
May mà rồi công việc từ thiện đó cũng được nhiều người biết tới tìm cách hỗ trợ không ít thì nhiều, có người mua hàng giúp có người cho nợ tiền cơm gạo củi lửa…
Và trên tất cả đại gia đình người điên ngày càng trở nên hiền hòa hẳn, có lẽ một phần nhờ sống chung ở môi trường trong lành thoáng đạt tránh xa đô thị ồn ào náo động dễ đau đầu nhức óc. Từ đó người điên lại đem đến cho người tỉnh một niềm hạnh phúc đơn giản mà lạ lùng: “Sống với những con người như thế, mình cảm thấy thanh thản vô cùng”

1.159 - Trần Đình Trọng
NHỚ ƠN CỨU MẠNG
Nhà giáo về hưu sinh 1953 tại Quảng Ngãi. Sống ở Quảng Ngãi (2012).

Năm 1972 lúc 19 tuổi làm du kích xã ở địa phương bị trúng mìn hai chân nát hết được đưa về bệnh xá cứu chữa.
Chuẩn bị mổ thì bị địch bắn pháo vào bệnh xá buộc tất cả phải di tản, được 2 đồng đội bỏ lên cáng rút chạy. Nhưng bị địch truy kích ráo riết nên cuối cùng tự mình yêu cầu đồng đội giấu mình trong rừng để họ có thể thoát thân trước.
Trong tình cảnh hôn mê nửa thức nửa tỉnh cái chết đến gần kề thì mơ màng nghe thấy có mấy người lính phía bên kia tìm ra mình, có người định bắn chết luôn song bị một người khác tìm cách ngăn lại nói là trước sau gì tên Việt Cộng này cũng chết thôi. Thế nên cả bọn rút đi.
Không ngờ sau đó tỉnh dậy thấy có người – có lẽ người lính tốt bụng kia – lén để lại cho mình một bi đông nước và 2 bịch gạo sấy. Chính nhờ bi đông nước đó đã cứu mạng mình còn cầm hơi thoi thóp để sau đó được đồng đội quay lại tìm rồi đưa về trạm xá cưa chân trái cứu sống. Qua năm 1974 được chuyển ra miền Bắc tiếp tục điều trị, an dưỡng.
Sau ngày hòa bình, quay lại quê hương Quảng Ngãi. Năm 1977 thi đậu ĐH Sư phạm Huế khoa toán. Tốt nghiệp, xin về dạy trường Trần Quốc Tuấn ở quê nhà, lần lượt được đề bạt lên hiệu phó rồi hiệu trưởng.
Trong suốt khoảng thời gian đó vẫn không quên ân nhân cứu mạng bi đông nước và 2 bịch gạo sấy nên với một chân gỗ tập tễnh vẫn lặn lội đi nhiều nơi dò la tin tức người ơn năm xưa. Nhưng biết đâu mà tìm, biết ai mà tìm?
Mãi đến năm 2003 mới có thông tin đầu tiên từ Đà Lạt cho biết được tên tuổi người lính đó cùng quê Quảng Ngãi thuộc sư đoàn 2 VNCH sau này cũng là thương binh mất một tay trong một trận đánh năm 1973. Tuy nhiên không biết ở đâu, dường như là ở một khu kinh tế mới.
Thế là bản thân lại tiếp tục mở một cuộc hành trình đi tìm dân kinh tế mới khắp miền Trung và Tây Nguyên. Vẫn chỉ hoài công thôi.
Đến 2 năm sau thông qua mối liên hệ đồng hương Quảng Ngãi mới có được địa chỉ của người cứu mạng mình năm nào. Té ra đúng là dân kinh tế mới nhưng là đi kinh tế mới năm 1981 vào tận Bình Phước.
Cuộc hội ngộ không cầm được nước mắt giữa 2 người trước đây ở 2 bên chiến tuyến thù địch, còn lạ lùng ở chỗ một người mất chân một người mất tay đều từ khói lửa chiến tranh! Bây giờ chỉ còn là 2 con người, 2 thường dân trong đó người cựu chiến binh cộng sản nhỏ hơn 14 tuổi nhận mình làm em người “lính Ngụy”, xin được làm “người con trong gia đình”.

1.160 - - Trần Đông A
TỪ QUÂN Y CHẾ ĐỘ CŨ ĐẾN QUỐC HỘI
Giáo sư bác sĩ sinh 1941 tại Nam Định. Sống ở TPHCM (2012).
Nguyên sĩ quan quân y VNCH nên sau 1975 vượt biên bị bắt.
Nhưng được Sở Y tế TPHCM bảo lãnh về sớm đưa vào làm ở bệnh viện Nhi đồng 2 từ năm 1978 theo chính sách sử dụng “trí thức tại chỗ” của Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt lúc đó nhằm ngăn chặn tình trạng chảy máu chất xám trong giới trí thức chế độ cũ bỏ chạy ra nuớc ngoài. Nhất là ngành y đang rất thiếu chuyên viên.
Từ đó chấp nhận ở lại công tác, dần dần có nhiều cống hiến nổi bật nhất là qua ca mổ tách cặp song sinh Việt – Đức năm 1988, sau đó là công trình nghiên cứu và thực hiện ghép thận cho trẻ em. Được ĐH Pháp mời qua giảng dạy năm 1995.
Được phong Giáo sư rồi vào Quốc hội.
(Còn tiếp)

Thứ Tư, 13 tháng 6, 2012

THÁNG SÁU MƯA GIĂNG KÍN LỐI ĐI VỀ - CAO THOẠI CHÂU

Không có về để được ra đi
Không vui để được buồn vào tháng sáu
Hạt mưa nhỏ giăng ra như hiểu
Trời nhạt nhòa trời chẳng nói năng chi

Một chút vui thôi mà phải đổi
Bao nhiêu buồn không đổi được niềm vui
Đêm đã khuya mới hiểu mặt trời
Đang phiêu lãng mặc cho người trông đợi

Hy vọng một lần khi trở lại
Đôi mắt ve sầu cong dáng một làn mi
Mưa thì cứ thản nhiên rắc bụi
Vô tư ngăn cản chuyến quay về

Và chợt nhớ ngàn câu đã nói
Ngàn câu thơ gửi với theo người
Chân xa cách bao giờ chân cũng vội
Nước một dòng bỗng chốc chảy thành hai

Thuyền vẫn nhớ nỗi niềm xa bến
Đôi mái chèo buông thõng bến sông xưa
Sóng tan cuốn theo lời hò hẹn
Đôi tay buồn buông thõng đứng bơ vơ

Sợ ra đi nên không trở lại
Tháng này trời đổ những cơn mưa
Ngăn bàn chân có ý quay về
Tìm rơi rụng giữa bao nhiêu kỷ niệm

Tháng Sáu qua đi như gió thoảng
Không có người về vầng trán ưu tư
Đôi mắt có đuôi nhìn đắm đuối
Và chỉ là thật ngắn giấc mơ thôi

Bao nhiêu buồn không đổi được niềm vui
Bao cách trở đò giang sông bãi
Bao hò hẹn và bao trông đợi
Buồn có chia cho đủ hai người
10-6-2012

Thứ Ba, 12 tháng 6, 2012

TÓC BUỒN - CAO HUY KHANH

Đã yêu thành phố đêm nay
Đã yêu từng bước chân qua
Đã nhìn thấy ngày sau em về

Mắt ai ngơ ngác đi trong rừng thu... thu muộn
Sớm mai nào thức, sơm mai giục giã về trời
Cuốn lên tay áo hôn lên làn mi hôn lên dải tóc... tóc mềm
Tóc em sợi ngắn tóc em sợi dài... em tóc mai
Bao nhiêu sợi tóc ra đời
Là bao nhiêu nắng hồng hào trong tôi
Nắng hong sợi tóc xanh ngời
Tình tôi như cũng muôn lời tim non.

Sao không còn thấy áo xanh xoã tóc qua trường
Những cây vàng úa những bông vàng úa tay này
Sao không còn thấy em bờ bờ sông đứng trông chiều rơi xuống đời
Sao em tìm mãi hơi lạnh tàn thu trên núi sương
Em ơi nào có ai nào
Dù em có tới hay dù em đi
Cũng đâu người biết chút gì
Bởi tình tôi vẫn thầm thì khôn nguôi...

Tình ơi! Ta vọng mãi lời hát tinh cầu...

Thứ Hai, 11 tháng 6, 2012

KIẾP NÀO CÓ YÊU NHAU - MINH ĐỨC HOÀI TRINH

Đừng nhìn anh nữa em ơi
Hoa xanh đã phai rồi
Hương trinh đã tan rồi
Đừng nhìn anh, đừng nhìn anh nữa em ơi
Đôi mi đã buông xuôi, môi răng đã quên cười.
Hẳn người thôi đã quên ta
Trăng Thu gẫy đôi bờ
Chim bay xứ xa mờ.
Gặp người chăng, gặp người chăng, nhắn cho ta
Hoa xanh đã bơ vơ đêm sâu gối ơ thờ.

Kiếp nào có yêu nhau
Thì xin tìm đến mai sau
Hoa xanh khi chưa nở
Tình xanh khi chưa lo sợ
Bao giờ có yêu nhau
Thì xin gạt hết thương đau
Em đâu em đâu rồi?
Em đâu em đâu rồi?

Đừng nhìn nhau nữa em ơi
Xa nhau đã xa rồi, quên nhau đã quên rồi
Còn nhìn chi, còn nhìn chi nữa anh ơi
Nước mắt đã buông rơi theo tiếng hát qua đời
Đừng nhìn nhau nữa... em ơi!

Thứ Bảy, 9 tháng 6, 2012

TẾ SỐNG BÙI GIÁNG - VƯƠNG TỪ

Trí tuệ tài hoa ta bái ông
Nghề chơi ngài quá những cuồng ngông
lẩy ni cô trọc ve tiên nữ
Gái góa chắc chi chữa lộn chồng

Líu lo ngọng nghịu lái tàu tây
Bát ngát rừng sim tím ruột người
Lẽo đẽo theo đuôi nòng nọc đứt
Đón đầu rồng lộn toác toang cười

Vo tròn bóp méo chơi như giỡn
Gỡ rối tơ vò ai biết ai
Sức thừa ông nhảy tôi say tuốt
Rượu đế Vương Từ tặng tế chơi
SG 1993

Thứ Sáu, 8 tháng 6, 2012

ĐÊM TRĂNG PHƠI ÁO - HẠC THÀNH HOA

Ngày mai đã hết quần áo mặc
Một bộ diện gần cả tháng nay
Ta lười trời đất còn nể mặt
Thì sá gì đôi trận gió bay…

Nhưng đêm trăng sáng trăng huyền diệu
Gác trọ lòng không bóng mây vương
Bạn vừa đi khỏi trăng vừa tới
Đem áo quần ra giặt đỡ buồn.

Dưới bóng trăng mình ta một cõi
Đất trời im vắng giấc cô miên
Bên thau quần áo cao như núi
Nỗi buồn trong dạ cũng cao thêm.

Trăng soi từng chỗ cho ta giặt
Áo quần trắng toát một màu trăng
Vò từng chiếc áo nghe tim buốt
Lòng cũng sầu theo những nếp nhăn.

Ta ngồi nhìn bọt xà bông vỡ
Mỗi bọt tan theo một phiến trăng
Tiếng của đời ai đang nức nở
Giữa tiếng đêm thu mộng xế tàn.

Cố thức giặt cho xong quần áo
Ngậm ngùi vắt những ánh trăng trong
Trăng theo nước chảy về vô tận
Từng giọt trăng dư rụng xuống lòng.

Đêm nay phơi áo trên sân thượng
Phơi cả đời ta giữa quạnh hiu
Phơi cả hồn ta trong sương lạnh
Một trời trong vắt bóng trăng treo.

Thứ Năm, 7 tháng 6, 2012

CÁM ƠN - NGUYỄN MIÊN THẢO

Cám ơn em đã cho anh
Tình yêu với những tươi xanh cuộc đời
Tim anh chết lặng lâu rồi
Từ em thức dậy đất trời ...lãng du

Thứ Tư, 6 tháng 6, 2012

NGẪU HỨNG TUÝ VÂN ( PHẦN 1) : TRẦN NGỌC BẢO

Cổng tam quan chùa Thánh Duyên
Cuộc lữ ngày chủ nhật 20/5/12 là một chuyến đi hoàn toàn ngẫu hứng. Ban đầu Trần lão có hẹn đến thăm một người quen ở làng Mỹ Á, gần làng Mỹ Lợi. Người bạn nói chỉ cần tới Mỹ Lợi gọi điện, ông bạn ấy sẽ chỉ đường tới nhà. Hơn 10 năm nay chưa lai vãng Tư Hiền nhưng Trần lão cứ lên đường, có lạc lối cũng không sao vì đi là đủ vui rồi. Còn bạn đường? Thì cứ gọi lão Thanh Kongkong. Lão này bạn bè gọi là "dân chơi không sợ mưa rơi".

Thế là hai lão khởi hành từ đây: làng Lại Thế, xã Phú Thượng, huyện Phú Vang. Trần lão định đi theo quốc lộ 1 về Phú Bài rồi rẽ sang cầu Trường Hà, nhưng Thanh Kongkong gợi ý đi theo con đường về làng Ngọc Anh, Diên Đại, nơi có con đường quê nhiều bóng mát.

Cứ lên Honda mà dong ruỗi. Con đường này quả là vắng vẻ, khá im mát và nhất là mở ra một khung cảnh đồng quê thanh bình. Vì đang là mùa gặt cho nên có thể thấy cánh đồng với những ụ rơm thơm thơm thật lớn. Lão Kongkong còn chỉ cho thấy những ụ rơm đang làm nấm to khác thường.

Từ xã Phú Thượng của huyện Phú Vang, con đường dẫn qua xã Phú Mỹ, Phú Xuân, Phú Lương, Phú Đa. Thôn Nam Châu của xã Phú Đa nhắc nhở rằng đây là làng của những người gốc Nam bộ theo phò vua Gia Long, được cấp đất dưới thời vua Tự Đức để ổn định của sống về già ở đây. Nam Châu Hội Quán kề bên phủ Đức Quốc Công ở Kim Long là nơi hội họp của họ.

Đến cuối xã Phú Đa chúng tôi rẽ trái đi theo con đường dẫn ra cầu Trường Hà, mà có người cho là Trừng Hà với nghĩa Trừng là sáng mới đúng. Nhưng khó mà nói cho mấy ông có quyền thế nghe. Cầu Huyền Yến trước Cửa Hậu mà ông gọi là Bạch Yến thì người dân cũng phải gọi theo thôi. Dân có cầu mà đi là quí rồi. Tên với tuổi, đúng với sai làm chi.

Qua cầu một đoạn thì gặp ngay đường 49B. Chúng tôi rẽ phải và cứ thế đi qua Vinh Thanh, Vinh An, Vinh Hưng. Mãi trò chuyện chúng tôi đi ngang ngã ba để rẽ sang làng Mỹ Lợi mà không hay. Cho đến khi Kongkong nhìn thấy trên cao phía bên phải có đỉnh một ngọn tháp với lá cờ Phật giáo bay phất phới mới hỏi chùa chi ri hè? Trần lão nói trong vùng này lão chỉ biết một ngôi chùa trên núi là Túy Vân. Hỏi một người bán quán bên đường thì đúng là Túy Vân Sơn thuộc xã Vinh Hiền rồi. Hóa ra là đi quá nhà bạn hơi xa. Nhưng có hề chi, cứ lên thăm chùa rồi gọi bạn thôi. Qua điện thoại mới biết ông bạn cũng định rủ mình ghé qua nhà rồi đi thăm chùa. Lên chùa khoảng 20 phút thì ông bạn từ nhà chạy đến nơi.

Đường lên chùa hồi trước rất vắng, ngày nay hàng quán đông đúc và một điều kỳ dị là con đường chạy xuyên qua chợ, đúng hơn là chợ đã "tự phát" lấn ra đường mà không ai sắp xếp lại. Ra khỏi chợ là một con đường khá quang đãng, nhưng ngay trước cổng chùa lại là mấy quán hàng bán cá liêu xiêu nhếch nhác. Vậy mà nhà nước vẫn cứ xếp chùa thuộc hạng "di tích lịch sử cấp quốc gia" và là một điểm tham quan trên bản đồ du lịch!

Chân núi Túy Vân chẳng có một bãi để xe, nhưng may là còn chỗ trống để đậu xe. Nhìn bên trái du khách thấy đầm Cầu Hai rất gần, nhưng bước đi mấy bước liền thấy một bãi rác "hoang sơ" một cách đáng sợ!
Cũng may là tấm bia của vua Thiệu Trị khắc bài thơ Vân Sơn Thắng Tích năm 1841 thì hãy còn.

Bia đề thơ Vân Sơn Thắng Tích của vua Thiệu Trị
Núi xưa có tên là Thúy Hoa, nhưng về sau do kỵ húy tên của Hoàng Hậu của vua Thiệu Trị là Hồ Thị Hoa cho nên đổi thành Thúy Ba, sau này là Thúy Vân, nhưng dân gian gọi là Túy Vân.

Trên núi có chùa do Minh Vương Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) dựng để người dân thấm nhuần Phật pháp. Nhưng qua thời gian hơn 100 năm đã sụp đổ, vua Minh Mạng nhân một chuyến đi thăm cửa biển Tư Dung cho dựng lại chùa đặt tên là Thánh Duyên, đằng sau xây gác đặt tên là Đại Từ, và nơi cao nhất cất một tháp gọi là Điều Ngự (Đức Phật có một danh hiệu là Điều Ngự Trượng Phu).

Vua Thiệu Trí đánh giá chùa Thánh Duyên là một trong 20 cảnh đẹp bậc nhất của kinh đô. Bài thơ Vân Sơn Thánh Tích là để ca ngợi cảnh này:

Bích thúy toàn ngoan bất kế xuân
Dầu long ẩn phục liệt lân tuân
Huệ phong chung độ u lâm hưởng
Không cốc hương la pháp hải tân
Thụ luyến từ vân phù bích lạc
Kính xuyên tăng kịch tạp hồng trần
Thánh duyên phổ tế hàm quy thiện
Phật tích tăng quan tự hữu nhân
(Tạm dịch )
Vòi vọi non xanh ước mấy xuân
Rắn rồng nương náu chốn hang thần
Gác thiền chuông điểm rừng sau dội
Cõi diệu hương đưa biển pháp nhuần
Cây vướng mây lành lên thượng giới
Ðường xuyên guốc sải lấm hồng trần
Duyên vua rưới khắp đời quy thiện
Cảnh Phật huy hoàng hẳn có nhân

Điều đáng mừng là chùa nay đã được trùng tu đàng hoàng.
Đi vào cổng nhìn bên trái có một tấm bia khác. Tấm bia này đề là Ngự Chế, trong đó có 4 bài thơ có lời chú giải bằng chữ Hán của vua Minh Mạng khắc năm 1837.



Bia Ngự Chế của vua Minh Mạng

Bài thứ nhất dịch nghĩa là:
Dự lễ chùa Thánh Duyên

Xưa đổ nát gần hết,
Nay hầu hết trang nghiêm
Hào quang ngời bảo tướng,
Tuệ nhật sáng kim thân.(1)
Lưng dựa núi Thúy Vân,
Mặt hướng về biển cả
Cửa tùng hoa mừng khách,
Lối đá chim đón người.
Khánh rung xuyên rừng rậm
Tiếng kinh rộn hàng cây.
Núi sâu đẹp như vẽ,
Cảnh đẹp vui lòng người.
Khấu đầu chúc thọ mẹ,
Cầu đảo phúc con dân.
Đâu dám xưng hậu thuật(2)
Chỉ cốt rạng tiền nhân(3)
Chú giải:

Thời xưa núi này chùa rất nhiều, đều do Hoàng Tổ Hiển Tông Hiếu Minh Hoàng đế (Nguyễn Phúc Chu) xây dựng. Về sau trải qua nạn giặc Tây Sơn, nơi đây bị tàn hủy gần hết. Năm ngoái ta đi kinh lược tới đây, nghĩ rằng: danh sơn, thắng tích không thể để mai một mà không truyền lại. Huống chi đây là nơi Hoàng Tổ của ta làm ra để cầu phúc cho thần dân, vả lại đầu năm sau là đại lễ mừng thọ bảy mươi tuổi cho Thánh mẫu Hoàng thái hậu, vì nhớ nghĩ đến mẹ nên đẩy mạnh việc mở rộng Thánh Duyên. Vào dịp tốt mùa thu năm đó ở nền cũ xây chùa rồi đặt tên là: “Thánh Duyên tự”, ý nói rằng Hoàng Tổ lưu dấu tích ở đây, cho nên ta đặt ra câu đối rằng:
“Thánh tức là Phật, Phật tức là Thánh, có Thánh ấy mới mở ra sự cao sâu của Phật pháp.
Duyên vốn có Nhân, Nhân vốn có Duyên, có Nhân đó mới khuếch trương sự đủ đầy của thiện duyên.”.
Lại ở sau đó trên lưng chừng núi cho xây một cái gác tên là “Đại từ các”. Lại nữa, ở trên đỉnh núi xây một cái tháp tên là “Điều Ngự tháp”. Vào tháng Giêng năm này cũng đã hoàn tất để cung kính phụng thờ chư thiên tôn Phật. Hồi đầu mùa xuân, vì chưa rảnh rỗi đến đây. Nay là tháng ba tiết trời mùa xuân mát mẻ, vạn việc triều chính vơi bớt, ta mới thân hành dìu mẫu thân lên danh thắng này, thấy điện vũ huy hoàng, bảo tướng trang nghiêm. Trong lòng Thánh mẫu vui vẻ, khỏe khoắn bước chân, liền quay lại dạy ta rằng: “Hoàng đế có thể nói là người giỏi kế tục những việc làm tốt của các vị tiên vương đặt ra vậy”. Ta là phận làm con chỉ biết cảm tạ mà không dám nhận lời ban khen. Chỉ cốt trên thì phụ giúp hoàn thành thiện tâm của Hoàng tổ, thứ đến là làm đẹp lòng Thánh mẫu, cầu mong cho Thánh mẫu được thượng thọ sống lâu, quốc gia đươc an bình, dưới thì thần dân được khang thái, mùa màng tươi tốt, sông nước thuận hòa, nội tĩnh ngoại yên, đó thực là ý nguyện vốn sẵn từ trước của ta vậy.

Bài thứ hai dịch nghĩa là:
Gác Đại Từ
Gác cao dựa lưng núi
Cúi nhìn cảnh sắc nhiều.
Vượt lên cao trăm bậc,
Núi thẳm vờn mây trời.
Phía Nam ngàn núi phục,
Phía Bắc biển rộng chầu,
Rừng sâu cây rậm rạp,
Quanh co lối dẫn vào.
Lưng trời mưa hoa tụ,
Giữa trưa gió cuốn hương.
Chân như(7) nơi thắng địa
Bảng vàng đề “Đại từ”
Bài thứ ba dịch nghĩa là:
Lên tháp Điều Ngự
Bảo tháp nguy nga tận núi cao
Mười bậc trèo lên há mỏi sao,
Bốn mặt mênh mông ngàn đất rộng,
Ba tầng chọc thẳng giữa trời cao.
Điều Ngự ngàn thu còn lưu dấu,
Pháp luân thường chuyển vạn cổ truyền
Nội điển chưa am, thông diệu đế
Thiện tâm rộng mở hiểu chân thuyên.
Chú giải:

Trên tháp Điều Ngự dựng trục pháp luân bằng đồng. Bánh xe đều gắn chuông. Đến lúc gió thổi vào, bánh xe chuyển động và phát ra tiếng, xa gần đều nghe thấy. Lại nữa, tháp xây ba tầng. Tầng trên thờ Trung Thiên Điều Ngự Thích Ca Mâu Ni Văn Phật Tây Thiên Cực Lạc Pháp Vương. Tầng giữa thờ Nhân Gian Điều Ngự Phúc Bị Quần Sinh Vạn Thiện Chí Tôn. Tầng dưới thờ Địa Phủ Điều Ngự Minh Sát Sâm Nghiêm Diêm La Chủ Tể. Trung Thiên Điều Ngự là hiệu của vị Pháp Vương, sự tích này thấy trong Kinh văn. Thứ hai theo ý của ta, thấy đây là vị đầu tiên sáng lập ra đạo Phật. Còn về Địa Phủ Điều Ngự U Huyền khỏi phải nói cũng rõ. Đến như Nhân Gian Điểu Ngự mà hiệu là Phúc Bị Quần Sinh Vạn Thiện Chí Tôn, hoặc có người hỏi có thuyết nào nói không ? Thưa rằng, có thể đấy. Các vị vua trên thế gian chí thánh như hai ông Nghiêu, Thuấn cho đến các triều đại Nam Bắc (hễ ai) làm chủ thiên hạ mà ban ơn đức đến cho mọi người, để cho đời sau chịu phúc mà không có điều gì đáng hổ thẹn, chê trách, người như thế thì Thích gia gọi là Phật, Nho gia gọi là Giác, còn Pháp gia gọi là Thầy. Phụng sự các vị ấy để an ủi quần sinh, thì có gì không được. Xét về lý thì cũng chẳng có gì sai trái.
Bài thứ tư dịch nghĩa là:

Thúy Hoa sơn hành cung tức cảnh.

Sau tường dựa chân núi,
Cửa sổ sát bờ nước
Non Thái nuốt Bắc hải.
Núi Đôi chạm nam thiên
Mắt phóng xa nhìn ngắm,
Lòng vui mở mang nhiều.
Gió mát từ đâu thổi,
Khi nóng đã dần tiêu.
Sườn núi cây mây phủ,
Rừng hoa được mưa tưới.
Nửa đêm tiếng chuông vọng,
Giữa trưa kinh chùa vang.

(còn tiếp)

Trương Văn Thanh
Trần Ngọc Bảo


Thứ Ba, 5 tháng 6, 2012

VỊNH CAM RANH : CHUYỆN THẬT NHƯ BỊA

Xuống địa phương thấy lúc nào cán bộ cũng bận họp, bận đi cơ sở. Vậy đi cơ sở làm gì khi mà những chuyện "tầy đình" xẩy ra lại không hay biết?

Mấy tuần gần đây, liên tiếp có nhiều chuyện "nóng" khiến dư luận bàn tán. Mới đây nhất, lại chuyện các thương lái Trung Quốc vào làm ăn buôn bán ở khắp đất nước ta cứ như chỗ... không người.

Chuyện "lắc và gật"

Làm ăn, buôn bán, chuyện sang tận "xứ người" đầu tư thời hội nhập cũng là "chuyện thường ngày ở huyện" nên không thể "bế quan tỏa cảng".

Chúng ta cũng sang tận bên kia đại dương, cách nửa vòng trái đất đầu tư khai thác còn gì.

Hội nhập mở cửa thì mọi thứ đều phải chấp nhận, vấn đề là sức đề kháng của cơ thể. Và thứ nữa là phải biết "gật' và biết "lắc" đúng lúc đúng việc.

Có quá nhiều bài học cho sự "lắc và gật".

Nhiều nhà máy đường, rồi nhà máy xi măng lò đứng có dạo ồ ạt tràn sang. Có đại biểu Quốc hội đăng đàn cảnh báo và nói rõ nếu chúng ta cứ "gật" như vậy sớm muộn đất nước ta sẽ trở thành bãi rác.

Chuyện "lắc và gật" dư luận còn lên tiếng trong nhiều dự án cụ thể: Cho thuê rừng đầu nguồn, nơi biên giới. Sân golf ở mũi Sa Vĩ địa bàn quan trọng địa đầu tổ quốc. Các dự án ở những vị trí chiến lược thời gian qua...cũng đã "nóng" tại Hội trường Quốc hội.

Người viết bài này đã từng đến dự án sân golf ở Móng Cái ngay sát cửa khẩu sông Bắc Luân.

Bên kia là đất láng giềng, nơi có dự án nhà máy điện hạt nhân, còn bên này là dự án sân golf.

Địa phương cho biết dự án này phải báo cáo lên trên. Trên đã thẩm định chu đáo nên mới "gật". Nhưng nhiều người đến đây vẫn thấy tiếc cho một bãi biển non nước hữu tình sát biên giới- bãi biển Trà Cổ- không được đầu tư lại mọc lên một dự án khác. Và quan trọng đây là một vị trí chiến lược như nhiều người đã từng lên tiếng.

Và chuyện không "lắc" không "gật"

Nhưng có những chuyện không "lắc", cũng không "gật" nhưng vẫn xẩy ra. Chuyện mua cua ở Cà Mau, mua dứa, mua khoai ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Khi hỏi thì chính quyền sở tại không biết, cũng chả ai "gật".

Mới đây nhất, việc thương lái Trung Quốc vào tận quân cảng Cam Ranh nuôi cá. Khi báo chí lên tiếng thì địa phương mới giật mình chỉ đạo cơ sở báo cáo.

Lạ nhỉ, đất nước ta có tiếng là trật tự, kỷ cương, quản lý chặt chẽ từ trên xuống dưới cơ mà.


Lồng bè do những người Trung Quốc điều hành tại Cam Ranh

Việc gì ở đâu đều không thể thoát được sự quản lý. Ví như các vụ tội phạm. Nhiều vụ việc những tên tội phạm gây án không hề để lại dấu vết mà chúng ta đã nhanh chóng truy nã và phát hiện được chỉ trong ít thời gian...

Thế mà ở đây thương lái Trung Quốc không những vào thu mua cá mà còn tổ chức nuôi lồng bè cá chỉ cách quân cảng Cam Ranh có 300m.
Lại còn chuyện những người này đã kịp thời... lấy vợ "tại trận" như cái anh A Giót. Ông thương lái này lấy được một chị vợ ở ngay Cam Ranh mà địa phương cũng không biết mới là chuyện thật như bịa.

Khi nhiều thông tin đăng tải trên báo, Thành ủy Cam Ranh liền chỉ đạo UBND Cam Ranh báo cáo. Ngay sau đó UBND Khánh Hòa có văn bản khẩn yêu cầu TP Cam Ranh vào cuộc và phải báo cáo sớm.

Thật là một sự chỉ đạo khẩn trương. Tuy muộn!

Thôi thì các vụ khác họ có thu mua như cua, dứa, đỉa, hay như móng trâu, râu ngô non rồi "chuồn" thì còn có lý do, đằng này lại tổ chức cả 4 cơ sở thu mua cá và 1 cơ sở nuôi với rất nhiều lồng bè vào cỡ nhất nhì cơ mà.

Tài thật, tài không thể hiểu nổi.

Mà sao bây giờ hệ thống chính quyền ta chỗ nào cũng được Nhà nước trả lương lại làm ăn thế nhỉ? Không biết họ làm gì?

Đọc báo chí, nghe tin tức mà thấy giật mình. Đành rằng ở tận Trung ương không nắm được phải chỉ đạo báo cáo để nắm. Đằng này ngay việc của địa phương cũng không nắm được lại phải dưới báo cáo.

Thế những cuộc hội họp giao ban hàng ngày hàng tuần đều có, sao không có ai phản ảnh? Xuống địa phương thấy lúc nào cán bộ cũng bận họp, bận đi cơ sở. Vậy đi cơ sở làm gì khi mà những chuyện "tầy đình" xẩy ra lại không hay biết?

Không biết là điều đáng trách nhưng biết mà không báo cáo mới là chuyện đáng đặt dấu hỏi? Phải chăng là bao che hay còn gì nữa không?

Cam Ranh là quân cảng và giá trị của nó như thế nào, người Việt Nam chắc ai cũng đều hiểu.

Việc bất chấp tất cả làm ngơ cho người nước ngoài vào đây làm những việc "bình thường mà không bình thường" nên chăng cần làm rõ.

Đăng Tấn ( Vietnam.net)