Thứ Hai, 30 tháng 4, 2012

SAU CHIẾN TRANH - NGUYỄN MIÊN THẢO

Khi những người chiến thắng hân hoan đi khắp phố phường
nói những điều tôt đẹp
Đó là những điều chính đáng đổi bằng máu xương
của những người đã chết

Cũng là lúc mà những người vô tội khác
Bắt đầu cuôc sống lầm than
Ông giáo sư thất nghiệp
suốt ngày đi ngoài đường dáo dát tìm trong vô vọng
một chiếc bóp hay vài đồng tiền đánh rơi của ai đó
Những cô gái hôm qua còn ngồi ở giảng đường đại học
Phải bán thân nuôi gia đình

Sự ly tán ,chia lìa, nghèo đói bắt đầu một cách khác
Trước và sau cuộc chiến không có gì khác nhau
Một sự hoán vị nỗi bất hạnh của người này thay cho người khác
Như đổi một chiếc áo
Ở đó bắt đầu những sự cưỡng đoạt mới
Chiến tranh cưỡng đoạt con người bằng cái chết
Hòa bình cưỡng đoạt con người bằng sự sống
Cái chết và sự sống chưa hẵn cái nào bất hạnh hơn
Đôi khi chết còn hơn sống

Tôi nghiệm ra mốt điều
Sự sống mỗi người đôi khi chỉ là áp đặt

Khi ra đời
Không ai có quyền chọn lựa ở nơi nào
Chọn lựa cha mẹ
Chọn lựa anh em
Chọn lưa miền nam,miền bắc
Nghèo hèn hay giàu sang
Thôn quê hay thành thị
Con trai hay con gái
Nhưng người ta có quyền chọn lựa cách sống của chính mình
Đó chính là điều tai họa
Là cái ác nẩy mầm
Là sự phản kháng
Là sự ngộ nhận về tự do
Là chân lý không chân lý

Sự đòi hỏi được ăn no,được sống giàu sang
Là điều chính đáng
Nhưng không phải là sự cướp đoạt của người khác
Đó là điều vô cùng giản dị
Nhưng sau chiến tranh
Điều đó thường xảy ra



Lòng tham và sự độc ác
Sau chiến tranh
Điều đó thường xảy ra

Người ta có quyền say sưa chiến thắng
Nhưng đằng sau nó
Sự vô luân luôn tiềm ẩn

Khi sự vô luân biến thành quyền lực
Trở thành niềm say mê của nhiều người
Điều đó thường xảy ra

Mục đích của chiến tranh
Mà những người yếu thế hơn chính là sự bình an
Thường được gọi là chính nghĩa
Nhưng sau chiến tranh
Thường khi là sự đổi khác

Sau chiến tranh
Chưa hẵn là hòa bình

Thứ Bảy, 28 tháng 4, 2012

EM ƠI , VỀ ĐÂU KHI NGÀY SẮP TẮT ! - CAO THOẠI CHÂU



Em đẹp như câu châm ngôn
Phủ lên tim tôi một lớp buồn
Và em đẹp như lời thề thốt
Thuở ban đầu trai gái phải lòng nhau

Tôi đi dò những bến sông sâu
Hỏi thăm từng kè đá
Tiếng róc rách trong đêm buồn bã
Con đò chiều vội vã sang sông
Vì sao em phủ một lớp buồn
Lên trái tim tôi có nhiều vết nứt

Tôi dò trong lùm cây bụi cỏ
Những kỷ niệm buồn rơi rớt hôm nao
Hỏi thăm từng cơn gió
Chiều thênh thang hỏi tiếng phi lao
Châm ngôn là những tiếng rì rào
Ngày chúng mình chia tay hôm ấy
Về đâu
Về đâu
Trước khi ngày sắp tắt

Tôi chờ em ở bến sông này
Tôm cá hiểu
Cây lá hiểu
Đàn sếu vòng vòng chia sẻ cùng tôi

Một mai nếu vỡ con thuyền
Tôi bám lấy rong bèo trên biển
Biển không phải là sông
Là chiếc ao nhà tắm ngày thơ ấu

Biển có sóng sầu lên cao vút
Như lúc hồn tôi nhớ châm ngôn
Trong tim tôi thánh thiện nỗi buồn
Như tiếng kinh cầu khi ngày tắt nắng
20-4-2012

Thứ Sáu, 27 tháng 4, 2012

CHUNG THÂN - NGUYỄN MIÊN THẢO

Em treo trái tim tật nguyền của tôi bản án tử hình
rồi đứng vỗ tay cười và bỏ đi biệt tích
Tôi thường trực với niềm hạnh phúc
hạnh phúc buồn
hạnh phúc nhớ
hạnh phúc cô đơn

Em giam cầm tôi trong niềm hoan lạc
cách nơi hành hình chỉ một bước chân
ở đó treo đầy hoa ly và cẩm chưóng
tuyệt không có một bông hồng

Em phán quyết rồi bỏ đi
bản án trở thành chung thân cấm cố
Tôi biết trái tim em không bao giờ yên ổn
ngày tôi trở thành tội đồ
của niềm hạnh phúc .

Thứ Năm, 26 tháng 4, 2012

CAO HUY KHANH - VN HỒ SƠ HẬU CHIẾN 1975 - 2012 ( KỲ 109 )



NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ


1.091 - Nguyễn Hữu Hanh
CHUYÊN GIA KINH TẾ THẤT CƠ LỠ VẬN
Tiến sĩ kinh tế Việt kiều Mỹ sinh 1923 tại Huế. Sống ở Mỹ (2012).
Tốt nghiệp tiến sĩ kinh tế ở Pháp.
Về miền Nam với tham vọng “phục vụ đất nước như là mục tiêu tối thượng của đời mình”. Lần lượt nắm giữ nhiều chức vị lãnh đạo kinh tế quan trọng từ thời Ngô Đình Diệm đến Nguyễn Văn Thiệu như Cố vấn kinh tế, Thống đốc Ngân hàng Quốc gia, Tổng ủy viên đặc trách kinh tế – tài chính trong chính phủ…
Nhưng thực tế không cho phép làm được gì nhiều do tình hình chính trị miền Nam ngày càng rơi vào rối ren liên tục thay đổi chính quyền, nhân sự. Thất vọng, năm 1968 qua Mỹ lại làm cố vấn và chuyên viên cao cấp cho các tổ chức kinh tế quốc tế như Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF.
Tuy nhiên con đường sự nghiệp vẫn gặp trắc trở, năm 1981 xảy ra bất đồng quan điểm nên từ chức khỏi IMF.
Dù vậy vẫn còn nặng lòng với quê hương nên năm 1991 khi VN bắt đầu tiến hành Đổi mới liền quay về nước tìm cơ hội đóng góp cho nền kinh tế đất nước. Nhưng 4 lần trở về từ đó đến năm 1994 một lần nữa vẫn không làm gì được do đụng phải cơ chế bảo thủ quan liêu bao cấp chưa kể thành kiến chính trị.
Đành tay trắng trở về Mỹ ở ẩn viết hồi ký “Câu chuyện đời tôi” in năm 2004.

1.092 - Nguyễn Hữu Hạnh
NGƯỜI PHÁT LỆNH ĐẦU HÀNG
Chuẩn tướng VNCH sinh 1923 tại Mỹ Tho. Sống ở TPHCM (2012).
Nguyên thuộc cấp của tướng Dương Văn Minh từ thời đi lính Pháp đến thời Ngô Đình Diệm.
Vì vậy, sau khi tướng Dương văn Minh đảo chính Ngô Đình Diệm rồi đến lượt mình bị nhóm “tướng trẻ” Nguyễn Văn Thiệu – Nguyễn Cao Kỳ lật đổ thì bản thân rơi vào bất mãn chế độ. Từ đó năm 1970 khi còn là đại tá ở Cần Thơ đã được Cộng sản móc nối làm cơ sở “nội gián” trước khi được thăng chuẩn tướng.
Năm 1974 về hưu.
Đến khi tướng Dương văn Minh lên nắm chức Tổng thống VNCH 2 ngày cuối cùng cuối tháng 4.1975 đã được gọi lại ra làm Phụ tá Tổng Tham mưu trưởng quân lực VNCH. Từ đó đã tận dụng cơ hội vận động ông Minh chấp thuận “bàn giao” chính quyền cho Cộng sản.
Và đích thân mình lên Đài Phát thanh Sài Gòn đọc lời kêu gọi binh lính “hạ vũ khí” trước quân Cộng sản đang rầm rộ tiến vào Sài Gòn Thủ đô VNCH.
Sau đó dưới chế độ mới được đưa vào hàng ngũ “nhân sĩ” trong tổ chức Mặt trận Tổ quốc.
Một trường hợp là “kẻ phản bội” hay người thức thời giác ngộ Cách mạng như ông thầy đỡ đầu Dương Văn Minh để cho lịch sử công tâm đánh giá.

1.093 - Nguyễn Thành Tâm
HOA SEN CỨU ĐỜI CHẤT ĐỘC DA CAM
Lao động nghèo sinh 1995 tại Bình Thuận. Sống ở Bình Thuận (2012).
Vừa sinh ra đời đã bị dính di chứng CĐDC không biết từ ai từ đâu vì ngay sau đó đã bị cha mẹ bỏ rơi đem cho người cô nuôi nấng.
Lớn lên với cơ thể què quặt luôn mắc đủ thứ bệnh dai dẳng không khỏi, đầu óc lại không bình thường thuộc dạng tâm thần nhẹ.
Không học hành gì được nên không biết làm gì để kiếm sống. May mà sau đó ở địa phương rộ lên phong trào làm nghề gia công sơ chế hoa sen làm sản phẩm xuất khẩu như bóc vỏ sen, tách gương sen lấy hạt, moi tim sen… nghề đơn giản nên xin theo làm. Tuy sức khỏe không tốt, tâm thần không ổn định song được cái hiền lành chịu khó nên dần dà cũng làm được, không bằng ai nhưng ngày cũng kiếm được 40.000 đồng.
Cám ơn đời, nhờ “Phật độ” (hoa sen gắn liền hình tượng dân gian đức Phật) đã giúp mình không biến thành người vô dụng.

1.094 - Phạm Văn Tuấn
BỆNH VIÊM DA KHỚP XƯƠNG CẤP TÍNH
Người khuyết tật sinh 1979 tại Nghệ An. Sống ở Nghệ An (2012).
Cha bộ đội chiến đấu miền Nam trở về dính CĐDC nằm liệt một chỗ.
Còn bản thân mình đến 13 tuổi phát sinh di chứng hậu quả chất độc này khiến bị liệt nửa người, 2 chân không cử động được. Đi bệnh viện được chẩn đoán mắc bệnh hiếm viêm da khớp xương cấp tính khó chữa nổi, nó làm toàn bộ xương sống, xương cổ, xương tay cứng đờ không cử động.
Nằm viện một năm bác sĩ bó tay, đến lúc thể trạng sa sút không ăn uống được, toàn thân lạnh ngắt nên gia đình đành đưa về chuẩn bị lo hậu sự.
Không ngờ sau đó vẫn thoi thóp gượng dậy, sống cầm cự qua ngày trong cảnh nợ nần tiền chạy chữa bấy lâu. Dù vậy vẫn cố gắng tập đi xe lăn rồi đăng ký học lớp đồ họa và nhiếp ảnh ở TP Vinh. Qua đó được phát hiện có năng khiếu vẽ tranh.
Học xong quay về làng mở lớp dạy vẽ và chụp ảnh, trở thành “nghệ sĩ làng”.
Từ đó được một cô học trò nhỏ đem lòng yêu thương tình nguyện kết tóc xe duyên bất chấp bố mẹ ngăn cản đòi từ con. Rồi cũng sinh được một con trai đầu lòng.
Niềm vui sống được nhân đôi, mới đặt tên mới cho lớp học của mình là “Tuấn Hello” như một lời mời mở rộng vòng tay đón nhận cuộc đời, đón nhận mọi người đến với mình.

1.095 - Phan Khắc Từ
LINH MỤC CẤP TIẾN QUÁ ĐÀ
Tu sĩ Công giáo sinh 1941 tại Hải Phòng. Sống ở TPHCM (2012).
Trước 1975 làm phó xứ giáo xứ Vườn Xoài một giáo xứ lớn ở Quận 3 – TPHCM, nổi tiếng là linh mục tiến bộ thiên tả sát cánh cùng phong trào Thanh Lao Công (phong trào thanh niên hoạt động xã hội của Công giáo), cùng giới sinh viên chống chế độ Thiệu – Kỳ theo Mỹ. Hoạt động gắn bó với giới dân nghèo đô thị nên được tặng cho biệt danh “linh mục hốt rác”.
Trong thời gian này có tham gia hoạt động ngầm cho cộng sản, được kết nạp Đảng.
Vì thế sau 1975 trở thành linh mục “quốc doanh” làm trung gian giúp Nhà nước thành lập (kiêm giữ chức điều hành) Uy ban Đoàn kết Công giáo thân chính quyền độc lập với tổ chức Công giáo chính thống thuộc giáo quyền quốc tế Vatican. Từ đó vào Quốc hội 3 khóa liên tục, làm tổng biên tập tuần báo Công giáo và Dân tộc.
Tất nhiên hoạt động thân Cộng đó bị giới Công giáo truyền thống phản bác, chống đối.
Nhưng bên cạnh đó, bị phê phán nặng nhất – đối với cả giới ngoài Công giáo - là vấn đề đời tư trong thời gian đầu theo cộng sản trước 75 đã… có vợ và… 2 con! Vợ là một sinh viên gốc Bến Tre gặp trong phong trào đấu tranh đô thị sau này mới biết là… đảng viên, sau 75 từng làm bí thư quận đoàn ở TPHCM (nên vụ “phá giới” này có thể do Việt Cộng “gài”?).
Vụ tai tiếng bị vỡ lở công khai năm 1986 từ phía người vợ “bí mật” khiến bản thân chỉ còn biết biện hộ qua loa rằng chẳng qua ấy chỉ là “phút yếu lòng” nhất thời, nay không còn quan hệ nữa (chỉ thỉnh thoảng có đi thăm con thôi). Rằng đã báo cáo với đức Hồng y sẵn sàng xin ra đạo nhưng… không được chấp nhận!

1.096 - Phan Kim Thịnh
CHỦ BÁO VĂN HỌC “TRUNG LẬP”
Nhà báo sinh khoảng 1938 tại Hà Nam. Sống ở TPHCM (2012).
Di cư vào Nam 1954 đến năm 1962 làm chủ nhiệm bán nguyệt san “Văn Học” nổi tiếng ở miền Nam tồn tại lâu nhất cho đến tháng 3.1975 ra được tất cả 202 số.
Dù trên danh nghĩa làm chủ nhiệm tạp chí này nhưng thực tế tờ báo trải qua 2 giai đoạn phát triển khác hẳn nhau. Giai đoạn đầu từ 1962 – 1968 (86 số) tờ báo ban đầu khai sinh từ phong trào sinh viên đấu tranh chống chế độ Ngô Đình Diệm nên thực chất nội dung báo do nhóm Dương Kiền (nhà văn, nhà thơ) thực hiện nghiêng về tính thời sự chính trị – xã hội – văn hóa theo xu hướng trí thức dấn thân với ý hướng xây dựng hòa bình cho một xã hội miền Nam tự do dân chủ tiến bộ không Cộng sản. Nhìn chung có giá trị thời sự và trí thức chân chính đáng kể. Trong giai đoạn này bản thân (và vợ, một nhà thơ) chủ yếu chỉ đóng vai trò quản lý.
Nhưng từ năm sau năm 1968 tình hình chiến sự Nam – Bắc leo thang khốc liệt không còn phù hợp với lý tưởng đó nữa mà lại bị chính quyền nghi kỵ nên nhóm Dương Kiền rút lui (một số thành viên bị động viên vào quân đội VNCH, một vài người khác lại ly khai vào bưng theo mặt trận Giải phóng miền Nam (*). Bấy giờ tờ báo mới thực sự do ông chủ nhiệm lâu năm nắm toàn bộ thay đổi hình thức (khổ nhỏ hơn) lẫn nội dung bây giờ mang tính chất văn học đại chúng, kiểu khảo cổ “tầm chương trích cú” qua loại chuyên đề văn hóa, văn học trong nước lẫn quốc tế, cổ điển đến hiện đại (các tác giả, tác phẩm, chủ đề sáng tác…). Từ đó không còn giữ được giá trị uy tín như trước, chỉ trở thành một dạng tài liệu giáo khoa bổ sung cho giới học sinh sinh viên.
Đáng chú ý là trong loại chủ đề tác giả văn học VN đã giới thiệu cả những tác giả của miền Bắc hiện tại như Nam Cao, Thế Lữ, Tô Hoài, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư… chủ yếu về sự nghiệp thời Tiền chiến. Tuy nhiên đó cũng là một trường hợp “ngoại lệ” hiếm có dưới chế độ Thiệu – Kỳ “quân quản” miền Nam.
Sau 1975 vẫn ở lại TPHCM với một kho sách cá nhân sưu tầm lưu giữ từ lâu khá đồ sộ từng được sử dụng làm tài liệu thực hiện các chuyên đề báo Văn Học. Nay cũng rút từ đó ra để viết nhiều bài và in sách về các giai thoại, đời tư nhân vật lịch sử đã qua như cựu hoàng Bảo Đại, Trần Lệ Xuân (vợ Ngô Đình Nhu)… Bài và sách (bút danh Lý Nhân Phan Thứ Lang) khá ăn khách trên báo và nhà xuất bản ngành công an.
Chẳng những vậy, năm 2006 còn làm một chuyến viễn du đất Mỹ thăm con ở bên đó, gặp lại bạn bè cũ thời làm báo Văn Học nói chung đều vui vẻ cả!
------------------------------------------------
(*) Riêng thủ lĩnh Dương Kiền ra làm luật sư, sau 1975 qua định cư Na Uy.

1.097 - Phan Lạc Tiếp
CHUYÊN GIA VỚT VƯỢT BIÊN
Việt kiều Mỹ công nhân ngành tàu biển sinh tại Sơn Tây. Sống ở Mỹ (2012).
Thiếu tá hải quân VNCH từng làm hạm trưởng tàu tuần duyên rồi về Bộ Tư lệnh Hải quân ở Sài Gòn làm trưởng phòng. Có viết và xuất bản vài tập truyện ngắn nên có lúc được giao nhiệm vụ tâm lý chiến hải quân.
Trong biến cố 30.4.75 lên tàu di tản qua Mỹ.
Sau đó nhờ có chuyên môn hải quân nên được nhận vào làm ở một hãng đóng tàu lương cao.
Cũng do có chuyên môn này mà năm 1980 tham gia vào Ủy ban Cứu nạn người vượt biên VN với chức vụ giám đốc điều hành chiến dịch trực tiếp đi theo các chuyến tàu vận động từ nước ngoài ra biển Đông nằm chờ vớt người vượt biển tị nạn chính trị. Chiến dịch kéo dài 10 năm, đến 1990 mới giải tán ủy ban sau khi có thỏa thuận Việt – Mỹ về chính sách H.O và O.D.P cho phép quân nhân, công chức chế độ cũ qua Mỹ định cư hoặc đoàn tụ gia đình kể cả ở các nước khác.
Trong thời gian này có viết và in các tập bút ký ghi dấu một chặng đường lịch sử với cuộc đời nhiều truân chuyên đã trải qua không chỉ mình mà còn biết bao người cùng thế hệ nữa.
Năm 1994 trở về quê hương lần đầu tiên, ra tận miền Bắc thăm quê cha đất tổ. Từ đó về lại Mỹ viết cuốn bút ký khác “Quê nhà 40 năm trở lại” với một cái nhìn thông cảm rộng mở: “Dù muốn hay không chúng ta đã lớn lên và bị cuốn hút vào chiến tranh. Xã hội chúng, đất nước chúng ta theo tôi là nạn nhân của thời cuộc với tất cả những oan trái, tang thương, chia lìa, khốn khổ…”

1.098 - Phan Lạc Tuyên
DƯỚI 3 MÀU ÁO
Nhà dân tộc học sinh 1928 tại Sơn Tây – Mất 2011 ở TPHCM (84 tuổi).
Năm 1951 học lớp sĩ quan VN đầu tiên thời vua Bảo Đại do Pháp đào tạo. Đến 1954 theo đội quân này vào Nam phục vụ chế độ Ngô Đình Diệm.
Gia đình Công giáo nên được chế độ này khá tin dùng, năm 1957 cho đi học Mỹ. Về nước gắn lon đại úy làm chỉ huy phó lực lượng biệt động quân, binh chủng tinh nhuệ thứ ba (sau nhảy dù và thủy quân lục chiến) mới được thành lập của VNCH đóng quân ở Tây Ninh.
Đặc biệt thời này có sáng tác bài thơ “Tình quê hương” nổi tiếng sau khi được nhạc sĩ Đan Thọ phổ nhạc: “Anh về qua xóm nhỏ/ Em chờ dưới bóng dừa/ Nắng chiều lên mái tóc/ Tình quê hương đơn sơ…”
Có tinh thần quốc gia chống chế độ Ngô Đình Diệm độc tài gia đình trị nên năm 1960 dẫn đầu một liên đoàn biệt động quân tham gia cuộc đảo chính Ngô Đình Diệm do một số chỉ huy binh chủng nhảy dù khởi xướng (Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông…) nhưng bất thành nên rút về Tây Ninh vượt biên giới qua Campuchia tị nạn chính trị. Vợ con ở nhà bị bắt giam, vợ chịu không nổi sau thành ra tâm thần luôn phải đưa vào dưỡng trí viện thời đó.
Trên đất Campuchia tham gia viết báo, cộng tác với một tờ báo có khuynh hướng thiên tả. Từ đó được Mặt trận Giải phóng miền Nam móc nối gia nhập Mặt trận rồi năm 1963 đưa ra Hà Nội làm một đại diện giới chống đối chế độ NĐ Diệm.
Nhưng dưới chế độ cộng sản chính thống ở miền Bắc, không được tin dùng (không kết nạp Đảng) nên không sử dụng về mặt quân sự nữa mà cho ngồi không một thời gian. Mãi tới năm 1971 mới cho đi học ở… Ba Lan ngành khoa học xã hội!
Đến ngày 30.4.1975 từ Ba Lan về thẳng TPHCM chứng kiến người em ruột sĩ quan VNCH cũng là một nhà thơ – bút danh Phan Lạc Giang Đông – đi cải tạo 13 năm rưỡi (1994 đi Mỹ diện H.O, đã mất 2001).
Được biên chế vào làm việc ở phân viện Khoa học Xã hội VN cơ sở TPHCM do đã tu nghiệp ngành dân tộc học ở Ba Lan. Từ đó chuyên tâm vào nghiên cứu dân tộc học, tôn giáo VN với một số đề tài điền dã về dân tộc Chăm, Chân Lạp…
Cuối đời còn nghiêng qua nghiên cứu Phật học, đi thuyết giảng ở các chùa. Ba năm trước khi mất quyết định quy y – pháp danh Nguyên Tuệ - vào ẩn tu luôn tại một ngôi chùa nhỏ ở TPHCM với niềm tin cuối đời mới tìm thấy:
“Diệu pháp chân như trăng tỏa sáng
Vô thường Bến Nghé lững lờ trôi.
Chân Lạp, Chiêm Thành vô thường cả,
Trí huệ mây trôi nẻo cuối trời.”

1.099 - Phan Nghị
VUA PHÓNG SỰ XÃ HỘI CẢ 2 CHẾ ĐỘ
Nhà báo sinh 1925 tại Hà Nội – Mất 2004 ở TPHCM (80 tuổi).
Thời trai trẻ ở Hà Nội từng có mặt trong Trung đoàn Bảo vệ Thủ đô hơn 50 ngày đẩy lui quân Pháp năm 1945. Nhưng sau đó ở lại Hà Nội bắt đầu sự nghiệp làm báo viết phóng sự chuyên nghiệp.
Năm 1954 di cư vào Nam tiếp tục làm phóng viên chỉ chuyên viết phóng sự xã hội. Thời Ngô Đình Diệm từng bị bắt giam vì có quan điểm chống đối chính quyền.
Nhưng ấy chỉ là nhất thời chứ chỉ tập trung vào nghề nghiệp viết phóng sự xã hội dài kỳ đăng báo. Nổi tiếng với loại đề tài gai góc (tệ nạn xã hội), phong cách thâm nhập thực tế tại chỗ sống thực, cách viết có duyên, hấp dẫn. Được xem là “đệ nhất phóng sự Sài thành”.
Thỉnh thoảng cũng có nhảy vào địa hạt phóng sự chiến trường trong đó có thiên phóng sự “Đường mòn Hồ Chí Minh” lên tận Trường Sơn ăn ngủ để lấy tư liệu và cảm hứng.
Phong cách sống cũng thế – “sống như chính những gì đã viết” – là “dân chơi” kiểu giang hồ đầy vẻ bụi đời, vui vẻ, thoải mái, bộc trực.
Sau 30.4.75 vẫn ở lại và la fmột trong số ít nhà báo chế độ cũ được phép tiếp tục hành nghề (có lẽ nhờ sự hỗ trợ của người thân, bạn bè thời chiến đấu bảo vệ Thủ đô nay từ Bắc vào). Tất nhiên chỉ viết các phóng sự xã hội vô thưởng vô phạt không dính líu gì đến chính trị cho các tạp chí là chính (và bài dịch báo Pháp).
Nhưng từ đó cũng để lại phóng sự “Phở Sài Gòn xưa và nay” đáng kể hay nhất thời này vốn báo chí chỉ thiên về phóng sự “tô hồng” kém chất luợng, giá trị. Đến thời cởi mở hơn còn viết vài phóng sự về “Xóm liều” ở Hà Nội, cà phê ôm đất Sài Gòn cũ…
Ngoài đời vẫn giữ được phong độ “khứa lão” chịu chơi hơn 70 tuổi còn mang găng tay phóng mô tô chạy ào ào!
Qua đời bệnh già, để lại 6 con (2 gái ở nước ngoài).

1.100 - Phan Thế Phương
“THẦN” TÔM ĐẦM PHÁ
Cán bộ nông nghiệp sinh tại Thừa Thiên - Huế – Mất 1991 ở Huế.
Sau 1975 làm giám đốc Sở Thủy sản Thừa Thiên - Huế.
Với phong cách làm việc bình dị gần dân, từ năm 1985 đã tận tụy hết lòng hướng dẫn cho ngư dân vùng đầm phá Tam Giang (huyện Quảng Điền) khởi nghiệp nghề nuôi tôm giúp thoát nghèo giàu lên thấy rõ.
Năm 1991 đang công tác ở Phan Thiết thì được tin ngư dân Tam Giang sau vụ thu hoạch mùa tôm trúng lớn mở tiệc mừng công lớn mời về dự nên vội vã lên xe ra về. Không ngờ nửa đường gặp tai nạn chết tại chỗ!
Dân phá Tam Giang đã lập miếu thờ tôn xưng là “Thần”, là ông tổ khai sinh nghề nuôi tôm đầm phá mỗi năm đều làm lễ giỗ trang trọng.
(Còn tiếp)


Thứ Tư, 25 tháng 4, 2012

VỌNG - HOÀNG THỊ THIỀU ANH



Một nỗi buồn không tên
Làm lòng ta quặn thắt
Giọt mưa nào
chao chát
Rớt xuống đời
chênh vênh

Anh!
Cứ thế
Lặng im
Người trơ như phổng đá
Em !
Vô tình
Rữa nát
Trong anh ...

Thứ Ba, 24 tháng 4, 2012

THƠ RỜI QUA TIN NHẮN - LÊ NGỌC THUẬN

1.
Buồn vô hậu nhớ vô chiêu
Rượu say say lại liêu xiêu với tình
Phải tâm vô bóng vô hình
Nên ta hồn vía lênh đênh phương nào
Suốt đời chân thấp chân cao
Bổn lai diện mục xới đào không ra
Phật trong ta vẫn là ta
Phật ngoài ta vẫn là ta yêu người
Phật không khóc Phật chỉ cười
Còn ta thì cứ làm người yêu em

2.
Nằm mơ thấy m.t
Ôm ni cô mà cười
Ta tưởng mình có vợ
Hóa ra còn độc thân

3.
Rượu cũng nhạt như trăng tháng hai
Lòng hư rối buồn đã man khai
Phố chợ xưa chừ không ai tới
Rượu nửa ly chừ ta đã say

4.
Ta yêu người trúng cung sát chủ
Nên cả đời xơ xác lôi thôi
Ôm đàn bà bốn phương tám hướng
Vẫn bóng hình xanh ngát vương phi

5
Cái đầu vô gia cư
Trái tim vô địa táng
Bạn bè đang bận yêu
Ta ngồi đây bí rị
Vô hậu buồn khó khăn

Thứ Hai, 23 tháng 4, 2012

CHẮP TAY DÒNG ĐỜI ( KỲ 12 ) - VÕ CHÂN CỬU

Nhịp sóng ngầm


Rừng xưa đã mất. Từ dọc triền núi cao ra tới biển, những nàng con gái ngày ngày đi lấy nước, Chiếc vò đội lên đầu, đôi gánh trên vai; em mảnh khảnh chiếc thùng đơn lẻ. “Nhịp hải hà”…


Từng có người nói rằng điệu thơ lục bát Việt Nam hình tượng từ bước đi của người phụ nữ. Thưở nhỏ, tôi chưa hiểu ra. Khi đã làm thơ, một hôm ngóng về bên kia bờ Cách Thử, nhớ làng. Mấy vần thơ chợt hiện lên, tôi mới tỏ tường:
…Bóng nàng kĩu kịt trên nương
Gánh giùm tôi trọn nỗi buồn nhân gian…
(Tân Thanh, Đại Mộng 1972)


Nhịp sinh thành
Có nhà nghiên cứu cũng sắp đặt Lục Bát là thể thơ “quốc hồn” của Việt Nam, tương tự như Thơ Đường của người Hán, hay HaiKu của Nhật Bản. Thơ Đường hay HaiKu giới hạn trong một số câu quy định. Riêng lục bái có thể là 2 câu mưỡu, nói lối, câu ca mở lời, đưa đẩy, hoặc kéo dài ra ra một truyện thơ khi chưa có văn xuôi…Nhưng so nó với dáng đi của người phụ nữ, nhất là những cô gái đẹp, liệu có cưỡng ép lắm không ? – Không đâu, người phụ nữ bước đi, đâu phải lúc nào cũng “một, hai…” như người lính. Một bên vai hoặc cánh tay thường, ôm, xách cái gì đó. Chiếc cặp đến trường, chiếc nón; cái giỏ đeo, túi xách hay một bông hoa…Và họ bước đi. Cánh tay còn lại đong đưa thành nhịp. Lục bát: nhịp sinh thành - nhịp song ngầm vạn thuở.
Đã có ghi nhận và tranh luận rằng người Thái, người Chăm từ xưa cũng đã làm “lục bát”. Nhà văn Võ Phiến từ cuối những năm ’60 của thế kỷ 20 trong một tạp luận đã ghi lại những dân ca Chăm mang âm vận này. Thơ là của nhân loại, không nên giành độc quyền. Đáng nói là câu thơ làm ra có hay hay không. Rõ ràng là Lục Bát đã đi những “nhịp hải hà”-mượn cách dùng từ của Nguyễn Xuân Sanh trong một bài thơ từ năm 1942. Lúc dìu dặt, lúc khoan thai, khi dồn dập…Có thể nói nhiều người làm thơ đã mở đầu với những câu lục bát, nhưng không ở mãi với người tình đầu. Có người, qua bao trăn trở đi tìm nhịp tự do (như Thanh Tâm Tuyền), hoặc gò câu trong niêm luật của Đường Thi (như Quách Tấn), nhưng cuối đời lại thôi thúc tìm về với cách gieo “lục bát”.
Nó là hơi thở, là bước chân của các cộng đồng cư dân ven biển ?



NHỮNG NGƯỜI THƯỢNG
Cái rừng, cái lá, cái chim
Cái cây, cái cội, cái tim con người
Cái ta đứng giữa cái trời
Cái da màu nắng ngậm lời cái đau
. (Blao, 1972)



Bài thơ của Hồ Ngạc Ngữ đăng trên Tập san Văn 1972 đã ngầm nói lên điều này. Giữa núi rừng cao nguyên, cách điểm sự vật theo cách dùng mạo từ của người dân miền sông nước cho thấy sự lắng tìm của “Những cây bút trẻ” trước những bế tắt của âm điệu trong thời đại chiến tranh. Trong thơ Lục bát Miền Nam lúc này, có những kiếm tìm, nổi bật cách sắp đặt hình tượng, âm điệu “Nghe trong viễn mộ đôi hàng ngựa ra như Viên Linh “Hóa Thân” 1966). Nhiều tác giả thấy cách sắp đặt cho những chữ tạo nên câu “sáu-tám” vẫn không theo kịp sự cuốn hút của cấu trúc truyền thống nên đã chuyển sang hướng lục bát “huyền ảo” mà trau chuốt, nổi cộm là Phạm Thiên Thư “Lên non tìm động hoa vàng ngủ say.”

Từ giữa những năm ’60, văn hóa Thiền xâm nhập nhiều ngõ ngách của cuộc sống, tâm hồn. Như một ước mơ giải thoát. Các nhà thơ khi đã no đủ với các ngõ ngách “Tự do”, có người lại quay về, đóng khung trong xu hướng cổ điển của những cổ phong, thơ Đường, hoặc tìm đến với trong dòng thơ ba câu của thể HaiKu nhưng mang tính “công án”… Tuệ Sỹ, một nhà sư làm thơ nhận ra rằng:“Một thế kỷ đảo điên, điệu lục bát bỗng nghe trong cung bậc lạc loài. Lời thơ thay đổi; điệu thơ thay đổi; một thế kỷ thi ca thay đổi. Nhưng những ai từng lớn lên trong tiếng Mẹ ru, làm sao quên được những câu thơ lục bát? Tôi biết mình không thể làm được một bài thơ lục bát; mà hồn thơ đã bị đẽo gọt qua những khúc quanh phố thị”. Tâm trạng ấy một ngày kia đã được đánh thức, như một lẽ tự nhiên: …“Phố thị với những khủng hoảng cơ giới. Rồi những đêm, theo dõi bóng trăng mờ, tìm về “cây đa bến cũ, con đò nằm xưa”, âm hưởng lục bát của Nguyễn Du chợt đầy tâm tư vào những bước đường phiêu lưu của lịch sử. Tình cờ, những câu thơ lục bát của Hoài Khanh chợt khuấy động. Nó ngân vang từ phương trời đồng vọng của Nguyễn Du, ngay giữa dòng lịch sử cuồn cuộn sóng, hay bên lề cuộc Lữ tồn sinh.” (Lời bạt tập thơ Lục bát của Hoài Khanh tái bản 2011).
Thi sĩ Hoài Khanh là ai ?
Thi sĩ “ẩn tu” ?
Giữa trung tâm Sài Gòn, ngày xưa các nhà sách đều có khu bày sách văn học, quầy trưng bày các tác phẩm mới nhất. Ở nhà sách Khai Trí trên đường Lê Lợi, khách có thể tự do lật vài trang xem thử. Việc kiểm tra được nhân viên bảo vệ thực hiện kín đáo và tế nhị. Nhà sách Xuân Thu trên đường Nguyễn Huệ chuyên nhập khẩu về bán các tác phẩm nước ngoài mới nhất. Tại góc đường Lê Lợi, Công Lý, phía trước Pharmacie Diệu Tâm có một Ki-ốt bày các sách mới nhất do các hang phát hành trực tiếp đưa đến. Tôi và nhiều tác giả mới lúc bấy giờ vẫn hay ra đây vì chị em hai cô Nga, Nguyệt, chủ Ki-ốt sách rất dễ chịu, thường cho khách quen ký nợ khi mua. Dăm ba bữa, tôi lại gặp một người đàn ông trung niên, tướng mặt đạo mạo, hiền lành đến theo dõi các sách mới mà nhà phát hành đã đem đến gửi. Có thể xem nơi này là “thước đo” tình hình tiêu thụ các sách văn học mới. Cô Nga giới thiệu đó là nhà thơ Hoài Khanh, chủ nhà xuất bản Ca Dao. Nhà thơ Hoài Khanh từng là người trông coi nội dung của tập san Giữ Thơm Quê Mẹ do một số nhà sư, trí thức chủ trì. Tạp chí mang tính “văn nghệ Phật giáo này tồn tại khoảng từ 1965-1969 cũng hiền lành như người phụ trách nội dung, nhưng đã giới thiệu được một số tác giả, tác phẩm độc đáo như Chinh Ba với truyện ngắn “Bài thơ trên chiếc xương cụt”. Nhà ở tận thành phố Biên Hòa, thi sĩ Hoài Khanh vẫn giữ thói quen hàng ngày tự đi xe Honda xuống Sài Gòn làm công chuyện rồi về. Trong một nền xuất bản tự do, các nhà văn, nhà thơ có tiếng tự đứng ra điều hành một nhà xuất bản là điều bình thường. Nhà xuất bản ca dao chuyên in các tác phẩm triết học, văn học có tinh thần “Hướng về Đông Phương” nên cũng sống được.
Thi sĩ Hoài Khanh sinh năm 1934 ở thành phố Phan Thiết, nơi mở cõi về Phương Nam cùng lúc với Sài Gòn (1698). Có lẽ nhờ vậy nên tâm hồn ông là nơi giao hòa giữa tính thần bí miền Trung và mênh mông sông nước châu thổ Nam bộ. Tính tình ông trầm lặng, ít nói về mình. Điều này cũng thể hiện khá rõ trong thơ ông. Trước 1975 Hoài Khanh đã xuất bản 4 tập thơ ( Dâng Rừng - 1957, Thân Phận -1962, Lục Bát - 1968, Gió Bấc, Trẻ Nhỏ, Đóa Hồng và Dế - 1970)Gần như những người có xu hướng nội tâm đều thuộc lòng ít nhiều những đoạn thơ của Hoài Khanh:

Rồi em lại ra đi như đã đến
Dòng sông kia vẫn chảy mãi xa mù
Ta ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng
Nghe giữa hồn cây cỏ mọc hoang vu
(Ngồi lại bên cầu, thi tập Thân Phận, 1962)

Thơ lục bát của ông mới thực sự thấm đượm, nằm sâu trong lòng người với những câu hỏi về than phận và sự mong mong của kiếp người:
Nhập định

Về đây trầm túy mặn nồng
Phiêu du từng chuyến thôi lòng lắng nghe
Về đây bụi khói tàu xe
Chân đi hồn lạc tiếng ve hạ tàn
Về đây nghìn cõi âm vang
Đêm sâu rừng ruộng vui tan cuộc nào
Về đây ngắm cõi gầy hao
Vuốt ve ôi tóc cũng sâu suối ngàn
Về đây tự hỏi dung nhan
Cõi kia cành lạnh đi tàn hoang vu
Ôi nghìn năm trắng sương mù
Một người úp mặt trả thù thiên cơ

(Làm tại Bạc Liêu, 1963- trích từ tập thơ Lục Bát, 1968)
Có khi ông tự hỏi:

Mưa về tự cõi hoang vu
Còn ta từ cõi nào thu mối sầu
( Mưa và Đất- Lục Bát, 1968)

Trong những năm thập niên đầu của Văn học Miền Nam, có thể nói: cùng với Bùi Giáng (với Mưa nguồn, Lá Hoa Cồn), thì Hoài Khanh chính là người giữ cho tâm hồn Lục Bát sống mãi với nhịp thời gian. Bùi Giáng sau biến cố cháy nhà (1965) đâm ra hoảng loạn ngôn ngữ, thơ lục bát phần nhiều chơi chữ, thì Hoài Khanh vẫn mang nặng một mối sầu thiên cổ, ít ai tỏ tường. Ngày nay, bạn bè nói ông sống gần như tách biệt (vẫn trong một khu vườn yên tĩnh ở Biên Hòa).

Nghe chim lạ hót trong vườn

Một hôm chim lạ ghé vườn
Hót lên cung bậc vô thường mong manh
Vườn con hoang vắng đã đành
Tiếng chim dựng lại những thành lũy xiêu
Những cơn biến động tiêu điều
Những tình bạn cũ dập dìu chia xa
Những tình yêu tưởng phôi pha
Chừng như sống lại đậm đà nhờ chim
Bao phen ký ức mong tìm
Giờ đây sống lại trong niềm ngất ngây
Cảm ơn chim , cảm ơn ngày
Giúp ta sống lại phút giây nhiệm mầu . . .

Tôi viết những dòng này để cảm ơn ông, nhà thơ “ẩn tu” nuôi dưỡng cho hồn Lục Bát. Rồi một ngày mai, tiếng chim lạ sẽ bay về đánh thức mỗi người tìm về tâm cảnh của mình

(Còn tiếp)

Thứ Bảy, 21 tháng 4, 2012

VỀ MỘT DẤU YÊU - HOÀNG LỘC



có những lúc ta cùng ta ủ dột
em hồng nhan là chuyện của trời cho
thì hà cớ đời ta thêm bứt rứt
khi em đi thăm thẳm một nhà người

ta mới đó mà điêu tàn phong độ
không làm xong nhiều thứ phải cần xong
cứ đứng ở đầu sông mà tiếc nhớ
nước sông trôi sùi sụt mãi trong lòng

ai biểu cứ thương một lần hạnh ngộ
áo em bay không ngớt gió trong đời
ta khóc ngất bao lần sau bóng áo
dẫu mơ hồ nghe được chút thơm rơi

biền biệt mãi những gì ta tưởng gặp
ngày điêu linh nắng rớt cuối con đường
em yêu dấu, em đã từng ngoảnh mặt
thì sá gì dâu biển phía sau lưng...

Thứ Sáu, 20 tháng 4, 2012

TIẾNG VIỆT ĐANG MÉO MÓ : THAY ĐỔI THÓI QUEN XẤU

Những thói quen và quan niệm sai lệch trong việc tiếp nhận ngôn ngữ của giới trẻ khiến các chuyên gia đề nghị cần phải ban hành luật ngôn ngữ.

Sách dành cho thiếu nhi cần tránh những sai sót cơ bản để trẻ em tiếp nhận tiếng Việt chuẩn xác - Ảnh: Lê Thanh

Bê con và cún con

Những sai sót về chính tả, cách dùng từ... không hiếm trong nhiều cuốn sách, thậm chí của những nhà xuất bản lớn.
Trong bộ sách Cùng học điều hay của Nhà xuất bản Mỹ Thuật và Đông A năm 2010, tập truyện Gà con thích ăn sỏi có nhân vật tên là “Cún con”. Từ điển tiếng Việt trước đến nay luôn định nghĩa: “Cún: chó con” nên nếu viết “cún con” là sai. Tương tự, trong bộ sách Bé tô màu vào tranh, tập truyện Cái áo của thỏ con của Nhà xuất bản Thanh Niên năm 2010 có nhân vật “Bê con”.

Trong khi đó, nghĩa của “bê” chính là “bò con”. Trong tập sách Cẩm nang học đường dành cho bé từ 3 tuổi trở lên do Công ty Thiên Long thực hiện, phát cho trẻ ở các trường mẫu giáo, có từ “chuột nhắc” (thay vì “chuột nhắt”)... Trẻ con mới tiếp xúc với ngôn ngữ cần phải được học một cách chuẩn xác, thế nhưng những cuốn sách dành cho thiếu nhi lại có những sai sót hết sức căn bản.

Đáng buồn hơn, những sai sót kiểu này trở nên phổ biến đến mức nhiều người không nghĩ đó là sai. Những cách nói như “ngày sinh nhật”, “đêm dạ hội”, “người giáo viên”, “thuốc tân dược”... xuất hiện khá nhiều trên các văn bản.

Du nhập nhưng phải chọn lọc

Một ngôn ngữ muốn tồn tại thì phải luôn vận động, phát triển. Muốn thế, ngôn ngữ đó không thể đóng kín mà phải tiếp xúc, giao thoa; quá trình này hẳn phải dẫn đến việc vay mượn. Không ai dám bảo đảm có ngôn ngữ nào trên thế giới tuyệt đối “thuần khiết”.

Tiếng Việt của chúng ta cũng trải qua những giai đoạn tiếp xúc với các ngôn ngữ khác như tiếng Hán, tiếng Pháp...; vay mượn, bổ sung để làm phong phú và giàu đẹp thêm ngôn ngữ. Tuy nhiên, lịch sử cho thấy đây là một quá trình tiếp thu có chọn lọc và Việt hóa đến mức có thể.

Tiếng Việt lúc bấy giờ du nhập những từ ngữ chưa có trong vốn từ của mình. Chẳng hạn tiếng Việt hiện nay có hàng loạt từ nguồn gốc từ tiếng Pháp như: A xít (acide), bia (bière), ca cao (cacao), cà phê (café), kem (crème), cà rốt (carotte), sơ mi (chemise), bê tông (béton), lô cốt (blockhaus), tôn (tôle)...

Ngày nay, trong quá trình tiếp xúc với những ngôn ngữ đang là thế mạnh, chẳng hạn như tiếng Anh, chắc chắn tiếng Việt cũng cần phải bổ sung những từ ngữ mới, đặc biệt các thuật ngữ khoa học.

Thế nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc sử dụng vô tội vạ các từ nước ngoài mà tiếng Việt đã có sẵn những từ ngữ rất hay. Chẳng hạn, tại sao không dùng “tuổi hoa niên”, “tuổi hoa”, “tuổi ngọc”, “tuổi ô mai”... mà lại dùng “tuổi teen”? Tại sao phải dùng “passport” thay cho hộ chiếu hay “visa” cho thị thực?...

Một chuyên gia nghiên cứu ngôn ngữ đã từng đau đáu thốt lên rằng ngày nay nói sai tiếng nước ngoài còn có chút lo lắng chứ nói sai tiếng mẹ đẻ thì chẳng ai quan tâm. Học giả Phạm Quỳnh trong thời kỳ Pháp thuộc có một câu nói đầy ý nghĩa: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”. Nhiệm vụ của mỗi người Việt là yêu, giữ gìn, phát triển tiếng Việt nhưng đừng làm tiếng mẹ đẻ trở thành dị dạng.

Tây hóa là do chưa tôn trọng tiếng Việt - Trần Văn Khê

Vào năm 1957, khi tôi sang Anh, gặp một học trò cũ, cậu này sang học Anh ngữ tại London, ngỏ ý muốn ghi âm những bài dân ca do tôi biểu diễn. Cậu đề nghị với tôi như sau (nguyên văn): "Thưa thầy, em xin phép được record thầy hát những bài folksong. Nhưng em không có tape mới. Thầy chịu khó chờ đợi em wipe lại tape cũ rồi em sẽ record thầy". Tôi nói ngay với cậu rằng: "Con mới sang London học tiếng Anh chưa đầy 3 năm mà không nói được một câu tiếng Việt suôn sẻ. Tại sao con không nói “Em xin phép thầy ghi âm những bài dân ca do thầy biểu diễn. Nhưng em không có băng từ mới, thầy chịu khó chờ đợi em xóa băng cũ rồi em sẽ ghi âm thầy”. Tôi thấy việc Tây hóa ngôn ngữ Việt Nam là do giới trẻ hiện nay chưa biết cách tôn trọng tiếng Việt như là một nét văn hóa. Tôi đã sống gần 50 năm ở nước ngoài, dạy học 30 năm tại các trường ĐH ở Paris, trong hội đồng quốc tế âm nhạc, tôi chỉ giao tiếp bằng tiếng Pháp và tiếng Anh. Nhưng khi tôi nói tiếng Việt thì không hề bị tiếng ngoại quốc lấn át tiếng mẹ đẻ.

Lẽ tất nhiên trong môi trường mới, nhất là giữa giới trẻ có chen vào một vài tiếng cũng chẳng sao. Riêng đối với tôi, tôi vẫn thấy chướng mắt và chướng tai khi đọc hoặc nghe những tin nhắn của học trò: "Con xin chúc thầy of con (thầy của con) được sức khỏe ok"... Tôi thiết nghĩ khi chơi với nhau thì khác. Nhưng khi nói chuyện với người thân của mình hay viết ra thành văn bản thì nên tránh những lỗi lầm nho nhỏ đó để giữ cho câu nói còn được thuần tiếng Việt.

Theo tôi, muốn giữ cho tiếng Việt được thuần chất, thì thứ nhất, mỗi người Việt cần phải thương yêu tiếng mẹ đẻ của mình. Thứ nhì, những người có trách nhiệm trong giới truyền thông đại chúng, các bạn dẫn chương trình những buổi truyền thanh hay truyền hình, những người viết báo, viết sách nên cẩn thận vì thính giả và độc giả dễ bị ảnh hưởng, nếu các bạn pha trộn tiếng nước ngoài khi giới thiệu một chương trình hay một đề tài liên quan đến văn hóa Việt. Gia đình và nhà trường có bổn phận phải giúp cho các em sử dụng tiếng Việt một cách đúng nơi, đúng chỗ và đúng lúc.



(TNO)

Thứ Năm, 19 tháng 4, 2012

CAO HUY KHANH - VN HỒ SƠ HẬU CHIẾN 1975 - 2012 ( KỲ 108 )

NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ

1.081 - Phạm Thị Ngọc
TÌM MỘ BỐ RUỘT RA MỘ BỐ CHỒNG
Thường dân sinh 1965 tại Thái Bình. Sống ở Bình Phước (2011).

Năm lên 8 tuổi thì bố chia tay 2 mẹ con lên đường vào Nam chiến đấu. Từ đó bặt tin luôn kể cả sau ngày hòa bình vẫn không thấy về.

Đến cuối năm 1977 mới nhận được thông báo vắn tắt bố đã hy sinh năm 1967 không biết mộ chí hay hài cốt nơi đâu nhưng bận gánh gia đình không vào Nam tìm mộ bố được.

Năm 1997 khi con cái đã trưởng thành ra đời rồi mới một mình lên đường vào TPHCM đi tìm mộ bố. Tuy nhiên ròng rã 4 năm vẫn không kết quả dù đã nhờ đến nhà ngoại cảm tìm giúp.

Vài năm sau mới gặp được đồng đội cũ của bố, từ đó có thông tin tìm đường qua Campuchia nơi đơn vị bố từng đóng quân. Bấy giờ mới biết hài cốt bố đã được quy tập về nước, chôn trong nghĩa trang Tân Biện tỉnh Tây Ninh.

Thế là lặn lội lên Tân Biên mới hay mộ bố đề tên vô danh. Không nản lòng, tìm cách xin ADN từ ngôi mộ vô danh đem đi xét nghiệm xác định đúng là của bố ruột mình. Từ đó ở lại Bình Phước sinh sống để có dịp gần gũi thăm viếng, chăm sóc phần mộ.

May mắn nhờ quá trình đi tìm mộ bố mà ngẫu nhiên xui khiến sao lại truy tìm ra dấu vết mộ bố chồng lâu nay cũng không tin tức thì ra đã được quy tập về nghĩa trang tỉnh Sơn La. Ay là nhờ lý lịch bố chồng có hai điểm trùng hợpp với bố ruột là cũng quê Thái Bình và cũng tử trận đúng năm 1967 nên có bản phân loại nằm chung danh sách liệt sĩ.

1.082 - Phạm Thị Nhẫn
TỰ TAY XÂY NHÀ NUÔI CHỒNG THƯƠNG BINH NẶNG
Lao động nghèo sinh 1956 tại Hải Dương. Sống ở Hải Dương (2007).

Là cô giáo trường mầm non trong làng, năm 1980 gặp một thương binh nặng trở về từ chiến trường miền Nam cụt cả 2 chân ở trại thương binh tự nhiên sinh lòng thương cảm khi nhớ đến cha mình cũng từng là bộ đội hy sinh trong kháng chiến chống Pháp. Từ đó quyết định lấy anh làm chồng bất chấp gia đình, bà con phản đối.

Ngay cả mẹ ruột cũng dọa từ con, chỉ với lý do: “Con đến với anh ấy là cái duyên cái số, sau này sướng khổ con không ân hận điều gì.”

Hai vợ chồng nghèo, chồng lại tàn tật nên một mình mình phải cáng đáng lo hết mọi việc. Trước hết đưa chồng ra trại thương binh rồi xin xã miếng đất nhỏ dựng đỡ căn lều sống tạm cho ra một gia đình.

Một năm sau sinh con trai đầu lòng do thiếu ăn bị suy dinh dưỡng nổi mụt lở loét cả người phải xin nghỉ dạy để ở nhà có thì giờ trông con vừa nuôi gà nuôi lợn làm kế sinh nhai.

Năm 1987 được xã cấp cho mảnh đất nhỏ ngoài chợ (chiếu cố chồng thương binh nghèo) song đâu có tiền để mướn thợ xây nhà. Thế là tự tay mình làm luôn thay thợ, tự đào đất đóng gạch, đắp nền, lợp mái xây nhà tất tần tật mọi việc làm hết như là thợ xây chuyên nghiệp vậy. Mà chỉ có thể tranh thủ làm ban đêm vì ban ngày còn phải chạy chợ buôn bán kiếm sống, chồng chỉ biết phụ giúp giữ con bằng cách… buộc con vào bụng lết qua lết lại dỗ dành con khóc!

Rồi thì căn nhà “tự lực” ấy cũng hoàn thành làm quán nước nhỏ cho chồng ngồi ôm con trông coi cũng kiếm được đô vô đồng ra. Còn minh đạp xe đi xa mua hàng về bán, mỗi tuần đi đi về về đôi lần.

Cuộc sống bấy giờ mới ổn định khá hơn. Sinh thêm được 2 con, nuôi ăn học đều đã trưởng thành ra đời đàng hoàng.

1.083 - Phạm Văn Chiến
BỆNH “QUASIMODO”
Người khuyết tật sinh khoảng 1980 tại Hà Tĩnh. Sống ở Hà Tĩnh (2011).

Cha là bộ đội năm 1968 chiến đấu ở Quảng Trị rồi tiếp tục hành quân qua Lào.

Sau 1975 giải ngũ về quê lấy vợ mà không biết mình đã bị nhiễm CĐDC. Vì vậy sinh 8 con thì hết 7 đã mắc di chứng chất độc nguy hại này trong đó 3 con trai vừa ra đời đã không sống nổi, những đứa còn lại ít nhiều đều không bệnh này thì bệnh khác.

Riêng bản thân mình con út một mắt bị mù, con mắt còn lại thì bị một cái bướu mọc bên cạnh che khuất tầm nhìn.

Khi lớn lên thì cha mất sớm, chỉ còn lại mẹ già ráng làm lụng vất vả nuôi bầy con bệnh hoạn cầm cự qua ngày.

Sau khi 3 anh chị lập gia đình ở riêng cũng nghèo chẳng giúp đỡ gì được cho mẹ già, đến năm 2007 người mẹ suốt đời lam lủ không chống chỏi nổi nữa với cuộc đời đành nhắm mắt buông tay. Để lại mình và người anh kế mắc bệnh thiểu năng trí tuệ giống đứa con nít sống nương tựa vào nhau.

Đến lúc đó căn bệnh bướu quái ác biến chứng phình to che khuất cả con mắt còn sáng khiến không nhìn thấy gì cả, đã vậy còn mọc thêm một số bướu nhỏ khác trên trán trên mũi chảy máu mủ tùm lum. Thân hình lại gầy gò lưng còm bước đi không vững nên hình dạng trông chẳng khác gì nhân vật thằng gù nổi tiếng của văn hào Pháp Victor Hugo trong tác phẩm tiểu thuyết kinh điển “Nhà thờ Đức bà Paris”.

Đi bệnh viện khám cần giải phẫu thì không có tiền bởi bị bệnh không đi làm thuê làm mướn gì được để kiếm ít tiền. Khoản trợ cấp Nhà nước chẳng đủ để mua thuốc mỗi lần cũng đã trên cả triệu đồng rồi.

Chỉ còn cách ngồi cầu Trời khấn Phật mong sao có “phép lạ” nào giúp mình chữa hết bệnh bướu mắt để còn thấy đường đi làm có tiền còn chăm sóc cho người anh tội nghiệp cả đời cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn chẳng biết gì. Nhưng cả Chúa cũng không cứu được cuộc đời khốn nạn của Quasimodo kia mà!
1.084 - Phạm Văn Đính
KẺ PHẢN BỘI HAY NGƯỜI GIÁC NGỘ CÁCH MẠNG?
Cán bộ về hưu sinh tại Huế năm 1937. Đã mất sau năm 2004 ở Huế (khoảng 70 tuổi).

Sĩ quan bộ binh VNCH từ năm 1961.

Từng giữ chức đại đội trưởng Đại đội Hắc Báo, đơn vị đặc nhiệm thiện chiến trực thuộc Sư đoàn 1 đóng tại Huế. Sau đó chuyển qua Trung đoàn 54 của Sư đoàn 1.

Trong cuộc tái chiếm TP Huế xuân Mậu Thân 1968, chỉ huy một đơn vị của Trung đoàn 54 đánh chiếm lại kỳ đài Huế, được tôn vinh như một anh hùng. Qua năm 1969 tiếp tục lập chiến công trong trận đánh cùng Thủy quân lục chiến Mỹ tiến chiếm địa điểm chiến lược “Đồi Thịt băm” do 2 tiểu đoàn quân cộng sản nắm giữ nằm gần biên giới Lào.

Nhờ đó được đề bạt thăng trung tá làm trung đoàn trưởng Trung đoàn 56 của Sư đoàn 3 mới thành lập trú đóng tại trại Carroll ở huyện Cam Lộ có nhiệm vụ trấn giữ vùng địa đầu giới tuyến Quảng Trị.

Nhưng đến đầu tháng 4.1972 trong chiến dịch tấn công của cộng sản – thời điểm còn gọi là “Mùa hè đỏ lửa” - vào Quảng Trị, tướng Vũ Văn Giai Tư lệnh Sư đoàn 3 do không còn được không quân Mỹ yểm trợ nên chưa đánh đã vội rút quân về hậu cứ Quảng Trị. Lấy lý do nhằm bảo toàn lực lượng nhưng như thế đã bỏ rơi quân Trung đoàn 56 cố thủ trong trại Caroll đang bị quân Bắc Việt bao vây dày đặc, đánh điện yêu cầu sư đoàn cứu viện thì được trả lời cấp chỉ huy tại chỗ “tùy nghi quyết định”!

Trong tình thế nguy cấp quân số thua xa đối phương mà lại không được cấp trên hứa tiếp viện, bản thân là trung đoàn trưởng cùng trung đoàn phó đã họp toàn bộ quân số còn lại khoảng 600 người đi đến quyết định nhất trí toàn bộ đầu hàng! Vì biết không có lực lượng ứng cứu, không đường thoát phá vỡ vòng vây nên cố chống cự cũng không nổi mà còn đổ máu binh sĩ vô ích.

Sau cuộc đầu hàng vô tiền khoáng hậu lớn nhất lịch sử chiến tranh VN, vẫn được phía bên kia giữ nguyên quân hàm giao cho nhiệm vụ… quân quản đám tàn quân của mình! Sau đó tiếp tục mang lon trung tá bộ đội kiểu “không quân” ngồi chơi xơi nước cho đến ngày Giải phóng.

Sau 1975 xuất ngũ chuyển qua Sở Thể dục – Thể thao TP Huế, được phân công cho làm quản lý… sân vận động Tự Do đến năm 2003 về hưu.

Lịch sử sẽ phán xét công hay tội, từ người hùng trở thành kẻ phản bội VNCH nhục nhã hay là người thức thời sáng suốt biết “bỏ tối ra sáng” lại có trách nhiệm và lòng nhân đạo quý trọng mạng sống đồng đội dưới quyền. Một trường hợp như Tổng thống Dương Văn Minh sau này.

1.085 - Phạm Văn Hướng
TRỜI NGÓ LẠI
Thương binh sinh tại Hải Dương. Sống ở Đồng Nai (2011).

Sau 1975 là bộ đội xuất ngũ trở về quê nhà Hải Dương làm nông.

Lấy vợ cùng quê sinh được một gái một trai, gia đình êm ấm. Nào ngờ 2 đứa con khi lớn lên mới có dấu hiệu bị di chứng CĐDC khiến đứa con gái đầu óc chậm phát triển cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn, còn đứa con trai thì mắc chứng bại liệt nằm một chỗ.

Bị hàng xóm dị nghị nói ra nói vào mà cuộc sống thời bao cấp ngoài Bắc ngày càng khó khăn nên mới quyết định dắt díu vợ con vào Đồng Nai tìm đường lập nghiệp mong tương lai đỡ hơn.

Nhưng đến lúc này thì bản thân mình mới phát bệnh suy nhược cả người mất sức lao động đẩy cả nhà vốn đã có sẵn 2 con bệnh tật vào chỗ lao đao sắp chết đói tới nơi. Cả người vợ chịu cảnh khổ cũng không nổi nữa nên năm 1996 đành đoạn bỏ nhà bỏ chồng con đi biệt tăm!

Trong cảnh 3 cha con dở sống dở chết như vậy bỗng nhiên trên trời rơi xuống một… nữ thiên thần ra tay cứu vớt gia đình đại bất hạnh này. Ấy là một phụ nữ đã hơi luống tuổi (trên 30) cũng từ Hải Dương vào Đồng Nai thăm bà con qua đó nhân cùng là đồng hương nên mới biết tình cảnh 3 cha con. Thế rồi tự nhiên sinh lòng thương cảm tình nguyện về… làm vợ thương binh, làm mẹ 2 con bệnh hoạn mà không cần phải làm đám cưới gì cả!

Từ đó một mình chị vừa chăm sóc 3 cha con bệnh đủ thứ vừa đi làm thuê kiếm tiền về nuôi tất cả, bao nhiêu vất vả cực nhọc đều gánh vác hết với ước mơ giản dị chân chất “chỉ mong có một mái ấm để vun vén, tối về đỏ lửa thổi cơm, sáng dậy quét tước cửa nhà vậy là vui lắm rồi.”

1.086 - Phạm Văn Sơn
SỬ GIA ĐI CẢI TẠO MẮC BỆNH HỦI
Đại tá VNCH sinh 1915 tại Hà Đông – Mất 1978 ở Vĩnh Phú (64 tuổi).

Học trường Bưởi ở Hà Nội, theo đạo Công giáo. Năm 1949 đi lính Pháp.

Từ thời trẻ đã có xu hướng theo nghề sử học, từng in 2 cuốn sử năm 1949 – 1951 tại Hà Nội trong đó có cuốn “Việt Nam cách mạng sử”.

Sau 1954 di cư vào Nam chuyển qua quân đội VNCH, làm chỉ huy trưởng trường quân báo và trường chiến tranh chính trị. Rồi được cất nhắc chuyển qua làm công việc phù hợp chuyên môn là Trưởng khối quân sử Bộ Tổng tham mưu quân lực VNCH hàm đại tá.

Từ đó có điều kiện thuận lợi để soạn và in nhiều bộ sử VN từ thời cổ đại đến hiện đại (còn lấy bút danh Dương Châu) nổi bật có “Việt sử toàn thư” 1960, “Quân sử” của VNCH 1967 (5 cuốn), “Việt sử tân biên” 1972 (7 cuốn). Ngoài ra còn quan tâm lấy tư liệu tại chỗ để viết về những trận chiến lớn trong cuộc xung đột Quốc – Cộng như “Vĩ tuyến 17” năm 1959, cuộc chiến Mậu Thân 1968, trận “tử thủ” An Lộc cũng như trận Thành cổ Quảng Trị 1972…

Sau 1975 đương nhiên đi cải tạo miền Bắc rồi mắc bệnh nan y tình nghi bệnh phong cùi (người lở loét, rụng lông mi, ngón tay co quắp…). Không có thuốc men, phương tiện chữa trị nên bị cách ly cộng thêm nhiều chứng bệnh khác cả tim, phổi lẫn suyễn. Chỉ còn biết chờ chết với thái độ bình thản chấp nhận của một người viết sử quá hiểu cái giá phải trả trước bánh xe lịch sư cán qua không thương tiếc không chừa một ai.

Năm 1978 chết tàn mạt trong trại cải tạo Vĩnh Phú, chôn ở vừng rừng núi gần đó.

Năm 1983 cuốn “Việt sử tân biên” được in lại tại Nhật Bản.

1.087 - Phạm Văn Tần
GÀ TRỐNG NUÔI CON CĐDC
Lao động nghèo sinh 1940 tại Hà Tĩnh. Sống ở Hà Tĩnh (2009).

Vào bộ đội chiến đấu trên chiến trường Quảng Trị và vùng Thượng Lào từ năm 1962.

Năm 1972 bị thương nặng nên được cho xuất ngũ về quê.

Lấy vợ sinh con đầu lòng năm 1974 nhưng được một tuổi thì bệnh mất. Sinh tiếp bé trai thứ hai lớn lên lại mắc chứng tâm thần. Đến đứa con trai thứ ba sinh ra đã bị bại liệt cầm cự sống đến năm sáu tuổi rồi cũng qua đời. Đứa con gái thứ tư sau đó cũng không thoát khỏi hậu quả CĐDC mà người cha lây nhiễm thời chiến tranh nên mắc bệnh chân tay co rút, đầu óc thiểu trí năng.

Cũng may 2 đứa con gái út tương đối lành lặn bình thường. Nhưng đứa em út mới được hai tuổi thì đến lượt người mẹ bị suy tim – hẳn cũng do quá đau buồn thương các con mất sớm - ra đi vĩnh viễn để lại cho chồng gánh nặng nuôi 4 con trong đó 2 đứa – một trai một gái – tâm thần bất ổn cả ngày ở nhà hoặc bỏ đi lang thang không làm được việc gì.

Thế là dù bản thân còn mang vết thương chiến tranh nơi bả vai lẫn trong đầu nhưng vẫn gắng gượng đi làm thuê làm mướn đủ việc nặng nhọc nuôi con được ngày nào hay ngày đó chứ không dám nghĩ đến chuyện lâu dài: “Con mất, vợ mất, những đứa còn sống với mình cũng mắc bệnh không chữa được khiến nhiều lần nghĩ quẩn muốn tìm đến cái chết cho hết chuyện. Nhưng nghĩ lại thương 2 đứa con gái lành lặn đang tuổi học hành mà phải cố sống làm lụng lo cho chúng đến trường…”

Với niềm hy vọng duy nhất là 2 đứa con gái đó học hành khả quan sau này có thể ra đời làm việc để còn thay mình nuôi 2 anh chị bệnh tật.

1.088 - Phạm Văn Thịnh
LIỆT SĨ SỐNG LẠI 34
Thương binh sinh tại Thái Bình. Sống ở Thái Bình (2008).

Sau khi chiến tranh chấm dứt bị báo tin về quê nhà đã hy sinh mất tích nên đương nhiên được phong liệt sĩ cho thân nhân hưởng chế độ.

Thực sự chưa chết mà chỉ bị thương nặng mất liên lạc với đơn vị cũ rồi trải qua nhiều bệnh viện chữa trị từ nơi nơi này qua nơi khác khiến tưởng lầm đã tử trận. Vì thế mãi đến năm 1989 được cho ra viện mới tìm được đường trở về quê nhà.

Trở về với căn bệnh sốt rét kinh niên dai dẳng trong người mà giấy tờ qua bao năm lưu lạc đã mất hết nên không làm được chế độ thương binh trong khi chế độ “liệt sĩ” tất nhiên phải bị cắt! Đành sống nhờ vào vợ làm mảnh ruộng nhỏ nuôi một chồng 2 con.

Nuôi ăn đã cực rồi huống gì nuôi con học hành, chỉ mong làm được chế độ song thủ tục quá phiền hà chỉ còn biết than thở “Số tôi khổ”!

1.089 - Phan Hoàng Oanh
NHỚ LỜI THỀ CÔN ĐẢO
Cán bộ về hưu sinh tại miền Nam. Sống ở Côn Đảo (2010).

Hoạt động cộng sản nên mới cưới vợ được 5 tháng thì bị bắt giam khám Chí Hòa ở Sài Gòn. Năm 1975 chuyển ra nhà tù Côn Đảo, trở thành một trong những người tù “chuồng cọp” thường xuyên.

Sau ngày giải phóng 30.4.75 thay vì như các bạn tù khác nóng lòng trở về đất liền đoàn tụ gia đình thì bản thân chấp nhận tiếp tục ở lại với Côn Đảo dù ở quê nhà còn mẹ già và người vợ trẻ mong ngóng, thay vào đó chỉ nhờ bạn bè đem thư và kỷ vật về.

Tất cả chỉ vì lời hứa với các đồng chí cũ cùng chung cảnh tù đày nơi đây rằng sau này “người còn sống chăm lo cho người đã chết”, vì vậy tình nguyện ở lại lo chăm sóc phần mộ các liệt sĩ đồng đội.

Sau khi cuộc sống và công việc ở Côn Đảo ổn định rồi mới xin phép về thăm nhà và thuyết phục vợ đem con theo mình… ra Côn Đảo ở luôn!

1.090 - Phan Huy Quát
CỰU THỦ TƯỚNG TRỐN KHÔNG THOÁT
Bác sĩ sinh 1908 tại Hà Tĩnh – Mất 1979 ở TPHCM (72 tuổi).

Tham gia Đảng Đại Việt chống Cộng sản từ thời Pháp nên 1954 di cư vào Nam.

Hành nghề bác sĩ tại Sài Gòn song song hoạt động chính trị gây dựng được uy tín là người trí thức “quốc gia”. Từ đó năm 1964 được mời tham chánh lần lượt giữ chức tổng trưởng giáo dục rồi ngoại giao và cuối cùng qua năm 1965 làm thủ tướng chính phủ thời Hậu – Dương Văn Minh đảo chính chế độ Ngô Đình Diệm.

Nhưng chính phủ dân sự cuối cùng này (có tướng Nguyễn Văn Thiệu giữ chức Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Quốc phòng) chỉ tồn tại được 3 tháng, sau đó phải nhường chỗ cho giới quân sự “tướng trẻ” Nguyễn Văn Thiệu – Nguyễn Cao Kỳ lên nắm quyền theo Mỹ chủ chiến đến tận ngày miền Nam giải phóng 30.4.75.

Đến thời điểm đó bản thân còn làm bác sĩ bị kẹt lại không di tản kịp do gia dình quá đông người. Vì thế sau đó được các con dẫn đi trốn loanh quanh trong thành phố chờ cơ hội tìm đường vượt biên. Không ngờ bị công an chế độ mới “cài” nội gián gài bẫy bắt giữ cùng người con trai út tại Biên Hòa vào tháng 8.1975. Cùng lúc vợ con bị giăng bẫy bắt vượt biên ở Cần Thơ.

Bị đưa về giam tại khám Chí Hòa – TPHCM. Tuổi già sức yếu cộng thêm bệnh gan nên bốn năm sau qua đời trong tù. Nhờ cha chết mà đến cuối năm đó người con trai đi cùng mới được trả tự do.

(Còn tiếp)

Thứ Tư, 18 tháng 4, 2012

EM VỀ - HẠ NHIÊN THẢO



Em về trong tiếng mưa ngâu
Trong ta triệu dấu tình đầu ấm êm
Trời buồn đổ giọt mưa đêm
Rơi trên phố cổ buồn thêm dấu hài
Em về đẫm hạt sương mai
Lòng ta như trận mưa dài tương tư
Em về đếm bước chân như
Còn ta ngồi với trầm tư ngậm ngùi
Em về ta một mình thôi
Đêm nằm gối cỏ cuối trời ngủ say
Nữa khuya tỉnh giấc nhìn mây
Gió đông se lạnh buồn ngây ngây buồn
Mai về nghe thoảng tiếng chuông
Mới hay ta ở bên đường sắc không

Thứ Ba, 17 tháng 4, 2012

MƠ TÌNH XỨ HUẾ - TRẦN DZẠ LỮ



Cứ mỗi lần nghe giọng của em
Anh lại nhớ vô cùng giọng mạ
Cố Đô mình trong trái tim mô lạ
Răng thẩn thờ như thuở mới quen?

Cau Nam Phổ thêm miếng trầu têm
Là Tình Yêu đỏ hồng buổi chợ
Mắt của em là con mắt nhớ
Gọi anh về dưới bóng quê cha…

Đò chợ Dinh không còn chuyến người qua
Bời chiếc cầu bắt ngang Gia Hội
Anh vẫn chín- đợi- mười- chờ, em nói
Tiếng bên tê nghe dễ lạc lòng!

Thương mạ một thời gạo-chợ-nước-sông
Câu Mái Nhì nhả ra chung thủy
Thỏ thẻ, ngọt ngào là con gái Huế
Yêu cháy lòng cũng con gái Kim Long…

Nghe giọng em rất dễ mềm lòng
Lương Sơn Bạc cũng sửng sờ, chùn bước
Huống chi anh-gã giang- hồ- áo-bạc
Cứ mơ tình xứ Huế mắt đăm đăm…

Thứ Hai, 16 tháng 4, 2012

CHẮP TAY DÒNG ĐỜI (KỲ 11) - VÕ CHÂN CỬU




Tiếng chim tu hú


Vườn nhà tôi ngập tràn tiếng chim tu hú gọi hè. Các nhà sư Phật giáo vẫn kể rằng : có một người tu mãi không thành chánh quả, cuối cùng hóa thành loài…tu hú !
Chim kêu là…nghiệp của chim. Nhưng tiếng của loài tu hú lại sinh ra khá nhiều chuyện ? Đâu phải vì nó có tên trong sách đỏ (nguy cấp sắp tuyệt chủng), mà bời vì không ít người chỉ mới biết nó qua sách vở. Thật là tai hại bởi một dòng văn chương !
Khi chim tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chin, trái cây ngọt dần…
Hai câu mở đầu bài “Khi con tu hú” từ lâu đã khá quen thuộc ở cả 2 miền. Nhưng tại phía Bắc, bởi vì tác giả Tố Hữu là… lãnh đạo ,nên câu thơ trên đã được bình tán, ca ngợi theo kiểu cổ vũ lòng yêu nước để ra chiến trường.
Anh Phan Lạc Dân, một người làm thơ từ trường Sư phạm Quy Nhơn lên dạy học ở Lâm Đồng và ở suốt từ đó đến nay quả quyết không phải con tu hú gọi bầy. Bởi nó chỉ đi… một cặp, không bao giờ them tụ thành bầy. Vì chim mái theo chế độ…“đa phu”, nên đó chỉ là tiếng của hai…bạn tình. Người suy diễn từ đặc điểm sinh học lại gán cho tu hú là loài chim ranh ma, độc ác. Vì nó chỉ chuyên đẻ gửi, thường đẻ vào ổ các loài chim có than hình bé hơn. Và trước khi đẻ, nó thường gắp một quả trứng có sẵn để xơi. Trứng ấp nở ra, tu hú con thường to hơn chim con ruột nhưng nó biết giả bộ cho giống để được mẹ nuôi mớm nhiều thức ăn, mau lớn rồi bay đi, kêu…tu hú.
Trong một xã hội loạn lạc, để những đứa con của mình được in ra, nhà thơ có khi cũng phải chịu cảnh…đẻ gửi. Nhưng cuối cùng, đâu lại vào đấy. Từ loài chim tu hú, đặc điểm sinh học lại gợi mở ra chuyện văn chương ?

Nghịch cảnh
Những năm 1969-1970, làng văn Miền Nam bỗng bùng lên hiện tượng Nguyễn Bắc Sơn (NBS). Thơ NBS vừa trữ tình, phản chiến, lại rất mới khi miêu tả hiện thực cuộc chiến tranh dưới mắt người thi sĩ. NBS sinh năm 1944, quê ở Bình Thuận. Từ nhỏ anh đã mê làm thơ nhưng tới tuổi phải vô trường sĩ quan. Ra trường không lâu, NBS đã đào ngũ nên bị bắt lính trở lại, được đưa đi làm…binh nhì địa phương quân. Nhờ giỏi tiếng Anh, nên NBS được trở thành thông dịch viên. Anh được đi theo các Ban chỉ huy quân đội Đồng Minh ở một số cuộc hành quân. Có lẽ nhờ vậy nên NBS…đã không bị phục kích, chết đường.
Ngay từ bài thơ đăng đầu tiên, NBS đã nói rõ:
Đời bắt một kẻ làm thơ như ta đi lính
Bắt lê la mang chiếc mai rùa
Nên tâm hồn ta là một cánh đồng úng thủy
Như con nước buồn sau mỗi cơn mưa
(Chân dung tự họa- Chiến tranh Việt Nam và Tôi)
NBS là công lao phát hiện của tuần báo Khởi Hành (bộ mới từ 1969) mà thi sĩ Viên Linh là thư ký tòa soạn. Thơ NBS từ khi mới đăng báo đã làm giới làm thơ và các cây bút lão làng ở Miền Nam bất ngờ, choáng váng. Nhiều người viết bài ca ngợi hết mực. Năm 1972, tập thơ “Chiến tranh Việt Nam và Tôi” được ấn hành. Có thể nói thể thơ, ngôn ngữ NBS dùng không có gì mới lạ. Nhưng nó lại lay đọng lòng người bởi lời thư như “từ trong ruột nói ra”. Kể cả khi ông dùng những từ ngữ rất hạ cấp của cuộc đời, ý thơ vẫn không thô tục mà lại làm cho tâm hốn bay lên !
…Ta ghét đàn bà như ghét cứt
Nhưng vì sao ta cứ phải yêu em
Ôi ! mắt em nhìn như bẫy chuột
Sập chết đời ta biết mấy lần…
( Trên đường tới nhà Xuân Hồng - cô gái đã cho anh cưới về, để chịu kiếp “làm vợ thi sĩ” cho đến giờ).
Tính chất đặc biệt của người thi sĩ cũng đã được anh giải thích thêm, như ở đoạn đầu bài “Chân dung tự họa”:
Trên trái đất có rừng già, núi non, cùng biển, sông
Trong Nguyễn Bắc Sơn có kẻ làm thơ
Kẻ làm thơ đôi khi thành du đảng
Hoặc nhà tu theo khí hậu từng mùa…
Và trong một bài thơ tứ tuyệt:
Ta đọc ba ngàn quyển sách
Sao mà chẳng nhớ điều chi
Ta chỉ nhìn em một cái
Sao mà nhớ đến mê si !
(Giai nhân và sách vở”)
Như nhiều gia đình Việt Nam, cuộc đời NBS phải chịu một nghịch cảnh lớn. Cha NBS là một cán bộ ra Bắc tập kết. Khi vào chiến trường quê nhà, ông giữ chức Phó Chính ủy Khu VI (bao gồm cả tỉnh Bình Thuận bấy giờ). Sau năm 1975, cha con đoàn tụ nhưng không nói chuyện với nhau. 5 năm sau ngày cha mất, người con là Nguyễn Văn Hải tức NBS đã giải bày nguyên do chuyện… “éo le” cuộc đời đã tạo ra.
… Bố tôi ước mơ làm cho loài người sung sướng
Và thế là ông từ tuổi thanh xuân
Cùng bạn bè đi làm cách mạng.


Ông làm cách mạng chừng nào
Thì loài người càng thêm sặc máu.

Tôi ước mơ cõi đời tốt đẹp
Và thế là tôi làm thơ ca tụng loài người
Tôi càng ca tụng chừng nào
Thì loài người càng xấu xa chừng nấy…
(Chuyện hai bố con tôi)
NBS vẫn giữ nguyên “khẩu khí” ngày nào.

Giải thoát
Năm 2005, trùng với dịp 30 năm kết thúc cuộc chiến tranh Việt Nam, NXB Thư Ấn quán đã cho tái bản lại tập Chiến tranh Việt Nam và Tôi. Bài phê bình thơ Nguyễn Bắc Sơn do Đặng Tiến mới viết liền được những người chủ trương “Thơ Tân hình thức” trịnh trọng đưa lên Website của nhóm. Điều này một lần nữa cho thấy trong thơ, hình thức thể hiện không là quyết định. Kiểu thơ khẩu khí như NBS từ lâu đã có nhiều nhà thơ nổi tiếng sử dụng, từ Trần Tế Xương đến Thâm Tâm, Quang Dũng…Nhưng quan trọng nhất ở NBS là hướng về sự giải thoát cho tâm hồn người nghệ sĩ. Điều này quả là thật khó cho một người lỡ mang tính cách “Đi hành quân rượu đế vẫn mang theo…”Những năm sau này, bất cứ lúc nào gặp bạn bè văn nghệ, NBS cũng bày tỏ ước nguyện: lên tu trên núi Tà Cú nổi tiếng linh thiêng gần Phan Thiết. Ở đây có tượng Phật nằm lớn nhất nước. Khoảng năm 2000, tình cờ gặp nhau ở Sài Gòn, sau một trận lúy túy, NBS nhất định đòi về nhà tôi ngủ để sáng hôm sau tôi đưa ra bến xe đi Đà Lạt chơi với Nguyễn Dương Quang. Trước khi từ biệt, anh rút trong túi xách cuốn Kinh Hoa Nghiêm và ký tặng trở lại. Từ đó, NBS tiếp tục mất biệt cho đến nay. Nhà của anh ở đường Chu Văn An gần chợ đã bán để về đầu phía Nam Phan Thiết. Nghe nói NBS còn xây được một “tịnh cốc” trên núi cao Tà Cú. Cuối 2011, tôi và Nguyễn Sa Mạc từ Bảo Lộc cỡi xe xuống, nhờ bạn dẫn đến nhà mới thăm NBS.
Người nhà NBS lúc này thật tình cũng không rõ bây giờ anh đang ở trên núi hay về thăm Sài Gòn. Chợt nhớ mấy đoạn trong bài thơ mà anh đã làm tặng Vũ Trọng Quang, khi bạn đến thăm anh trên núi Tà Cú:
…Quân tử thất thời nằm gãi háng,
Thuyền quyên lỡ hội bỏ đi tu
Tiếng chuông em gõ bên chùa cổ
Mà sao lạnh điếng cõi sương mù

Sương mù, sương mù, ừ sương mù
Khuya về trăng mọc ngọn mù u
Cầm ống sáo đồng gõ vào vách núi
Tráng sĩ hề, lạnh thấu thiên thu
….
Ta lạnh, còn em đâu có ấm
Tiếng tụng kinh là tiếng chim rơi
Để ta tụng bài thơ thiên cổ
Thơ là Kinh Phật đó mình ơi !!!

Em ni cô, ta là thi sĩ
Có lúc thần tiên, lúc ngạ quỷ
Cầm kinh địa tạng ở trong tay
Mà uống rượu sầu say bí tỉ
…..
Nửa đêm tụng chú và rơi lệ
Nơi thanh lương địa mà sao lòng mình chưa thanh lương…
( Tháng Chạp sầu đời trên núi cao )

Tu như kiểu các thi sĩ thì làm sao mà đắc đạo được. Người ơi, tiếng chim tu hú bên trời lại kêu.
(Còn nữa)

Chủ Nhật, 15 tháng 4, 2012

HUẾ GỌI TÔI VỀ . . .

Tối 9/4, nhằm hưởng ứng Festival Huế 2012, Hội Nhà văn Thừa Thiên- Huế cùng Nhóm bạn thơ Huế đã tổ chức đêm thơ "Huế gọi tôi về" tại Trung tâm văn hoá Phương Nam, 15 Lê Lợi, TP. Huế.

Đêm thơ "Huế gọi tôi về" là tình cảm của những người Huế xa xứ, những người yêu Huế nhớ Huế, nhớ về quê hương. Nhóm bạn Huế chủ trương công trình 1000 nhà thơ Huế đương thời gồm các nhà thơ Cao Huy Khanh,Viêm Tịnh,Nguyễn Miên Thảo đã tổ chức đêm thơ * HUẾ GỌI TÔI VỀ *gồm 5 nhà thơ: Lyca Dương Quang Đức; Cao Huy Khanh, Lê Ngọc Thuận, Hà Văn Sĩ và Hạ Nhiên Thảo với những tập thơ: Quê hương và Tình yêu,Mùa không, Hương Trà, Mỹ Chánh thơ, Lạc mất mùa xưa.... Tuy mỗi người mỗi công việc, nhưng với họ, thơ chiếm một phần rất quan trọng không thể thiếu trong đời sống tinh thần.




Những vần thơ đằm thắm đong đầy những kỷ niệm, ký ức một thời với miền núi Ngự, sông Hương, là những niềm vui thời học trò, với mối tình ngây thơ trong trắng một thời với xứ Huế mộng mơ....Có những vầng thơ tuy không nói rõ nơi chốn nhưng đâu đó vẫn phảng phất chất Huế trong thơ của họ.


Đêm thơ thu hút đông đảo anh em văn nghệ sỹ Huế và các khán giả yêu thơ đến thưởng thức.


Minh Nga
(NetCodo)












Thứ Bảy, 14 tháng 4, 2012

CÁO LỖI

TỪ NGÀY 08.04 ĐẾN NGÀY 13.04,
CHỦ NHÂN BLOG HỢP TUYỂN THƠ VĂN
BẬN ĐI DỰ FESTIVAL HUẾ
NÊN BLOG BỊ GIÁN ĐOẠN

BLOG HT TV HOẠT ĐỘNG TRỞ LẠI
NGÀY THỨ BẢY 14.04.2O12
XIN CÁO LỖI CÙNG BẠN ĐỌC VÀ THÂN HỮU


nguyễn miên thảo

Thứ Bảy, 7 tháng 4, 2012

"VÒNG TRÒN NHỎ " TRONG " VÒNG TRÒN LỚN" - TƯƠNG LAI

Giáo sư Tương Lai

Bài phát biểu tại Hội thảo về giáo dục và đào tạo ngày 29.3.2012 do Câu lạc bộ Tư duy Giáo dục TP HCM tổ chức

Đứng trước những bậc đàn anh thâm niên trong ngày giáo dục, tôi rất xấu hổ là mình đã chuyển nghề từ dạy học sang viện nghiên cứu, cho dù thỉnh thoảng có đến giảng bài theo chuyên đề ở một vài trường Đại học, cho nên hôm nay, tôi không dám phát biểu thẳng vào giáo dục mà phải đi đường vòng.

Đúng hơn, là từ cái “vòng tròn lớn” để nói về cái “vòng tròn nhỏ” nằm trong cái “vòng tròn lớn” đó. Bởi lẽ, sẽ không thể nào hiểu, không thể nào tìm giải pháp chiến lược cho hệ thống giáo dục và đào tạo khi không đặt nó vào trong hệ thống lớn hơn mà giáo dục đào tạo là một bộ phận của cái toàn thể ấy.

Vì thế, tôi phải bắt đầu từ xã hội. Nhưng, “Xã hội – cho dù nó có hình thức gì đi nữa – là cái gì? là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người. Liệu con người có được tự do trong việc lựa chọn hình thức xã hội này hay hình thức xã hội khác hay không, C.Mác đặt ra câu hỏi để rồi trả lời: Tuyệt đối là không” (C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 657). Lọt lòng mẹ, con người đã có sẵn một xã hội mà nó không có quyền chọn lựa, cũng giống như đứa trẻ không chọn lựa được nơi nó sinh ra, không thể lựa chọn cha mẹ. Bức tường xã hội đã có trước khi chúng ta sinh ra, chúng ta bị giam hãm trong những bức tường đó bởi chính sự hợp tác tự nguyện hay không tự nguyện của chúng ta, cũng có nghĩa là chúng ta cũng góp phần củng cố những bức tường đó hay đập phá nó đi. “Chúng ta […] bị giam cầm bởi chính sự hợp tác của chúng ta” (Peter L. Berger, Invitation to Sociology – A Humanistic Perspective, Harmondsworth, Penguin Books, 1969, p. 141)

Sự tác động qua lại trong mối quan hệ giữa người và người đã xây đắp nên những bức tường xã hội ấy hay làm rạn nứt, sụp đổ cũng những bức tường đó. Bức tường theo ý nghĩa trừu tượng. Nhưng cũng có những bức tường theo nghĩa đen trần trụi của nó: “Bức tường Berlin” chẳng hạn. Đây là “bức tường ý thức hệ”! Muôn hiểu về sự xuống cấp và quá lạc hậu của hệ thống giáo dục đào tạo phải đi sâu vào vấn đề “ý thức hệ” này. Đấy chính là “vấn đề của vấn đề“, nhưng cũng là mấp mé với khả năng quy kết là “phản cách mạng, chống Đảng” đây, nhẹ hơn là mất quan điểm lập trường, và thời thượng là có biểu hiện “diễn biến hóa bình”. Nhưng đây là Hội nghị khoa học, mà khoa học thì phải để cho giới khoa học được “mở miệng ra”. Cho nên tôi xin được “mở miệng” trước anh Vũ Ngọc Hoàng.

Căn bệnh của não trạng và hành vi lấy một lý luận chính trị, xã hội làm chân lý tuyệt đối và duy nhất, loại trừ và thủ tiêu mọi lý luận, mọi tư tưởng chính trị khác đã là một căn bệnh lâu đời của loài người. Từ khoảng đầu thế kỷ XX căn bệnh ấy được gọi là căn bệnh tôn sùng “ý thức hệ”, sống và đấu tranh với nhau vì “ý thức hệ”. Cái tên gọi ấy có xuất xứ từ Tây Âu. Căn bệnh ấy phân chia cả loài người và từng dân tộc, từng quốc gia, cho đến từng gia đình thành phe ý thức hệ này đối lập sống chết vơí phe “ý thức hệ” khác.

Tình hình này rõ nhất là sau Cách mạng tháng Mười 1917 và nhất là sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, trong chiến tranh lạnh. Bệnh ý thức hệ ấy ở Mỹ, Âu không kém gì ở Liên Xô và Trung Quốc thời ấy. “Chủ nghĩa McCarthy” ở Mỹ, một quái thai ghê tởm, là một ví dụ. Sau khi kết thúc chiến tranh lạnh, bệnh “ý thức hệ” vẫn còn rất nặng ở quy mô cả loài người, từng quốc gia, thậm chí từng gia đình chứ không hết và chưa chắc đã nhẹ bớt đi. Ví như cuộc đấu tranh giữa ý thức hệ “tân tự do” với “ý thức hệ”, đúng hơn, với những lợi ích dân tộc và cá nhân, chống lại ý thúc hệ “tân tự do” là rất sâu và không kém phần đối nghịch.

Nêu lên điều này để nói rằng, không phải những người cộng sản khởi xướng ra bệnh “ý thức hệ”, mà là đưa thêm vào trong khái niệm đó những biến thái mới. Ở ta cũng từng có những mong muốn chuyển “ý thức hệ Mác-Lênin thành ý thức hệ của toàn dân”! Từ Đại hội VI, với tư duy “Đổi Mới”, chúng ta thấy rõ đó là một sản phẩm duy ý chí, lấy lòng mong muốn thay cho thực tế. Bởi thế mới có được Cương Lĩnh của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam được biểu quyết thông qua tại Đại hội VI của Mặt Trận năm 2004 với sự khẳng định: “đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, không phân biệt thành phần xã hội và dân tộc, quá khứ và ý thức hệ, tôn giáo và tín ngưỡng, miễn là tán thành công cuộc đổi mới, nhằm mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đầt nước vì dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh”.

Xác lập được điều này chính là một bước đột phá quan trọng, đưa nhận thức trở lại đúng với quy luật vận động của cuộc sống, từ đấy mà mở ra một cục diện mới, rất mới. Bởi lẽ, phát triển luôn luôn là tự phát triển trong tiến trình tiến hóa, tạo nên những thuộc tính hợp trội, được thực hiện bằng các cơ chế thích nghi qua sự tương tác của hệ thống. Tiến hóa qua cơ chế thích nghi không chỉ biểu hiện bằng cạnh tranh sinh tồn và chọn lọc tự nhiên, mà còn bằng hợp tác và cùng phát triển. Chính sự đa dạng của tiến hóa như vậy tạo nên sự đa dạng, phong phú, rất phức tạp, song cũng hết sức sinh động của cuộc sống. Cuộc sống nói chung và cuộc sống của con người trong xã hội. Mà xã hội lại là một hệ thích nghi cực kỳ phức tạp, trong đó, các thành phần khác nhau, những yếu tố đối lập, tùy theo sức hút của mục tiêu chung đều có lợi cho tất cả, thì không nhất thiết phải đối đầu theo kiểu tư duy “ai thắng ai”, dẫn đến một kết cục phải thanh toán lẫn nhau để giành quyền thắng, chứ không chịu tìm cách thông qua những tương tác có tính hợp trội để có thể tìm được khả năng cùng thắng.

Nhưng đã một thời, “ai thắng ai” là một nguyên lý có ý nghĩa định hướng cho cách tư duy, không chỉ của một nhóm người, mà là tác động đến toàn xã hội. Mọi sinh hoạt trong đời sống chính trị của đất nước đều nằm trong “vùng phủ sóng” của kiểu tư duy “ai thắng ai” trong cuộc đấu tranh giai cấp vốn được xem là động lực của phát triển xã hội. “Ai thắng ai” ngay khi chính quyền đã thuộc về nhân dân, mọi người dân đều được xác lập vị trí làm chủ đất nước, làm chủ xã hội.

Vậy thì, “ai” đây là “ai”, ai thắng ai trong một đất nước mà nhân dân đã phải trả cái giá cho quyền làm chủ vừa giành được ấy bằng máu và nước mắt trong hy sinh chiến đấu của nhiều thế hệ Việt Nam. Vì có chuyện “ai thắng ai” đó, mà phải kiên trì mô hình kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, đối lập với kinh tế thị trường; mới có cải tạo XHCN đối với thành phần kinh tế mà ngày nay được xác lập là lực lượng xung kích trong hội nhập và phát triển. Giờ đây thì đã có thể nói rõ sai lầm của chuyện “quay lưng lại với biết bao sự thật hàng ngày diễn ra trước mắt mình để lao vào những sai lầm với những cái giá đắt nhất phải trả” ấy mà Phạm Văn Đồng đã nghiêm khắc chỉ ra trong “Văn hóa và Đổi mới” xuất bản năm 1994.

Cái giá đắt nhất chính là kéo lùi đất nước lại cả một thập kỷ, để vuột mất những cơ hội của hội nhập và phát triển. Thậm chí khi đã trở thành thành viên chính thức thứ 150 của WTO, nền kinh tế và các nhà doanh nghiệp của ta vẫn còn phải gánh chịu những bất lợi do vẫn bị xem là “nền kinh tế phi thị trường”, và rồi phải phấn đấu thêm 12 năm nữa, những bất lợi ấy mới được bước đầu xóa bỏ. Chẳng hạn như, khi chưa được xem là nền kinh tế thị trường thực thụ, thì Hiệp định về bán phá giá, Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng của WTO sẽ chưa cho chúng ta cơ hội để cứu vãn tình thế bất lợi. Thế là sẽ còn “mất công mười mấy năm thừa ở đây”! Nhưng dù sao thì cũng chỉ là 12 năm chứ không đến nỗi “đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi”!

Quả là, “đoạn trường ai có qua cầu mới hay”, nếu không dứt bỏ kiều tư duy “ai thắng ai” đó, thì không thể nào chân thành đoàn kết và xác định rõ “đồng thuận” chính là động lực của phát triển. Nhưng xem ra không phải là cái di lụy của “ai thắng ai” không còn gây ảnh hưởng chỗ này chỗ kia, lúc này lúc khác khiến cho công cuộc đổi mới không tránh khỏi những trắc trở gập ghềnh, đã có lúc “bước đi một bước, giây giây lại dừng”. Đúng là cất bỏ gánh nặng tư tưởng của một thời quả là không đơn giản.

Không đơn giản, song nếu không sòng phẳng về mặt lý luận để có sự tường minh trong nhận thức thực tiễn, trong việc hoạch định các giải pháp phù hợp với một thời kỳ mới mà vận nước đang thôi thúc mỗi một người Việt Nam muốn góp phần mình vào sự nghiệp chấn hưng đất nước. Nếu không sòng phẳng về lý luận, khẳng định rõ đồng thuận là động lực, đại đoàn kết là động lực chứ không phải đấu tranh giai cấp là động lực như trước đây, thì không thể thúc đây sự nghiệp Đổi Mới một cách triệt để và toàn diện được. Mà trong thực tế, lực cản của Đổi Mới là quá lớn. Không thể tiếp tục Đổi Mới, nếu không chỉ rõ cội nguồn của lực cản ấy.

Xin hãy dừng lại ở một ví dụ sau đây:

Đã từng một thời có những câu thơ bốc lửa giục giã con người đi làm cách mạng “Đi đi em can đảm bước chân lên / Ừ đói khổ phải đâu là tội lỗi!”. Đúng vậy, và rồi “Nuôi đi em cho đến lớn, đến già / Mầm hận ấy trong lồng xương ống máu / Để thêm nóng mai kia hồn chiến đấu” thì giờ đây ngẫm lại có cái gì không ổn! Mà không ổn từ chính logic của hệ tư tưởng:

Xin giải thích bằng một câu chuyện trong “Thế giới phẳng”, một cuốn sách bán chạy nhất của người đã đoạt giải thưởng Pulizer, và theo nhận xét của J. E. Stiglitz, người đoạt giải Nobel kinh tế: “Đặc điểm của một cuốn sách hay là nó khiến bạn nhìn nhận mọi thứ theo một nhãn quan mới, và xét theo tiêu chí này thì Friedman đã thật sự thành công”. Chuyện rằng: “Một người bạn Hồi giáo vùng Nam Á của tôi đã có lần kể cho tôi nghe câu chuyện như sau: Gia đình Hồi giáo Ấn Độ của anh ta bị chia ly vào năm 1948, một nửa sang Pakistan và một nửa ở lại Mumbai. Khi lớn lên, anh ta hỏi cha mình tại sao một nửa gia đình ở Ấn Độ lại có vẻ làm ăn tốt hơn nửa gia đình ở Pakistan. Cha anh nói: “Con ạ, khi một người Hồi giáo lớn lên ở Ấn Độ và trông thấy một người sống trong một tòa biệt thự lớn trên quả đồi, anh ta sẽ nói “Bố ơi, rồi sẽ có ngày con sẽ như ông ta”. Còn khi một người Hồi giáo lớn lên ở Pakistan và thấy một người sống trong một biệt thự lớn trên quả đồi, anh ta sẽ nói “Bố ơi, rồi có ngày con sẽ giết ông ta.” … Khi bạn không tìm được lối ra, bạn thường tập trung vào sự phẫn nộ và gặm nhấm ký ức của mình”. Kể câu chuyện này, Thomas L. Friedman nhằm minh họa cho luận điểm “cho con người một môi trường mà trong đó mọi lời than phiền hay ý tưởng đều có thể được đăng tải trên báo chí, cho họ một môi trường mà trong đó mỗi người đều có thể ứng cử vào một chức vụ – và thử đoán xem điều gì sẽ đến? Họ thường không muốn làm nổ tung thế giới này. Họ muốn trở thành một phần của thế giới”.(Thế giới phẳng, nxb Trẻ, 2006, tr.798)

Sự bất an trong tâm hồn khiến người ta dễ dàng manh động theo bản năng. Phúc âm viết: “Kẻ nào rút gươm ra, kẻ ấy đã mở lối điạ ngục”. Nhưng trước khi rút gươm, tâm thức của anh ta đã chứa đầy hờn căm và những nghĩ suy hiểm ác. Nhìn nhận một sự kiện văn hoá, đạo đức, có thể thấy những nguyên nhân trực tiếp, song thực ra, phải nhìn lùi vào bề dày của những hệ luỵ do nhiều nguyên nhân đã gây ra. Bề dày đó có khi phải tính bằng độ dài của sự ra đời và trưởng thành của mấy thế hệ.

Cho nên, văn hoá phải đi trước một bước thì mới tạo ra được nền tảng tinh thần của xã hội, và đánh giá một hiện tuợng phản văn hoá lại phải lùi lại phía sau nhiều bước thì mới thấu tỏ được nguyên nhân. Có vậy mới đưa ra được giải pháp đúng. Tạo ra một hoàn cảnh “có tính người”, tức là tạo ra một môi trường xã hội trong đó “người với người là bạn”, “thương người như thể thương thân” chính là sứ mệnh cao cả của văn hóa.

Đương nhiên, một môi trường như vậy không tự trên trời rơi xuống, chúng ta tiến hành cuộc cách mạng chính là để hướng tới một môi trường như vậy. Nhưng nếu nung nấu trong “lồng xương, ống máu” một “mầm hận” cho “đến lớn, đến già” thì rồi cái gì sẽ đến khi cách mạng đã thành công? Và nếu tính bài thơ ra đời tháng 2 năm 1938, thì chỉ 7 năm sau Cách mạng Tháng Tám thành công, cậu bé “len lét, cúi đầu, tay xách gói” chắc đã trở thành một người giữ trọng trách với cái “mầm hận ấy trong lồng xương ống máu” thì khủng khiếp quá cho những việc anh ta sẽ làm!

Thì chẳng phải cái “mầm hận” ấy vẫn còn trong não trạng của không ít người đang giữ những vị thế đòi hỏi một tư tưởng cởi mở để thật sự có thể hòa hợp dân tộc trên một đất nước mà không một gia đình nào là không phải chịu đựng những vết thương chiến tranh. Và chắc là trong đó có không ít người nằm trong số còn “lướng vướng” với việc thúc đẩy sự nghiệp Đổi Mới một cách triệt để với tâm thế “cũng cho khỏi lụy trong vòng bước ra”!

Chúng ta đã có những trải nghiệm đau đớn với “cải cách ruộng đất”. với đấu tranh chống “Nhân văn-Giai phẩm”, với đấu tranh ai thắng ai bằng “cải tạo tư sản” và “công tư hợp doanh”, rồi quá trình “kế hoạch hóa tập trung, bao cấp”, “hợp tác hóa bậc cao” ngăn sông cấm chợ, khước từ kinh tế thị trường… đã đẩy đất nước đến bên bờ vực sụp đổ. Trước và trong Đại hội XI, người ta chiếu bộ phim “Bí thư tỉnh ủy” thật có ý nghĩa và cũng thật bạo gan. Tôi nghĩ, nếu mỗi đại biểu Đại hội mà xem nghĩ, hiểu kỹ và tự vấn lương tâm của người cộng sản chân chính và đích thực, chắc sẽ đưa được vào Đại hội một luồng gió mới. Nếu soi kỹ vào những sai lầm kéo dài hàng thập kỷ ấy sẽ thấy “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt chính là cái “mầm hận” đã thấm sâu vào trong “lồng xương ống máu” nhằm đẩy tới cuộc đấu tranh giai cấp được xem là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội.

Xin hãy nhớ lại hình ảnh ông Đình, thường vụ Tỉnh ủy, ông Bao, phái viên của TƯ, rồi cao nhất là ông Trung Chính. Riêng tôi, tôi cứ nhớ lại nét mắt chân tình của ông Trung Chính khi ông ấy dặn với theo xe cấp cứu đưa ông Kim đi bệnh viện: “Cẩn thận, đưa ngay vào bệnh viện Việt Xô, tôi sẽ gọi điện thoại bảo điều ngay những bác sĩ giỏi nhất chữa trị cho anh ấy”. Liệu ông TC có hiểu rằng chính ông là nguyên nhân trực tiếp đẩy ông Kim bị bục dạ dày? Ông Kim, người đồng chí trung thành và dũng cảm, người dám chống lại cả một thế lực khủng khiếp đang đẩy nông dân Miền Bắc nói riêng và cả dân tộc vào thảm họa, chính là người được ông TC “giác ngộ” và kết nạp vào Đảng thời kỳ hoạt động gian khổ trong vòng vây của kẻ thù!

Sự chu đáo, nhân từ nhưng lại cực kỳ cứng rắn trong giữ vững “lập trường quan điểm” của ông TC càng được khắc họa sắc nét bao nhiêu thì càng làm nổi rõ hơn sự khủng khiếp của một cơ chế trói buộc đầu óc con người, làm triệt tiêu mọi sáng tạo và sức chiến đấu của những con người đang giẫy giụa trong sự trói buộc của chiếc mũ kim cô giáo điều và “tả khuynh”. Một trong những di lụy đáng sợ là chính chiếc mũ kim cô ấy trói buộc những đầu óc sáng tạo và những nhân cách trung thực nhưng lại dung dưỡng cho sự tác oái tác quái của đám dòi bọ của cách mạng.

Từ “dòi bọ” tôi nói đấy là dùng lại cách nói của C. Mác: “Có thể Các Mác vui lòng nhắc lại một câu nói mà tôi luôn luôn ghi nhớ trong ký ức của mình: “Tôi đã gieo những con rồng và tôi đã gặt được những con bọ”. Thật có đúng như vậy, song cũng có những con rồng…” (Phạm Văn Đồng. Hồ Chí Minh. Quá khứ, Hiện tại và Tương lai, nxb Sự Thật, 1991, tr. 98).

Vậy thì, gọi đúng tên cúng cơm của cơ chế trói buộc đầu óc con người, làm triệt tiêu mọi sáng tạo và sức chiến đấu của những con người đang giẫy dụa trong sự trói buộc đó chính là chủ nghĩa giáo điều Maoít phản Mácxít từng xem “đấu tranh với người là niềm vui lớn” đem áp đặt vào một xã hội mà tinh thần dân tộc là “động lực lớn nhất của đất nước” như Hồ Chí Minh đã chỉ ra từ năm 1924 để khẳng định rằng: “người ta sẽ không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên động lực vĩ đại và duy nhất ” ấy!

Từ những năm 30, Hồ Chí Minh đã từng chỉ ra rằng: “…phải biết khéo lợi dụng kinh nghiệm. Nếu thấy người ta làm thế nào mình cũng một mực bắt chước làm theo thế ấy. Thí dụ: nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng” (Văn kiện Đảng (từ 10.8.1935 đến 1939), Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng. Hà Nội, 1964, tr.25).

Ngay từ Hội nghị thành lập Đảng năm 1930, Hồ Chí Minh đã khẳng định nếu không giải quyết được vấn đề giải phóng dân tộc, không đòi hỏi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được. Đến năm 1937, Người lại nhắc nhở:”Các đồng chí mắc phải cái bệnh thiên về thợ thuyền lao động quá, có khi chỉ biết những người ấy mà quên hết cả quyền lợi của các tầng lớp, các giai cấp khác, quyền lợi chung của dân tộc cần phải bênh vực. Các đồng chí trong Đảng cần phải hiểu rằng: Đảng ta chẳng những là kẻ bênh vực và lãnh đạo cho giai cấp vô sản mà thôi, mà cũng là kẻ bênh vực và lãnh đạo cho toàn thể dân chúng nữa. Đảng phải làm tròn vai trò ấy.” (Hồ Chí Minh Toàn tập. Tập 4. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1984. tr. 491)

Lịch sử cách mạng Việt Namđã chứng minh một sự thật không thể bác bỏ là: lúc nào lấy dân tộc làm động lực thúc đẩy cuộc đấu tranh cách mạng, lúc ấy cách mạng giành được thắng lợi, còn lúc nào nống đấu tranh giai cấp lên làm động lực, lúc ấy cách mạng gặp khó khăn. Đặt vấn đề ý thức hệ giai cấp lên trên quyền lợi của tổ quốc, lấy vấn đề trung thành với ý thức hệ đó làm điểm quy chiếu cho đường lối tổ chức và đánh giá, tuyển chọn cán bộ, đã đẩy tới những hệ lụy khó lường. Đã đến lúc cần phải nghiêm cẩn và thẳng thắn chỉ ra.

Một trong những vấn đề ấy là vấn đề chuyên chính vô sản.

Xin gợi ra đây những ý kiến của đồng chí Võ Văn Kiệt đề cập tới vấn đề gay cấn này qua đoạn viết về đồng chí Lê Duẩn: “Trong nhiều lần trao đổi, nhận xét và chỉ đạo những công việc chúng tôi đang tiến hành tại thành phố Hồ Chí Minh, Anh Ba nêu rất nhiều gợi ý hết sức mạnh dạn và sáng tạo. Qua những ý kiến chỉ đạo của Anh, tôi hiểu Anh đang trăn trở về mô hình phát triển của đất nước mình không thể rập khuôn theo mô hình của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu, mô hình Trung Quốc. Cũng như trước đây trong chỉ đạo cuộc chiến tranh cách mạng, tôi thấm thía lời căn dặn của Anh: chỉ lúc nào chúng ta độc lập và sáng tạo, xuất phát từ thực tiễn của đất nước, từ lợi ích của dân tộc, lúc ấy chúng ta thắng lợi, lúc nào chúng ta lệ thuộc, giáo điều sao chép của người ta, lúc ấy cách mạng phải trả giá nặng nề.

Tôi hiểu, Anh không tán thành mô hình Xô Viết. Qua tìm hiểu thực tế ở các nước anh em trong phe XHCN và suy ngẫm về lý luận, Anh nhận ra có quá nhiều vấn đề bất ổn. Anh không tán thành áp đặt thể chế nhà nước “chuyên chính vô sản” khi mà nhân dân đã giành lại được quyền làm chủ đất nước mình bằng những hy sinh không sao kể xiết, không thể “vô sản” lại chuyên chính với chính mình, với nhân dân. Tư tưởng về “làm chủ tập thể” mà Anh nung nấu chính là sự cố gắng tìm đường bứt phá ra khỏi những công thức giáo điều không phản ánh được sự vận động và biến đổi của cuộc sống, xa rời ý chí và nguyện vọng của nhân dân.

Đáng tiếc là, những lóe sáng trong bộ óc tìm tòi, sáng tạo của Lê Duẩn chưa được giới lý luận suy nghĩ, bàn bạc một cách nghiêm túc để định hình được một hệ thống lý luận hoàn chỉnh từ sự đúc kết thực tiễn thay vì những lời tụng ca xu thời lúc Anh Ba giữ cương vị Tổng Bí thư và những quy kết vô lối đầy ác ý khi Anh Ba qua đời. Giờ đây nhớ lại, Anh Ba đã từng phê phán những tư tưởng hạn hẹp chỉ bó gọn tầm mắt và mối quan hệ trong COMECOM. Đôi lúc trao đổi với chúng tôi, Anh nghĩ đến việc phải học hỏi thêm những thành tựu kinh tế và mở rộng quan hệ với Châu Âu, với Nhật, với Mỹ. Anh Ba cho rằng đó không chỉ là chuyện chính sách và chiến thuật, mà phải ở tầm đường lối cơ bản. Trong suy nghĩ về đường lối phát triển kinh tế, Anh Ba cũng đã từng nói đến kinh tế hộ, kinh tế hợp tác và kinh tế tư nhân chứ không phải chỉ nhấn mạnh quốc doanh là ưu việt nhất một cách tràn lan mọi ngành, mọi lúc. Ngay cả vấn đề “khoán hộ” của đồng chí Kim Ngọc ở Vĩnh Phú, mặc dầu lúc ấy đã có kết luận chính thức, song Anh Ba vẫn động viên cần tiếp tục tìm tòi cái mới trong quản lý sản xuất nông nghiệp..

Chính tôi đã nhiều lần nghe Anh Ba phê phán những khuyết tật cơ bản của kế hoạch hóa tập trung quan liêu, và đòi hỏi phải dám mạnh dạn tìm tòi cơ chế mới phù hợp với từng bước phát triển của đất nước mình. Anh Ba đã có lần gợi ý với chúng tôi những vấn đề cần suy nghĩ về vai trò của giá, của tài chính tiền tệ, những công cụ và đòn bẩy chính của kinh tế thị trường mà ta nói hiện nay. Rõ ràng là, từ rất sớm, bộ óc lớn ấy đã từng lóe sáng những suy tư về đổi mới như tôi đã nói ở trên.

Chỉ có điều, từ những trăn trở trong suy nghĩ nhằm định hình những vấn đề thuộc về đường lối, đến việc vận dụng vào thực tế, có cả một khoảng cách rất xa. Ở cương vị cao nhất của Đảng, gánh vác những công việc lớn lao của đất nước sau khi Bác Hồ qua đời, đồng chí Lê Duẩn không thể không chịu trách nhiệm về những sai lầm của Đảng, làm chậm sự phát triển của đất nước mà Đại hội VI của Đảng đã chỉ ra. Cho đến hôm nay, tôi vẫn băn khoăn suy nghĩ về một số vấn đề lớn được Đại hội IV quyết định. Đành rằng trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, thoát ra khỏi những lối mòn đã định hình quá lâu trong đầu óc của những nhà lãnh đạo có trách nhiệm hoạch định đường lối không hề là chuyện đơn giản. Nhưng ở cương vị Tổng Bí thư, đồng chí Lê Duẩn phải chịu trách nhiệm những gì và như thế nào. Để làm rõ những vấn đề có ý nghĩa lớn ấy trong lịch sử Đảng nhằm đúc kết những bài học cho những thế hệ hôm nay và mai sau, không thể là những phát biểu tùy tiện, mà phải là những nghiên cứu nghiêm túc với tinh thần trung thực và khách quan.

Năm tháng đã trôi qua, khi viết những dòng này, lòng tôi vẫn bồi hồi xúc động nghĩ đến một hình ảnh đang chiếm giữ trong tim óc tôi một vị trí thật thiêng liêng và gần gũi. Sau Bác Hồ vĩ đại và kính yêu, hình ảnh thân thiết nhất, cảm phục nhất, có sức động viên và nâng tôi lên chính là hình ảnh của đồng chí Lê Duẩn, Anh Ba Duẩn kính mến.”

Thế nhưng sau khi bài này vừa đăng lên thì hai hôm sau trên báo Sài Gòn Giải phóng của một người từng nắm công tác lý luận đã lên tiếng bác bỏ. Trong lập luận, bài viết ấy vẫn khẳng định nhà nước của ta hiện nay, về thực chất vẫn thực hiện nội dung chuyên chính vô sản! Tôi vẫn giữ lại tờ báo có đăng bài ấy nhưng xin miễn nêu ra ở đây.

Vì sao vậy?

Đây là vấn đề cực kỳ phức tạp và nhạy cảm. Sự định hình của nguồn mạch tư duy, nhất là đối với những người đã cao tuổi, vốn sống với hào quang của quá khứ, thật khó mà dứt bỏ khỏi đầu óc mình những cái vốn đã ăn vào máu thịt và là niềm kiêu hãnh lớn, một giá trị được xây đắp vun quén trong cả một đời. Những người từng gánh vác trách nhiệm cao, từng vào tù ra tội, từng chịu đựng mưa bom bão đạn sẽ lại càng khó dứt bỏ những ngộ nhận và sai lầm. Tự vượt lên chính mình là thử thách khó nhất đối với bản lĩnh một con người. Đấy là chưa nói sự lạc hậu với tình hình, không kịp thời nắm bắt thong tin, chỉ quen sống với những giá trị đã định hình cho dù những giá trị bị ngộ nhận hoặc đã “quá đát” trở thành vật cản cho tư duy.

Phải chăng ở đây có thể mượn ý Nguyễn Du qua lời của bóng ma Đạm Tiên nói với nàng Kiều “Rỉ rằng nhân quả dở dang / Đã toan trốn nợ đoạn trường được sao” cho dù là “Ma đưa lối, quỷ dẫn đường / Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi”. Thật ra, một khi mà “Một dây một buộc ai giằng cho ra” thì “đố ai gỡ mối tơ mành cho xong” nếu không tự mình giải phóng cho chính mình mà ngay đến khi đã có thể “Đoạn trường sổ rút tên ra” thì vẫn cứ “Cuộc vui gãy khúc đoạn trường” [ấy chi]! Mà có chuyện đó vì nó có nguồn mạch từ trong quá trình vận động cách mạng.

Xin gợi lại vài tư liệu lịch sử để thấy rằng chính Hồ Chí Minh cũng đã từng là nạn nhân của sự “độc quyền chân lý, áp đặt tư duy, tùy tiện quy kết” từ những cấp rất cao khi kiên định quan điểm về dân tộc, không tán thành thổi phồng vấn đề giai cấp. Chẳng hạn, vì lý do ấy mà Staline không tiếp Hồ Chí Minh, chưa chịu công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cho mãi đến năm 1950 sau cuộc gặp ở Matxcơva.

Một tài liệu cho biết cuối cùng Staline cũng nhận tiếp Hồ Chí Minh, ngay tại phòng làm việc của mình, với sự có mặt đông đủ các nhà lãnh đạo chủ chốt của Liên Xô, phía Trung Quốc có Đại sứ Trung Quốc Vương Gia Tường, phía Việt Nam có Trần Đăng Ninh. Staline mở đầu: “Chúng ta là những người bạn, người anh em thân thiết, gặp đồng chí hơi muộn một chút, xin thứ lỗi!”. Hồ Chí Minh báo cáo tóm tắt tình hình cơ bản về Đảng Cộng sản Đông Dương, về cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ViệtNam và đề nghị Liên Xô giúp đỡ… Staline phát biểu chậm rãi nhưng rành rọt, đại ý:

* Tại sao các đồng chí tự ý giải tán Đảng? Đ/c tưởng lừa được chủ nghĩa đế quốc à, chính là đ/c lừa chúng tôi, vì ở xa, không biết thực hư thế nào (có ý trách là không xin ý kiến).

* Chính phủ các đ/c là cái chính quyền gì, sao mà lắm nhân sĩ, trí thức, địa chủ, quan lại thế? (ý nói không phải chính quyền công nông).

* Tại sao đến nay các đ/c không tiến hành Cải cách ruộng đất? Để đánh thắng đế quốc Pháp, sự chi viện của quốc tế là cần thiết, nhưng phải phát động quần chúng, động viên quần chúng, đem lại lợi ích thiết thân cho họ, đó mới là điểm mấu chốt làm nên thắng lợi. Staline tỏ ý không hài lòng lắm, hỏi: Trong hai cái ghế dân tộc và giai cấp, đ/c ngồi trên cái ghế nào? (có ý phê bình lập trường giai cấp còn mơ hồ).

* Về vấn đề viện trợ cho cuộc kháng chiến của Việt Nam, Staline nói: Cách mạng Trung Quốc nay đã thành công, Trung Quốc đã trở thành trung tâm của Cách mạng châu Á, từ nay chi viện cho Việt Nam sẽ do Trung Quốc đảm nhiệm, vì sát với Việt Nam. Liên Xô có nhiệm vụ giúp Trung Quốc xây dựng kinh tế, những vũ khí chúng tôi giúp Trung Quốc, nay kết thúc chiến tranh, cái gì không dùng nữa, hợp với Việt Nam, thì có thể chuyển cho Việt Nam (như một sự phân công quốc tế); đồng thời Staline cũng nhắc nhở Việt Nam phải ra sức học tập kinh nghiệm của Trung Quốc.

Tóm lại, Liên Xô không muốn dính vào vấn đề Việt Namở thời điểm này. Cuộc đón tiếp được coi là hờ hững. Trong cuộc tiếp, nhân trên bàn có cuốn họa báo “Liên Xô trên công trường”, có ảnh Staline, Hồ Chí Minh bèn xin Staline một chữ ký để làm kỷ niệm. Staline ký tặng rồi sau đó sai KGB bí mật lấy lại. Điều này làm cho Hồ Chí Minh rất bức xúc: “Làm sao lại có thể có chuyện đó giữa những đồng chí cộng sản với nhau”?.

(Theo Trương Quảng Hoa: “Ghi chép bí mật về quyết sách giúp Việt Nam chống Pháp”, đăng trên T/c Viêm hoàng xuân thu, số 10 năm 1995.)

Hiểu sự kiện này có ý nghĩa như thế nào mới thấy ra được bản lĩnh của Hồ Chí Minh, những khó khăn mà Hồ Chí Minh phải vượt qua như thế nào. Gay gắt nhất là khó khăn do các đồng chí của mình gây ra. Trần Phú, Ngô Đức Trì là những học viên lớp đầu của trường Phương Đông trong khoảng thời gian từ 1927 đến 1930, đã được đào luyện rất kỹ theo tinh thần “giai cấp chống giai cấp” của Đại hội VI, trở thành những người cộng sản ‘cứng rắn”, được cử về để “uốn nắn” lại những “sai lầm” của Nguyễn Ái Quốc!

Người phê phán gay gắt nhất Nguyễn Ái Quốc là Trần Phú. Tại Hội nghị TƯ tháng 10-1930, Trần Phú đã phê phán những sai lầm về chính trị và tổ chức của Hội nghị hợp nhất là “chỉ lo đến việc phản đế mà quên mất lợi ích giai cấp đấu tranh, ấy là một sự rất nguy hiểm”, về “chia địa chủ làm đại, trung và tiểu địa chủ”, về “nóí phải lợi dụng bọn tư bản mà chưa rõ mặt phản cách mạng”, cùng một số sai lầm khác, sau đó ra nghị quyết “thủ tiêu Chính cương, Sách lược và Điều lệ cũ của Đảng” (Văn kiện Đảng toàn tập, nxb Chính trị Quốc gia, 1998, t. 2, tr. 110-112). Sau Hội nghị TƯ 10-1930, trong thư gửi Quốc tế Cộng sản ngày 17-4-1931, ông còn phê phán nội dung Hội nghị hợp nhất “mang nặng dấu ấn các tổ chức Cách mạng cũ, các vấn đề cơ bản đều mâu thuẫn với đường lối Quốc tế Cộng sản [do thiếu một chính sách giai cấp],…mang dấu ấn nhất định của thời kỳ Quốc – Cộng hợp tác 1925-1927” (Tài liệu lưu trữ tại Phòng Quốc tế Cộng sản, nay là Trung tâm bảo tồn và nghiên cứu các tài liệu lịch sử hiện đại Nga, viết tắt là R.C. ký hiệu 495.154.462)

Thời gian này, Hà Huy Tập đã trở về Trung Quốc, đứng đầu Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng. Ngày 31-3-1935, trong thư gửi Quốc tế Cộng sản, ngoài nội dung chính là báo cáo kết quả của Đại hội Ma Cao, trong 10 điểm nói thêm, có 2 điểm báo cáo về Nguyễn Ái Quốc, ở điểm thứ mười, ông đã viết: “Ở Xiêm và Đông Dương, các tổ chức cộng sản đã tiến hành một cuộc đấu tranh công khai chống lại những tàn dư của tư tưởng dân tộc cách mạng pha trộn với chủ nghĩa cải lương của đảng Thanh niên và của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, những tàn dư ấy rất mạnh và tạo thành một chướng ngại nghiêm trọng cho sự phát triển chủ nghĩa cộng sản… Chúng tôi đề nghị đồng chí Lin viết một quyển sách để tự phê bình những khuyết điểm đã qua”. (Văn kiện Đảng toàn tập, t. 5, tr. 204)

Ngay cả khi được tin Nguyễn Ái Quốc đã lâm bệnh, qua đời ở Hồng Kông, trong bài viết như để truy điệu, Hà Huy Tập cũng không quên nhắc đến những “sai lầm” của Nguyễn Ái Quốc: “Công lao mà ông đã đóng góp cho Đảng chúng ta thật là lớn. Song các đồng chí chúng ta trong lúc này không được quên những tàn dư dân tộc chủ nghĩa của Nguyễn Ái Quốc, các chỉ thị sai lầm của ông về những vấn đề cơ bản của phong trào Cách mạng… Ông đã không đưa ra bàn luận trước về những sách lược mà Quốc tế Cộng sản đòi hỏi phải áp dụng để loại bỏ những phần tử cơ hội trong Đảng. Ngoài ra, ông còn khuyến dụ một sách lược cải lương và hợp tác sai lầm: trung lập hóa tư sản và phú nông, liên minh với trung và tiểu địa chủ”. (Bài đăng trên Tạp chí Bônsêvích (Cahier du Bolchévisme) số 8, tháng 12-1934. Dẫn lại theo Daniel Hemery: Ho Chi Minh, de l’Indochine au Viet Nam, Gallimard, Paris, 1990 p. 73).

Cái logic của định hướng tư tưởng ấy sẽ đẩy cuộc sống đi tới theo chiều hướng cực tả. Mà vì vậy, muốn là người cách mạng kiên định thì phải đi theo hướng ấy. Đây chính là điểm quy chiếu của lập trường quan điểm và chỉ đạo đường lối chính sách cũng như hành động thực tiễn. Từ trước Đổi Mới, đây là điểm tựa cơ bản. Hiểu điều này, mới hiểu được bản lĩnh của Hồ Chí Minh vào năm 1951, khi Đảng có điều kiện để ra công khai đã đổi tên Đảng là Đảng Lao Động Việt Nam: “Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam” 1. Chỉ rõ “Đảng phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”, khẳng định dân tộc, lợi ích của dân tộc là mục tiêu chiến đấu, quan điểm ấy, ý chí ấy nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh từ đầu chí cuối. Ngay từ 1924, Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn nhất của đất nước… Người ta sẽ không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại, và duy nhất của đời sống xã hội của họ”. Chính vì vậy, “Chính cương và Sách lược” do Nguyễn Ái Quốc nêu nổi bật tư tưởng “mặt trận toàn dân” và “thống nhất dân tộc” để đánh đổ thực dân và phong kiến để rồi phải gánh chịu cái tội: “mang hệ tư tưởng quốc gia cách mạng pha trộn với tư tưởng cải lương và duy tâm chủ nghĩa” vì không quán triệt quan điểm của Staline “giai cấp đấu tranh là quan trọng nhất và ngày càng có tính chất kịch liệt” rất xa lạ với quan điểm của Lênin về vấn đề dân tộc. Chính vì thế “[…] phải biết khéo lợi dụng kinh nghiệm. Nếu thấy người ta làm thế nào mình cũng một mực bắt chươc làm theo thế ấy. Thí dụ: nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng”. Trong thư “Kính cáo đổng bào” viết ngày 6.6.1941, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy… Hiện thời muốn đánh Pháp đuổi Nhật ta chỉ cần một điều: Toàn dân đoàn kết.”

Trong bài “Đại đoàn kết dân tộc, cội nguồn sức mạnh của chúng ta”, viết năm 2005 Võ Văn Kiệt giải thích: “Đoàn kết đồng thời có nghĩa là phải khoan dung. Chính phủ Hồ Chí Minh chủ trương xóa bỏ mọi hận thù và chia rẽ do chế độ cũ để lại, sẵn sàng thu dụng những người có tài, có năng lực, có tâm huyết, mà không kể đến quá khứ… Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II đầu năm 1951, vấn đề đại đoàn kết được đặt ra và nhìn nhận trong những hoàn cảnh khác. Đã có không ít ý kiến xung quanh vấn đề này. Bác kết luận: “Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”. Lời giải thích đó của Bác có sức thuyết phục mạnh mẽ trong Đại hội Đảng.

Về phần mình, trải qua bao năm tháng suốt từ trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến ngày nay, từ những phút gian nguy giữa sống và chết, đến những ngày chia ngọt sẻ bùi từng thắng lợi, tôi đã bao lần được đồng bào che chở cưu mang, đã chứng kiến bao tấm gương hy sinh của những người thuộc mọi tầng lớp và lứa tuổi… tôi càng thấm thía những bài học lớn đó của Hồ Chí Minh. Tiếc rằng một số năm sau đó, tư tưởng đại đoàn kết đã bị coi nhẹ, quan điểm giai cấp đã được vận dụng một cách máy móc, một chiều… Tư tưởng thành phần chủ nghĩa đã dẫn tới hai hậu quả: làm mất đi nhiều tài năng của một bộ phận đáng kể trong dân tộc, đồng thời đưa một cách gượng ép những nhân tố tuy rất cơ bản về chính trị nhưng lại không đủ chất lượng vào quản lý và xây dựng”.

Xin hãy chỉ gợi lên một chuyện mà theo người kể là “ít người biết” trong Mậu Thân 1968: Khi bàn về các mục tiêu phải tiến công, một số anh lãnh đạo không đề ra mục tiêu tòa Đại sứ Mỹ”, với tư cách là Bí thư Khu ủy Sài Gòn – Gia Định, ông Sáu Dân khẳng định: “Không đúng. Đánh vào đô thị là đánh vào đầu não chiến tranh của địch. Đầu não của chế độ Sài Gòn là Dinh Độc Lập và tòa Đại sứ Mỹ. Phải khẳng định đây là hai mục tiêu hàng đầu phải tiến công vì ý nghĩa chính trị của nó… Kháng chiến tức là phải đánh giặc, phải có quân đội, có vũ khí, có ý chí gang thép; nhưng nếu không hiểu khía cạnh chính trị của cuộc chiến đấu thì không thể hiểu gì về cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta cả”. Chính con người có ý chí gang thép đó, con người từng thường trực nơi dầu sôi lửa bỏng trong cả hai cuộc kháng chiến, con người đó hiểu rõ ý nghĩa chính trị của sự nghiệp giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước nên từ đỉnh cao của chiến thắng 30 tháng 4 lịch sử đã dám thẳng thắn chỉ ra: “Chiến thắng của chúng ta là vĩ đại, nhưng chúng ta cũng đã phải trả giá cho chiến thắng đó bằng cả nỗi đau và sự mất mát. Lịch sử đã đặt nhiều gia đình người dân miến Nam rơi vào hoàn cảnh có người thân vừa ở phía bên này, vừa ở phía bên kia, ngay cả họ hàng tôi cũng vậy. Vì thế, một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là một vết thương chung của dân tộc cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu… Chúng ta đang nắm quyền lãnh đạo đất nước, muốn để mọi người Việt cùng chung tay tạo dựng thì chúng ta phải thực tâm khoan dung và hòa hợp.”

Không có một bản lĩnh chính trị vững vàng để hiểu rõ ý nghĩa chính trị cao cả của sự nghiệp chiến đấu với bao hy sinh của nhiều thế hệ Việt Nam, sẽ không thể đưa ra được tư tưởng mà nhất thời có thể chưa là cách nghĩ của số đông. Không có một sự tường minh về mục tiêu cao cả của sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc, sẽ không dám đặt ra những vấn đề gai góc và dễ động chạm trong đời sống tinh thần của cả xã hội như vậy. Phải có một niềm tin mãnh liệt vào lý tưởng vĩ đại mà vì nó dám chấp nhận mọi hy sinh như bản thân mình đã từng trải nghiệm, mới có được bản lĩnh dám chịu trách nhiệm về những ý tưởng mang tính đột phá có ý nghĩa mở đường theo kiểu ấy. Nếu không có bản lĩnh như vậy, sẽ không thể công khai và thẳng thắn đặt ra những vấn đề gai góc và nhạy cảm mà ông hiểu rằng tất yếu sẽ gặp không ít lực cản, mà lực cản ấy sẽ không nhỏ, thậm chí là dai dẳng. Nhưng rồi cuộc sống đã cho thấy, những ý tưởng như vậy của Võ Văn Kiệt đã được đông đảo các tầng lớp nhân dân đón nhận, đặc biệt là đối với những đầu óc ưu thời mẫn thế.

Ấy thế mà cũng có những lúc những đầu óc “ưu thời mẫn thế” cũng bị cuốn theo cơn lốc thời cuộc để đưa ra những thông điệp mà tỉnh táo ngẫm nghĩ lại không khỏi không có những băn khoăn. Xin được dẫn ra vài câu thơ của những tác giả tên tuổi đã từng một thời được đưa vào sách giáo khoa và hiện nay vẫn là những tên tuổi lớn được xã hội trân trọng. Nhằm tụng ca những thành tựu của chế độ, nhà thơ khẳng định: “Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng… Những ngày tôi sống đây là ngày đẹp hơn tất cả” (Chế Lan Viên). Từ trong sự thăng hoa của cảm xúc đó để nhìn nhận về ông cha mình như sau: “Cha ông xưa từng đấm nát tay trước cửa cuộc đời / Cửa vẫn đóng và đời im ỉm khóa” (Chế Lan Viên). Bởi vậy, “Một câu hỏi lớn không lời đáp / Cho đến bây giờ mặt vẫn chau”! (Huy Cận).

Trong “hội chứng tụng ca” ấy, những bước đi quá đà đã vô tình để lại những hậu quả rất lớn nhưng không dễ nhận ra nếu không thật tỉnh táo nhìn thẳng vào sự thật và không tránh né những vấn đề “nhạy cảm” rất dễ bị quy kết về “lập trường, quan điểm” của lối “độc quyền tư tưởng, áp đặt tư duy, tùy tiện quy kết”. Lối “độc quyền” ấy đẻ ra cái khẩu khí quen thuộc khi bàn về lịch sử “do chưa có được cái này cái nọ soi sáng cho nên…” với sự tự mãn một cách lố bịch rằng chỉ “từ khi có cái này cái nọ” thì lịch sử mới vượt khỏi những hạn chế.

Ở đây gợi nhớ đến một phân tích lạnh lùng, sắc sảo của Gustave le Bon trong “Tâm lý học đám đông”: “Chẳng gì chứng minh rõ hơn sự mê hoặc do một niềm tin chung gây ra, nhưng cũng chẳng gì chỉ ra rõ hơn những giới hạn nhục nhã của trí tuệ con người”! Bởi vậy ngẫm cho kỹ, sẽ nhận ra sự dễ dãi đến bạc bẽo khi đưa ra những phán xét, cho dù bằng những rung động thẩm mỹ có phần cảm tính, về ông cha.

Ông cha ta đâu có “bế tắc”, cái “câu hỏi lớn” mà nhà thơ cho là “không lời đáp” là gì nếu không là vận mệnh của đất nước? Mà nếu thế thì ông cha ta đã từng đưa ra những lời đáp thật thuyết phục với những bằng chứng lịch sử không thể bác bỏ. Nếu không biết cách trả lời những câu hỏi lớn của lịch sử, của thời đại mà các cụ sống thì làm sao đất nước này, dân tộc này có thể hiên ngang trụ vững bên cạnh anh láng giềng chỉ chực có cơ hội là nuốt gọn mình. Chính vì biết cách trả lời những “câu hỏi lớn” của lịch sử mà biết chuyển yếu thành mạnh, lấy ít địch nhiều, biết cách chế ngự cái thế “trứng chọi đá” để có thể ra Tuyên ngôn “Nam quốc sơn hà, nam đế cư, Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”.

Những rung động thẩm mỹ có phần cảm tính, về ông cha dẫn ra ở trên, xét cho cùng, là bị chi phối bởi lối tư duy và lập luận rất cực đoan rằng chỉ từ 1930, dân tộc mới thật sự biết ngẩng cao đầu! Cho nên, chỉ những gì được ra đời từ cột mốc ấy mới có một giá trị được xếp trên tất cả, hơn tất cả.“Ta nhất quyết đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thụy sĩ… Mường tượng rằng trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ”*. Mà không thấy được “Những vết bùn trên tận đỉnh chín tầng cao”* (Việt Phương) để có sự thấu đáo và tỉnh táo trong giáo dục và đào tạo con người.

Sai lầm nguy hại nhất là chỉ tập trung vào giáo dục lý tưởng mà lơ là xây đắp cái nền tảng nhân văn trong định hình nhân cách cho thế hệ trẻ để từ đó mà giáo dục lý tưởng. Lý tưởng đương nhiên là quan trọng, song không nên cho rằng lý tưởng của Lý Tử Trọng của thế kỷ XX là cao hơn lý tưởng của Trần Quốc Toản thế kỷ XIII. Và lại càng phải thấy cho rõ phạm trù lý tưởng gắn liền với mục đích và ý nghĩa của cuộc sống con người. Tùy thuộc vào sự nhận thức về mục đích và ý nghĩa cuộc sống của từng người, từng nhóm xã hội mà có sự định hình lý tưởng. Khi Trần Quốc Toản ghi trên lá cờ của mình sáu chữ “Phá cường địch, báo Hoàng ân” thì đó là sự thể hiện lý tưởng trung quân ái quốc của chàng tuổi trẻ quý tộc đời nhà Trần. Đừng nghĩ rằng lý tưởng “trung quân ái quốc” là thấp hơn lý tưởng “trung với nước, hiếu với dân” mà không thấy mỗi giai đoạn lịch sử có những đòi hỏi mang tính đặc thù. Người ta quên rằng “mỗi thời kỳ lịch sử đều có những quy luật riêng của nó… Một khi cuộc sống đã vuợt qua một thời kỳ phát triển nhất định, đã từ giai đoạn này bước sang giai đoạn khác, thì nó cũng bắt đầu bị những quy luật khác chi phối“. Đây là sự phân tích của Các Mác (C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tập 23, 1993, tr. 34).

Quả thật chân lý vốn đơn giản, nhưng nhận thức cho được sự đơn giản đó hóa ra không đơn giản chút nào. Ông Võ Văn Kiệt đã có lần lập luận về những vấn đề hết sức gay cấn một cách rất dung dị: “Cách mạng tháng 8 năm 45 đánh đổ thực dân phong kiến là chuyện tất yếu phải làm để giành lại độc lập cho đất nước và tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Nhưng rồi theo trớn đó mà chửi phong kiến tùm lum thì vô tình đã chửi cha ông mình chứ còn gì nữa! Thử hỏi các vua Trần cùng Trần Hưng Đạo ba lần đánh tan quân Nguyên, Lê Lợi cùng Nguyễn Trãi diệt quân Minh xâm lược và lên ngôi vua thì đều là “phong kiến” cả chứ gì? Liệu có ai dung túng cho chuyện xúc phạm đến ông cha? Thế mà cứ thoải mái chửi phong kiến thì khoa học cái nỗi gì?”. Chẳng phải chỉ đối với chuyện của tiền nhân, ngay cả chuyện đang diễn ra cũng vậy thôi.

Sẽ quá dài dòng để phải nhắc lại một thời mà chủ nghĩa nhân văn bị phê phán do chịu ảnh hưởng của giáo điều Maoít, chỉ coi trọng “giai cấp tính”, phải đặt vấn đề “nhân tính” trong cái lăng kính giai cấp để chịu sự chi phối của “giai cấp tính”. Hệ lụy của nó thì chắc không phải kể ra đây nữa.

Khi chỉ chuyên chú giáo dục lý tưởng theo định hướng ấy, người ta dễ dàng bỏ qua những phẩm chất “người” trong quan hệ giữa người và người từ trong gia đình, cộng đồng xã hội nhỏ nhất, đến nhà trường, một cộng đồng lớn hơn của tuổi trẻ, và hàng xóm láng giềng “tối lửa tắt đèn có nhau” cho đến cộng đồng lớn là xã hội. Đặc biệt nguy hiểm là khi thần tượng của lý tưởng bị sụp đổ, nếu thiếu một nền tảng nhân văn vững chắc được hun đúc từ tấm bé, niềm tin của con người bị chao đảo, định hướng của hành vi do vậy cũng bị nhiễu loạn, bị xáo trộn.

Sự suy thoái đạo lý xã hội cần tìm về sự chao đảo, xáo trộn này. Những “siêu đám cưới”, “hội chứng lấy chồng ngoại”, những cảnh bạo lực học đường, các clip quay nữ sinh đánh nhau một cách dã man giữa đường phố dưới con mắt bình thản của người chứng kiến, thậm chí còn cổ vũ và tranh thủ quay video… được mọc lên từ môi trường xã hội ấy.

Nhà văn hóa Nguyễn Khắc Viện đã có một khuyến cáo thật đáng suy ngẫm khi bàn về giáo dục và đào tạo con người: “Để cho trẻ sống hoàn toàn đầy đủ thời thơ ấu của nó, sau lớn lên nó sẽ sống đời người lớn một cách hoàn toàn đầy đủ”. “Sống hoàn toàn đầy đủ thời thơ ấu” trên nền tảng của chủ nghĩa nhân văn. Đó sẽ là đảm bảo cho việc “sống đời người lớn một cách hoàn toàn đầy đủ”. Chủ nghĩa nhân văn ấy đang được nâng lên trong bối cảnh của nền văn minh mới, nền văn minh trí tuệ và nền kinh tế tri thức của thế kỷ XXI. Trong nền văn minh đó,“sự thay đổi vĩ đại nhất sẽ là sự thay đổi về tri thức-về hình thức và nội dung, về ý nghĩa của tri thức, về trách nhiệm của tri thức và về những đặc điểm của con người có giáo dục”.

Vậy thì hiện nay, môi trường giáo dục của chúng ta đang như thế nào? Liệu chúng ta có thể “để trẻ sống hoàn toàn đầy đủ thời thơ ấu của nó” trong môi trường chúng ta đang sống không? Nếu xét đến cùng, lý tưởng phải được hình thành, củng cố và phát huy sức mạnh của nó trên nền tảng của chủ nghĩa nhân văn thì chúng ta đang thiếu hụt chính cái nền tảng đó. Thiếu cái nền tảng đó, lý tưởng sẽ thiếu mất tính bền vững và và chiều sâu nhân bản. Sẽ quá dài dòng để phải nhắc lại một thời mà chủ nghĩa nhân văn bị phê phán do chịu ảnh hưởng của giáo điều Maoít, chỉ coi trọng “giai cấp tính”, đặt vấn đề “nhân tính” trong cái lăng kính giai cấp để chịu sự chi phối của “giai cấp tính”. Hệ lụy của nó thì chắc không phải kể ra đây nữa.

Khi chỉ chuyên chú giáo dục lý tưởng, người ta dễ dàng bỏ qua những phẩm chất “người” trong quan hệ giữa người và người từ trong gia đình, cộng đồng xã hội nhỏ nhất, đến nhà trường, một cộng đồng lớn hơn của tuổi trẻ, và hàng xóm láng giềng “tối lửa tắt đèn có nhau” cho đến cộng đồng lớn là xã hội. Đặc biệt nguy hiểm là khi thần tượng của lý tưởng bị sụp đổ, nếu thiếu một nền tảng nhân văn vững chắc được hun đúc từ tấm bé, niềm tin của con người bị chao đảo, định hướng của hành vi do vậy cũng bị nhiễu loạn, bị xáo trộn. Sự suy thoái đạo lý xã hội cần tìm về sự chao đảo, xáo trộn này.

Chỉ xin gợi ra đây đôi dòng về sự xáo trộn đó do thiếu một tầm nhìn văn hóa trong quản lý kinh tế và quản lý xã hội. Chắc nhiều người không để ý đến hai chữ “đại gia” đang là ngôn từ thời thượng. Tệ hại hơn nữa, gắn liền với “đại gia“, là tiền, thật nhiều tiền, nhất là đô la. Đến nỗi báo chí rất hào phóng cho việc lăng xê tên tuổi của một chàng trai vô công rồi nghề sống trên đống tiền của mẹ để có thể thay đổi xoành xoạch kiểu xe ô tô đời mới nhất, xịn nhất có biệt hiệu là “Đô La”. Mùi mẩn hơn nữa là chàng ‘Đô La” lại “đôi lứa xứng đôi” với một nàng “siêu sao” ca nhạc, rồi đứa con của “đôi lứa xứng đôi” ấy cũng được các cây bút có nghề xưng tụng nửa kín nửa hở trên nhiều trang báo!

Và các nhà quản lý văn hóa quên mất rằng, đây là cách cổ vũ cho một lối sống chạy theo đồng tiền, treo một “tấm gương sống động”, thúc đẩy một thị hiếu dung tục nếu chưa muốn nói là thấp hèn cho giới trẻ. Trong lúc đó, lại ra sức chê trách, dè bỉu, đe dọa, đàn áp và bắt bỏ tù, bị đạp vào mặt những thanh niên, sinh viên có bản lĩnh dám xuống đường biểu thị lòng yêu nước và tinh thần bất khuất quyết không chịu cúi đầu trước những hành động ăn cướp và xâm lược của bọn bành trướng Bắc Kinh. Một nghịch lý đang được đóng dấu và tuyên truyền rộng khắp!
Và rồi, từ cực đoan này lại nhảy sang một cực đoan khác, những biểu tượng “phong kiến” từng bị đào sâu chôn chặc nay hình như lại có sức hấp dẫn nên người ta đua nhau đắt tên bằng những “tước hiệu” tưởng đã vĩnh viễn chôn dưới đất đen: cho sang thì khách sạn phải mang tên là “Hotel Hoàng Đế,” cho quý thì công ty phải là “Công ty Hoàng Gia”, cho oai thì quán ăn thời thượng phải là “Quán Ngự Thiện”, cho giàu sức vẫy gọi thì khu nghỉ mát phải là “Resort Quý Tộc”….

Có thể là nhà quản lý có tầm nhìn bao dung và cởi mở nhằm cất cánh cho những ý tưởng sáng tạo, nhưng cũng có thể người ta bận cho việc kiểm tra tầm soát chặt chẽ những “biểu hiện nguy hiểm” khác như thủ đoạn “diễn biến hòa bình” chẳng hạn, mà tạm buông cho những cực đoan xô bồ kia. Và rồi người ta cũng quên luôn những điều vừa kể là hết sức đối nghịch với những chuẩn mực trong “ý thức hệ” mà họ có sứ mệnh thiêng liêng” là phải giữ vững. Thế đó!

Gợi lên những điều không lấy gì thoải mái, ngược lại, hình như gọi dậy một cảm giác xấu hổ về những hiện tượng đang dày vò lương tâm của chúng ta. C. Mác có nói “Hãy làm cho sự nhục nhã càng thêm nhục nhã bằng cách công bố nó lên”, xin được thay từ nhục nhã bằng từ “xấu hổ” để bớt đi sự gay gắt. Đừng quên rằng chính sự xấu hổ làm cho chúng ta có thêm dũng khí để vượt lên chính mình. Trong “Sáng thế ký ” có chuyện Adam và Eva sau khi ăn trái cấm thì bỗng nhiên phát hiện ra sự trần truồng của mình. Cảm giác xấu hổ xuất hiện. Và cả hai đều bứt chiếc lá vả để che đi bộ phận sinh dục. Chiếc lá vả ấy, theo Franz Werfel, một nhà văn Đức, là “tài liệu văn hóa đầu tiên của loài ngườ”i! Không là chiếc lá vả đang nằm trên cây, mà là chiếc lá vả được con người sử dụng để biểu thị nhận thức và cảm xúc của mình, là biểu tượng của con người tự ý thức được về mình. Cái cảm giác “biết xấu hổ” là một thuộc tính người.

Chính vì biết xấu hổ khiến chúng ta trở thành người trí thức, mà cũng do vậy khiến cho tâm hồn chúng ta bất an. Thì chính Nguyễn Trãi đã từng đúc kết điều này đấy thôi: “Nhân sinh thức tự đa ưu hoạn”. Nhưng cũng chính vì vậy mà ông trở thành anh hùng dân tộc và là danh nhân văn hóa thế giới. Đôi lúc tôi thầm nghĩ “So với ưu tư và hoạn nạn của con người vĩ đại ấy thì những ưu tư và hoạn nạn chúng ta có thể gặp phải nào có ý nghĩa gì”!

Ông cha ta thật là vĩ đại, không chỉ một Nguyễn Trãi, cách nay cả nghìn năm mà thiền sư Vạn Hạnh đã từng chỉ ra: Thân như điện ảnh hữu toàn vô / Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô / Nhậm vận thịnh suy vô bố úy / Thịnh suy như lộ thảo đầu phô. (Thân người như bóng chớp, có rồi lại không/ Như muôn cây cỏ mùa xuân tươi tốt đến mùa thu khô héo/ Ngẫm và hiểu cái lý của thịnh suy, lòng không sợ hãi/ Vì thịnh suy nối tiếp nhau như khoảng thời gian hạt sương móc trên đầu ngọn cỏ).

Một cái nhìn vượt lên không gian và thời gian. Chẳng những thế, bản lĩnh của ông cha mình thật là kỳ diệu. Cũng một nhà sư khác, thiền sư Quảng Nghiêm cách đây ngót vẫnmột thiên niên kỷ đã dám viết: “Nam nhi tự hữu xung thiên chí / Hưu hướng Như Lai hành xứ hành” (Làm trai phải có chí xung trời thẳm / Việc gì cứ phải lẽo đẽo theo bước chân Như Lai). Xuất gia đi tu mà lại nói không phải lẽo đẽo lần theo bước chân Phật tổ, hàm ý triết lý “Phật tại tâm”, mỗi người có cách tiếp cận chân lý theo cách riêng của mình, không nhất nhất làm theo người khác thì quả là đã chống giáo điều từ gốc.

Vậy thì, nêu lên những bức xúc đang làm chậm bước phát triển của đất nước, và do đó, trong cái “vòng tròn” lớn đó mà cái “vòng tròn nhỏ” là hệ thống giáo dục và đào tạo của ta đang suy thoái, đang lạc hậu, không hề làm nhụt ý chí của chúng ta. Ngược lại, chúng ta hiểu rằng và tin rằng “Lịch sử cổ xưa và hiện đại cho thấy khả năng kỳ lạ của đất nước này trong việc tìm ra những giải pháp độc đáo cho những vấn đề gặp phải”. Đây là một học giả Pháp nói với chúng ta, ông Eduard De Penguilly. (Kỷ yếu Hội thảo về “Nhà ở, Kiến trúc đô thị và môi trường truyền thống và hiện đại”). Vấn đề đặt ra là phải dám đối diện với sự thật và sòng phẳng nói lên sự thật đó bất chấp những quy kết tùy tiện và có khi khá tai ác.

Nói lên sự thật vì chúng ta tin vào “khả năng kỳ lạ của đất nước này trong việc tìm ra những giải pháp độc đáo cho những vấn đề gặp phải“. Khả năng đó đang tiềm ẩn trong lòng xã hội, trong sự vận động tự thân của khối quần chúng đang còn câm lặng để giấu kín những khát vọng kiểu Đoàn Văn Vươn.

Và vì chúng ta đều thuộc lớp người xưa nay hiếm cả rồi, nên cũng đừng gay gắt quá, có khi gây tai biến mạch máu não hay nhồi máu cơ tim thì gay nên để kết thúc một cách có hậu, tôi xin kể lại một Câu chuyện thật của thế kỷ 21 để suy nghĩ thêm về cảm xúc con người trong xã hội.

Tại trại xe điện ngầm Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn vào buổi sáng tháng giêng lạnh lẽo năm 2007, một người đàn ông đàn liên tục 6 tấu khúc của Bach trên cây đàn vĩ cầm trong 45 phút. Ước chừng hơn 2000 người qua lại trạm xe điện ngầm trong khoảng thời gian đó và hầu hết những người ấy đều trên đường đi làm.

Sau ba phút, một người đàn ông trung niên nhận ra là có người đang chơi nhạc. Ông ta chậm bước và ngừng chân trong vài giây rồi lại hối hả theo thời khắc biểu đã định sẵn. Bốn phút sau, người đàn vĩ cầm nhận được đồng tiền đầu tiên: một phụ nữ vừa đi vừa liệng tiền vô cái nón mà không hề ngừng lại.

Phút thứ sáu: một thanh niên trẻ dựa vào tường và lắng nghe tiếng đàn, sau đó liếc nhìn đồng hồ đeo nơi tay và bước đi. Phút thứ mười: một bé trai khoảng 3 tuổi đứng lại nhưng bị mẹ lôi đi vội vã. Cậu bé trì lại và nhìn người chơi đàn lần nữa. Dù bị mẹ kéo đi, cậu bé vẫn luôn ngoái đầu nhìn. Nhiều đứa bé khác cũng quay đầu nhìn như thế và không cha mẹ nào lại không nhanh chóng kéo con mình đi cả.

Bốn mươi lăm phút đàn không ngừng, chỉ có 6 người thật sự dừng hẳn lại và lắng nghe trong một lúc. Khoảng 20 người cho tiền mà vẫn tiếp tục bước đi. Người chơi đàn nhận được tất cà là 32 đô la.

Sau một giờ, người đàn ông chấm dứt, thôi đàn và không gian trở nên im vắng. Không ai để ý. Không ai vỗ tay khen và cũng chẳng có ai lưu tâm. Nhưng không một ai biết điều này, người chơi đàn vĩ cầm đó là Joshua Bell, một cầm thủ lẫy lừng trên thế giới. Với cây đàn vĩ cầm trị giá trên 3 triệu rưỡi đô la, Joshua Bell đã trình diễn những tấu khúc tuyệt vời mà không ai có thể viết hay hơn đưọc nữa, đàn hay hơn được nữa. Hai ngày trước đây, Joshua Bell đã trình diễn ở Boston, nơi mà giá trung bình là 100 đô la một vé và nhạc viện bán sạch không còn dư một vé nào.

Đây là một câu truyện thật: việc Joshua Bell lặng lẽ chơi đàn tại trạm xe điện ngầm được báo Washington Post sắp xếp để xem cảm xúc con người trong xã hội như thế nào, họ nhận thức và lựa chọn ra sao…

Câu hỏi được đặt ra là tại nơi chốn thông thường trong giờ giấc không thuận lợi cho lắm, liệu chúng ta có nhìn ra được tài năng với bối cảnh không ngờ, và liệu chúng ta có nhận thức được cái đẹp và ngưng lại để thưởng thức nó hay không ?

Có thể kết luận về chuyện này như sau: Nếu chúng ta không có thì giờ ngừng lại một chút để lắng nghe người nghệ sĩ lừng danh trên thế giới đàn những tấu khúc mà không ai có thể viết hay hơn được nữa trên một cây đàn có những âm thanh tuyệt vời nhất thì chúng ta sẽ còn mất mát và bỏ qua bao nhiêu thứ tốt đẹp khác nữa trên cõi đời này.

T. L.

--------------------------------------------------------------------------------