Thứ Năm, 31 tháng 5, 2012

CAO HUY KHANH - VN HỒ SƠ HẬU CHIẾN 1975 - 2012 ( KỲ 114 )

NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ

1.141 - Dương Quang Thiện
NHÀ TÀI TRỢ HỌC BỔNG “CHUYÊN NGHIỆP”
Kỹ sư về hưu sinh 1933 tại An Giang. Sống ở TPHCM (2012).
Du học Pháp tốt nghiệp kỹ sư tin học, là người VN đầu tiên được Hãng IBM ở Mỹ tuyển làm chuyên viên. Lấy vợ giáo viên Thụy Sĩ.
Bỗng nhiên năm 1965 quyết định từ bỏ công việc lương cao và sự nghiệp quốc tế để cùng vợ quay về Sài Gòn làm việc khi đất nước đang trong thời chiến tranh ngày càng dữ dội chỉ vì ý nguyện đơn giản: “Đất nước còn nghèo sẽ cần tôi hơn các nước đã phát triển”. Là một trong những người đầu tiên du nhập khoa học công nghệ thông tin vào miền Nam.

Sau 1975 về hưu quay qua viết sách truyền bá tin học với hơn 50 đầu sách đã xuất bản.

Ngoài ra từ năm 1989 cùng vợ trở thành đôi vợ chồng trong nước bảo trợ rất nhiều học bổng cho học sinh sinh viên nghèo toàn quốc thông qua báo Tuổi Trẻ, báo Sài Gòn Giải Phóng, ĐH An Giang ở quê nhà… Còn xây trường ở Sơn La, Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, TPHCM, Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Cà Mau lẫn nhà cho giáo viên đời sống khó khăn tại Quảng Trị, Bình Định…
Tất cả theo chủ trương “lấy giáo dục nuôi giáo dục” với mục tiêu rõ ràng “Chúng tôi không làm từ thiện, chúng tôi đầu tư cho các em là đầu tư cho tương lai.”
Tất cả học bổng lấy từ tiền bán sách và trích lương hưu bà vợ Thụy Sĩ.

Bà hoàn toàn ủng hộ chồng, dần trở thành như một người phụ nũ VN thuần túy đi chợ nấu ăn toàn món VN. Bà mới qua đời tháng 5.2012 thọ 85 tuổi.

1.142 - David Pham
TIỂU THẦN BÀI MỸ “NGỌA HỔ TÀNG LONG”
Tay cờ bạc chuyên nghiệp Việt kiều Mỹ sinh 1967 tại miền Nam. Sống ở Mỹ (2012).
Năm 1984 lúc 17 tuổi vượt biên theo đường biển trên tàu chứa 145 người nhưng cuối cùng chỉ còn 45 người sống sót đến được Mỹ.
Ban đầu được người cậu Nguyễn Văn Mến đưa vào làm tiệm giặt ủi của ông, sau đó được ông vốn là một tay chơi cờ bạc chuyên nghiệp nổi tiếng ở Las Vegas truyền nghề đánh bài poker (gần giống bài xì phé ở VN).
Từ đó dần vươn lên hàng “sao” thần bài được bầu tay bài “chiến” nhất năm 2000 và 2007, năm 2008 xếp hạng 7 thế giới lẫn Châu Âu. Được phong biệt danh “Rồng”.
Đến năm 2009 đã gom tiền giải thắng độ lên tới hơn 8,1 triệu USD.

1.143 - Đặng Lương Mô
HAI LẦN HỒI HƯƠNG
Giáo sư tiến sĩ sinh 1936 tại Hải Phòng. Sống ở TPHCM (2012).
Di cư vào Nam 1954.
Năm 1957 được Nhật Bản cấp học bổng du học. Năm 1968 tốt nghiệp kỹ sư, thạc sĩ rồi tiến sĩ chuyên ngành điện tử vi mô ra làm việc cho Hãng Toshiba. Nhập quốc tịch Nhật (có tên Nhật).
Năm 1971 trở về Miền Nam dạy ĐH Khoa học.
Sau ngày Giải phóng do có quốc tịch Nhật nên được quay về Nhật dạy đại học ở Thủ đô Tokyo.
Trong thời gian này tập trung vào công tác nghiên cứu thực hiện hơn 300 công trình giá trị và nhận 13 bằng phát minh quốc tế.
Ngoài ra vẫn mang nỗi niềm nhớ quê nên từ năm 1989 vận động kiều bào ở Nhật đóng góp mua thiết bị khoa học gửi về tặng các trường đại học trong nước, giúp đỡ giảng viên trong nước ra nước ngoài tập huấn, đào tạo lại. Và còn dịch truyện thơ “Bích câu kỳ ngộ” ra tiếng Nhật.
Năm 1994 trở lại VN dự hội nghị bàn về cải cách giáo dục VN.
Năm 2002 quyết định hồi hương về định cư hẳn tại TPHCM, làm tư vấn và tham gia giảng dạy cho ĐH Bách khoa TPHCM.

Từ năm 2005 vận động Toshiba cấp học bổng cho sinh viên VN và bản thân cũng trích luơng hưu làm học bổng cho sinh viên nghèo gặp khó khăn.

1.144 - Francoise Demulder
TÁC GIẢ BỨC ẢNH NGHI ÁN LỊCH SỬ XE TĂNG HÚC ĐỔ CỔNG DINH ĐỘC LẬP
Phóng viên ảnh chiến trường người Pháp sinh 1947 tại Pháp – Mất 2008 ở Pháp (61 tuổi).
Đến Sài Gòn từ năm 1972 bám sát chiến trường Miền Nam chụp ảnh thời sự.
Ngày 30.4.1975 là nữ phóng viên ảnh duy nhất cả nước ngoài lẫn VN có mặt trước dinh Độc Lập chụp được bức ảnh lịch sử xe tăng 390 đầu tiên tiếp cận dinh Độc Lập húc đổ cổng chính tiến vào khuôn viên bên trong.
Tuy nhiên bức ảnh này chỉ được đăng một lần duy nhất trên báo Pháp, sau đó nằmtrong bộ sưu tập lưu trữ của tác giả. Trong khi đó bức ảnh tương tự được phổ biến trên báo đài trong nước là bức ảnh khác do một phóng viên bộ đội chụp xe tăng 843 đến sau tiến vào từ cổng phụ (trong ảnh mũi tên chỉ là tác giả đang chụp xe tăng 390, phía sau mới là xe tăng 843). Chính từ chiếc xe tăng thứ hai này mà chính ủy Bùi Quang Thận đã nhảy xuống chạy vào dinh Độc Lập bắt giữ toàn bộ nội các của Tổng thống Dương Văn Minh vừa tuyên bố đầu hàng.
Từ đó lịch sử ghi nhận chiến tích “đánh” dinh Độc Lập thuộc về xe tăng 843 của Bùi Quang Thận. Tổ bốn chiến sĩ xe tăng 390 dù biết chuyện cũng không có điều kiện đính chính, hơn nữa sau đó họ ra quân trở về đời sống thường dân nên cũng không quan tâm gì lắm!
Bản thân tác giả người Pháp cũng không hay biết sự nhầm lẫn này bởi sau đó còn bận tiếp tục làm nhiệm vụ phóng viên ảnh chiến trường tại Angola, Liban, Campuchia, El Salvador, Iran, Iraq, Palestine, Kuwait… Năm 1976 trở thành phóng viên ảnh nữ đầu tiên được tặng giải Anh thời sự xuất sắc nhất thế giới với tấm ảnh chụp cảnh nội chiến ở Liban.
Mãi đến năm 1994 một nhà ngoại giao VN đến Pháp tìm thăm bà mới phát hiện ra sự thật đòi hỏi phải xem lại nghi vấn này. Nhưng trong nước vẫn chưa giải quyết được vấn đề, gặp trở ngại một phần do “anh hùng” BQ Thận kể trên nay đã là… Tư lệnh binh chủng Tăng – Thiết giáp, còn nhà nhiếp ảnh bộ đội chụp bức ảnh thứ hai kia bây giờ lại là… Tổng Giám đốc Thông tấn xã VN!

Cho đến năm sau đích thân nhà báo nữ người Pháp qua VN dự lễ kỷ niệm 20 năm giải phóng Miền Nam đã yêu cầu làm rõ sự thật và đích thân bà còn về tận quê đi tìm gặp đủ bốn cựu chiến binh xe tăng 390 để xác minh lại. Từ đó Bộ Quốc phòng phải tổ chức cả một hội nghị để đi đến quyết định thống nhất trả lại vinh quang cho bức ảnh lịch sử xe tăng 390 của bà cũng là sửa lại một sự kiện lịch sử quan trọng.
Năm 2008 bà qua đười do bị sốc tim trong lúc đang điều trị bệnh ung thư. Được Chính phủ Pháp tôn vinh là “Nữ phóng viên chiến trường dũng cảm nhất nước Pháp.”

1.145 - Men Nguyen
“ĐẠI SƯ” THẦN BÀI MỸ
Tay cờ bạc chuyên nghiệp Việt kiều Mỹ tên cũ Nguyễn Văn Mến sinh 1954 tại Phan Thiết. Sống ở Mỹ (2012).
Năm 13 tuổi đã bỏ học đi làm lơ xe bus kiếm tiền giúp gia đình.
Năm 1978 vượt biên đường biển cùng 87 người đến Mỹ.
Năm 1984 lần đầu tiên đến Las Vegas làm quen với nghề đánh bài poker ăn tiền chuyên nghiệp. Ban đầu liên tục thua te tua tới mức bị gán cho biệt danh “Máy xay tiền”. Nhưng dần dà tay nghề ngày càng cứng, từ 1987 bắt đầu thắng nhiều giải có tiền để mở tiệm giặt ủi và cửa hàng bán đồ nội thất.
Thành tích thần bài trên đưa đến biệt danh “Đại sư” cờ bạc (The Master) năm 1991, được tuần báo Los Angeles đưa ảnh lên trang bìa.
Năm 1990 bán hết cả 2 tiệm để tập trung thì giờ, công sức vào… sòng bài!
Từ năm 2000-2004 đã đoạt hơn 75 giải. Được xếp Số 1 Thần bài Mỹ năm 1997, 2001,2004, 2005, dự hơn 120 vòng chung kết. Gần nhất năm 2010 thắng tổng cộng tiền 394.807 USD. Năm 2011 có tài sản trên 10,3 triệu USD từ tiền ăn bạc, xếp thứ nhì trong lịch sử poker Mỹ chỉ chịu đứng sau thần bài Mỹ chính hiệu P. Hellmut.
Từng bị tố là chơi gian lận song không có chứng cứ cụ thể.
Ngoài ra còn làm thầy dạy một số đệ tử ruột thành “tiểu” Thần bài kế tục sự nghiệp như 2 người cháu David Pham và Minh Nguyên.
Đã về nước làm công tác từ thiện tại quê nhà Phan Thiết, xây một nhà trẻ.

Và trong một lần như vậy vào năm 1990 gặp cưới một người đẹp cùng quê 19 tuổi đưa qua Mỹ. Cả hai hợp thành một “cặp đôi hoàn hảo” qua các chuyến đi đánh bài từ Las Vegas đến Monaco, Macau, Hong Kong.
Nhưng đến năm 2010 lại… chia tay nhau dù đã có 3 con gái, vợ còn kiện cáo đòi nhà trị giá 10 tỉ đồng ở Phan Thiết!

1.146 - Ngô Gia Hy
BẬC THẦY Y KHOA SỐNG THỌ NHẤT
Giáo sư bác sĩ sinh năm 1914 tại Bắc Ninh – Mất 2004 (91 tuổi).
Từng là học trò của cố bác sĩ Tôn Thất Tùng ở Miền Bắc trước 1954, chuyên về niệu khoa.
Sau khi di cư vào Nam là một trong 2 người biến một trại tạm cư dân Bắc di cư thành bệnh viện Bình Dân ngày nay. Nhiều năm làm hiệu trưởng ĐH Y Sài Gòn đến ngày Miền Nam sụp đổ.
Sau 30.4.175 vẫn ở lại tiếp tục làm công việc chuyên môn, dạy ĐH Y – Dược TPHCM, làm tổng biên tập tạp chí Thời sự Y - Dược học. Về hưu làm hiệu trưởng ĐH Dân lập Hùng Vương 1995-2000. Sống an nhiên tự tại luôn yêu đời lạc quan. Mê sưu tầm tem vào hàng cao thủ niên trưởng với gia tài hơn 180 tập tem. Yêu thích văn nghệ đàn ca xướng hát cùng bạn bè, học trò, cả làm thơ kiểu tự trào nữa như bài “Đố ai” sau đây:
“Là ông thầy thuốc, đố ai
Khoe khoang vỗ ngực không sai bao giờ?
Trừ phi dối bạn dối người
Dối luôn mình nữa, thôi rồi đức y!”

Sau khi mất, gia đình đã góp thư viện sách chuyên khoa của ông cùng học trò hình thành Thư viện Ngô Gia Hy gồm khoảng 4.000 sách y học đặt tại một bệnh viện ở TPHCM.

1.147 - Nguyễn Phú Đạt
MÓN NỢ KỶ VẬT VỚI KẺ THÙ
Đại tá bộ đội về hưu sinh 1929 tại Hà Nội. Sống ở Hà Nội (2012).
Sau thời gian chiến đấu ở miền Nam, do có trình độ ngoại ngữ nên được điều về Hà Nội làm Cục Địch vận tham gia chương trình phát thanh tiếng Anh trên Đài Tiếng nói VN hướng về đối tuợng lính Mỹ trên chiến trường Miền Nam.
Năm 1969 tiếp nhận một hồ sơ dùng làm tư liệu phát thanh gồm 2 tấm ảnh một lính Mỹ (thượng sĩ Steve Flaherty) và 3 lá thư của anh ta trong đó có một lá thư gửi mẹ ghi địa chỉ rõ ràng thuộc TP Columbia, bang South Carolina. Đây là tài liệu thu được ở chiến trường từ người lính này có lẽ đã tử trận.
Toàn bộ tài liệu sau khi được sử dụng cho chương trình phát thanh địch vận Mỹ đã được ông giữ lại như một kỷ niệm vì bản thân mình trước kia cũng có một bà mẹ đau đáu chờ tin con từ chiến trường: “Đọc lá thư gửi mẹ tôi thực sự xúc động vì lòng người mẹ ở bất kỳ nơi nào cũng giống nhau thôi.”
Sau ngày hòa bình khi VN – Mỹ tái lập bang giao, thông qua các cơ quan ngoại giao đã tìm cách liên hệ với phía Mỹ để trao lại các di vật trên cho bà mẹ Mỹ. Nhưng đáng buồn đến nay vẫn chưa tìm ra tông tích người nhận, gia đình hay thân nhân người lính Mỹ bất hạnh kia.

Từ đó dù nay đã quá bát tuần, lòng vẫn không nguôi mong mỏi trả được món nợ “tình nghĩa chiến tranh” này mới có thể yên tâm ra đi. Thỉnh thoảng đêm đêm mất ngủ vẫn ngồi dậy đi lục tìm món kỷ vật kia cất kỹ trong hộp có khóa đàng hoàng để đọc đi đọc lại không biết lần thứ mấy lá thư gửi mẹ của một người không quen từng là kẻ đối địch bên kia chiến tuyến.

1.148 - Nguyễn Xuân Nam
MỘT TRONG NHỮNG BÁC SĨ GIỎI NHẤT NƯỚC MỸ
Bác sĩ Việt kiều Mỹ sinh 1959 tại Nha Trang. Sống ở Mỹ (2012)
Xuất thân gia đình ngư dân nghèo, mẹ mất năm mới 4 tuổi để lại 8 con nheo nhóc (mình là con thứ hai). Nên học lớp 6 phải bỏ học đi phụ giúp cha ra biển đánh cá.
Có thời gian chiến tranh lan rộng cha bị trúng đạn nằm nhà thương khiến một mình phải lo cáng đáng mọi việc giúp mẹ kế nuôi cả nhà. Nhưng cũng không tránh khỏi tai ương mẹ kế và 2 em chết sớm do bệnh tật không tiền chạy chữa thuốc thang.
Năm 1978 nhờ làm nghề đi biển nên có điều kiện một mình vượt biên đến Philippines rồi được qua Mỹ.
Trên đất khách quê người lao đầu vào học vì biết chỉ có con đường này mới giúp mình đổi đời được. Vừa làm vừa học lần lượt tốt nghiệp trung học, cử nhân rồi xin vào ĐH Y quyết tâm thành bác sĩ do mối ám ảnh người thân bệnh chết oan vì không được chữa trị đúng cách.
Đến 1991 mới hoàn thành đủ văn bằng làm bác sĩ chuyên khoa nhi, làm trưởng Khoa Nhi ĐH Irvine ở California. Dần trở nên nổi tiếng được ĐH Harvard năm 2009 bầu chọn là một trong những bác sĩ giỏi nhất nước.
Lấy vợ cũng là bác sĩ đồng hương chuyên khoa gây mê,
Đã mấy lần được VN mời về dự hội nghị chuyên môn, thuyết giảng “truyền nghề” cho sinh viên.

1.149 - Phạm Biểu Tâm
BẬC THẦY LỚN CỦA BÁC SĨ MIỀN NAM
Giáo sư bác sĩ sinh 1913 tại Huế – Mất 1999 ở Mỹ (86 tuổi).
Thuộc dòng dõi quan lại triều Nguyễn. Ra Hà Nội học tốt nghiệp trường Y rồi đi du học Pháp 1948, ra trường về dạy ĐH Y Hà Nội. Là một trong những tráng sinh đầu tiên của Hướng đạo VN từ năm 1930.
Năm 1954 di cư vào Nam làm giám đốc bệnh viện Bình Dân rồi giữ chức hiệu trưởng đầu tiên ĐH Y Sài Gòn trong 12 năm. Từng bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giữ năm 1963 do có thái độ chống đối chế độ độc tài gia đình trị họ Ngô.
Sau ngày thống nhất đất nước vẫn ở lại làm việc chuyên môn như cũ. Nhận chức Phó Chủ tịch Hội Trí thức yêu nước TPHCM, tổ chức do chính quyền cộng sản lập ra nhằm thu hút số “trí thức tại chỗ” bắt đầu làm quen với Cách mạng.
Năm 1984 về hưu với sự nghiệp đào tạo hàng nghìn học trò bác sĩ sau này nhiều người thành danh như Trần Ngọc Ninh, Đào Đức Hoành. Bây giờ mới có thời gian rảnh để làm… cổ động viên bóng đá nhiệt tình!
Qua 1989 được xuất cảnh qua Mỹ chữa bệnh và đoàn tụ với con cái.
Năm 2000 học trò trong Hội Y sĩ VN tại Mỹ đặt ra Giải thưởng Y khoa Phạm Biểu Tâm.

1.150 - Phạm Thị Tâm
NỤ CƯỜI NGƯỜI TRONG ẢNH
Nông dân sinh 1948 tại Hà Nội. Sống ở Hà Nội (2012).
Năm 1967 em trai đi bộ đội lên đường vào chiến trường Miền Nam đã xin chị một tấm ảnh mang theo “cho đỡ cô đơn”. Tấm ảnh chụp chân dung cô gái quê 18 tuổi mang áo cánh đen miệng mỉm nụ cười e ấp với dòng chủ viết vội phía sau “Chị Tâm thương tặng em”.
Cậu em cẩn thận bọc tấm ảnh trong bao ny lông cất kín trong túi áo trên ngực rồi cất bước ra đi.
Ra đi… mãi mãi không về bởi chỉ 2 năm sau thì hung tin báo tin về em đã hy sinh trên trận địa không tìm được xác.
Người cha già không chịu được nỗi đau kéo dài cũng đi theo con trai với lời dặn con gái trước khi nhắm mắt là sau này ráng tìm hài cốt em đưa về “đừng để em ở nơi xa xôi mà lạnh lẽo”.
Thế là từ đó ở vậy không lấy chồng, đợi đến sau hòa bình tất tả ngược đường vào Nam đi tìm tin tức em tử trận ở đâu, thi thể nằm nơi đâu. Có khi sang cả Lào nơi đơn vị em từng chiến đấu.
Nhưng tất cả đều không kết quả, không dấu vết nào để lại sau quảng thời gian dài quá nhiều vật đổi sao dời. Đành thất thểu quay về quê ngày tiếp tục chăn bò, làm ruộng mà đêm thì mất ngủ nằm vắt tay lên trán thở vắn than dài nhớ em nhớ cha.
Tình cờ một ngày nọ đang chăn bò bên đường gặp một nữ trung tá bộ đội ở Miền Nam ra hỏi thăm đường bèn theo thói quen mỉm miệng cười chỉ đường. Không ngờ người nữ trung tá ấy nhìn sững vào nụ cười nói sao thấy… quen quá!
Đúng vậy, đó là nụ cười mà bà trung tá từng nhiều lần nhìn thấy trên một tấm ảnh bà đang… giữ trong túi xách, chính là nụ cười trên tấm ảnh mà ngày nào người chị gái đã tặng cho em trai vào chiến trường Miền Nam!

Thì ra bà trung tá (ở Viện Bảo tàng Quân khu 4) đang làm nhiệm vụ đi tìm hài cốt liệt sĩ trong một chuyến qua Lào đã tìm ra mộ người em bộ đội kia song trong giấy tờ kèm theo chỉ còn một tấm ảnh của người chị bọc trong bao ni lông còn nguyên vẹn. Từ bức ảnh đó và dòng chữ người em ghi thêm phía sau “T. thắng, GL, Hà Nội” mới đi dò tìm ra quê cũ là xã Toàn Thắng – Gia Lâm – Hà Nội.

Và vừa trên đường tới đây thì bắt gặp lại… nụ cười trong ảnh! Giống như có hồn người em linh thiêng đưa đường dẫn lối vậy.

(Còn tiếp)

Thứ Tư, 30 tháng 5, 2012

EM NHỎ , LÀM CHI CHIM BIỂN BẮC - TÔ THUỲ YÊN

Em nhỏ, làm chi chim biển Bắc
Để anh lầm mãi bãi Đông mù…
Cửa thần phù dựng trường sơn sóng
Mỗi ngọn xô chìm một ước mơ.

Ôi những con đường đến tự đâu,
Một lần gặp gỡ ngã tư nào,
Rồi trong vô hạn chia lìa miết,
Có cuốn theo mình bụi của nhau

Biệt xứ ra đi, trời bắt tội,
Dài tơ tưởng rụng tóc mai xanh,
Trôi mòn vóc đá, tào khê thức
Nhướng mỏi ngàn sao đáy lặng thinh.
Còn anh hệ lụy chằng trăm rễ,
Cam phận cây rừng tối đẫm rêu,
Nấm tủa tầng tầng thân mục tới
Như mùa hoa trối tuổi già xiêu.

Em đẩy làm chi cửa não nề,
Bản lề khô kẽo kẹt hôn mê.
Nhện giăng tơ mốc nhà hoang lạnh.
Tiếng gọi rền vang gỗ đá ê.

Dựng dậy hồn oan dĩ vãng nào,
Con chim thần thoại mắt khoen sâu,
Giật mình như đã ngàn năm ngủ,
Giũ bụi lông, cất khản tiếng gào.
Có nhớ không em rừng bóng lạnh,
Gốc cây ngời giọt nắng sao thưa.
Gió ru mê mệt trưa tàn tạ.
Hạnh phúc đùa xa tiếng thực hư.

Khép mắt cho hồn bay diệu vợi
Mà yêu đến khóc, đến u mê.
Để khi mở mắt, ta nhìn thấy
Cả cuộc đời ta có đáng chi.

Cây rách sâu thân chất giọt lòng.
Nghiệp hờn trả nghĩa đất bao dung.
Mùa hè cháy hực cơn cuồng nộ.
Ồ máu thơm còn ứa chẳng ngưng.
Đồi lộng đưa nhau xuống cuối ngày,
Thấy âu sầu hiện mỗi thân cây.
Cỏ cao quấn quíu chân chùn bước,
Ghim xót xa đầy vạt áo bay.

Làm sao đi hết những con đường?
Gió với cây cùng khóc hợp tan.
Mỗi đóa hoa trên đồng chói lọi
Cũng xui phù thế ngậm ngùi thân.

Cầu hân hoan chết như mưa lũ,
Nước kéo nhau đi trẩy khắp miền,
Còn vọng hằng hà sa số kiếp
Lai sinh trời đất cũ chưa quên.

Thứ Hai, 28 tháng 5, 2012

VÀNG PHƠI ÁO LỤA - NGUYỄN MIÊN THẢO

Anh về Thiên Trúc nghe kinh
Tình yêu xanh đến vô cùng em ơi
Vô Thường mấy độ rong chơi
Chiều thu,áo lụa vàng phơi điếng hồn
Em đi lặng ngắt hoàng hôn
Và anh theo dấu trăng non cuối ngày
Vời trông theo dáng hao gầy
Thương em chỉ biết giải bày cùng trăng

NGUYỄN MIÊN THẢO

Thứ Bảy, 26 tháng 5, 2012

THÊM NỖI HAO GẦY - CAO QUẢNG VĂN

Sông dài mây trắng ngẩn ngơ
Lòng hiu cơn gió
mơ hồ phượng bay
Tôi về với Huế
chiều nay
Ngược đường
thêm nỗi hao gầy
Huế ơi!


CQV

Thứ Sáu, 25 tháng 5, 2012

NHỚ SAN - LÊ NGỌC THUẬN

Có lẽ bên kia mầy vẫn say
Vẫn ngồi ngủ tỉnh giữa ban ngày
Vẫn nâng ly rượu không hề tiếc
Vẫn cạn cả đời không mảy may

Mầy cứ coi trời như là đất
Thích thì bước đi không quay về
Mầy cứ coi tình như là rượu
Vơi chén này rót đầy chén kia

Mầy đã say vô cùng lặng lẽ
Rượu hiểu mầy như gió với mây
Heo vàng hiển hiện năm cùng tuổi
Lục thập khói hương mờ bay bay

Ai nhớ ai quên, mầy đâu cần
Bạn bè mấy đứa buồn lâm râm
Lẻ loi phố chợ mình tao uống
Lãng đãng hồ đồ rượu mù câm

Tháng sáu bây chừ nắng rát da
Sông Hương nhan sắc vẫn mặn mà
Có con chim hót không thành tiếng
Nhỏ giọt mưa xuống cuộc tình xa.

Thứ Năm, 24 tháng 5, 2012

CAO HUY KHANH - VN HỒ SƠ HẬU CHIẾN 1975 - 2012 ( KỲ 113 )

NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ

Tưởng niệm
Trần Đình Trường
ĐẠI GIA KHÁCH SẠN MỸ

Doanh nhân Việt kiều Mỹ sinh 1932 tại Hà Tĩnh – Mất tháng 5. 2012 ở Mỹ (81 tuổi).
Trước 75 là chủ đội tàu biển lớn nhất miền Nam, làm giàu nhờ chuyên chở vũ khí, trang bị cho quân đội Mỹ vào miền Nam đánh Cộng sản.

Đến biến cố 30.4.75 đã cùng vợ con (1 con trai, 2 con gái) di tản qua Mỹ. Trong cuộc biến động lịch sử này tự nhận đã dùng đội tàu biển 24 chiếc của mình để chở người di tản – cả dân Việt lẫn Mỹ – qua Mỹ, đến hơn 8.500 người. Tuy nhiên sau đó có người phản bác nói thực sự không phải như vậy mà ông chỉ nhân đó đem theo cả một “núi” vàng qua Mỹ!

Trên đất Mỹ chuyển qua kinh doanh khách sạn tại New York và nhanh chóng trở thành một trùm khách sạn tên tuổi, chuyên mua những khách sạn cũ xuống cấp giá rẻ để tân trang lại phát triển cả một chuỗi khách sạn. Còn xây một trung tâm thương mại VN tại Philadelphia. Trở thành một trong số ít Việt kiều giàu nhất Mỹ với tài sản ước tính khoảng hơn 1 tỉ USD.

Nhưng trong việc làm ăn này cũng từng mắc tai tiếng là sử dụng khách sạn để chứa chấp tệ nạn xã hội như bọn buôn ma túy, gái mại dâm. Từ đó thỉnh thoảng lại bị cảnh sát nhòm ngó, kiểm tra, thậm chí còn đưa ra tòa nữa.

Dù vậy ra tòa lần nào cũng thoát nạn, có lần bị tuyên án 20 ngày tù song kháng án được chấp nhận vô tội. Lý lẽ biện minh là do mình có cho một số dân nghèo không nơi cư trú ở khách sạn không lấy tiền nên bị hiểu lầm, rằng mình bị cảnh sát Mỹ kỳ thị chủng tộc…

Năm 2001 sau vụ khủng bố 11.9 đã tặng Hội Chữ thập đỏ Mỹ 2 triệu USD đồng thời còn cho các tình nguyện viên làm công tác dọn dẹp đống đổ nát 2 tòa tháp bị máy bay khủng bố đâm sập ở khách sạn miễn phí. Những khi người Việt tụ tập về New York họp hành, gặp mặt hội hè đều sẵn lòng tiếp đón, hỗ trợ. Năm 2004 được nhận giải thưởng vinh danh trong cộng đồng Việt kiều Mỹ.

Bí quyết thành công trong sự nghiệp kinh doanh từ VN đến Mỹ: “Tất cả chỉ tập trung vào 2 chữ cố gắng. Cố gắng làm việc thì tất yếu dẫn tới thành công. Tầng lớp nào, nghề nghệp nào cũng vậy thôi. Vừa cố gắng làm việc vừa học hỏi tiến bộ…” Ap dụng thực tế với nhà tỉ phú Việt kiều này ấy còn là sự khôn ngoan, nhạy bén biết “nhập gia tùy tục” đặc biệt là phải nắm luật (Mỹ) để có thể “lách” luật.

Cuối đời bệnh tuổi già bị đột quỵ nằm liệt mấy năm trước khi mất.

1.131 - Đặng Thị Cừ
80 TUỔI BÁN HÀNG RONG NUÔI CON TÂM THẦN
Lao động nghèo sinh 1931 tại Hà Nam. Sống ở Hà Nam (2012).
Lấy chồng cùng quê sinh được 3 con (2 gái 1 trai) thì chồng nhập ngũ vào Nam chiến đấu.
Năm 1968 nhận được tin báo tử chồng đã hy sinh không tìm thấy mộ. Còn lại một mình vất vả chạy vạy tứ phương mưu sinh nuôi con.
Con cái lớn lên, 2 con gái đầu đi lấy chồng xa hoàn cảnh cũng khó khăn chẳng giúp đỡ gì mẹ già. Con trai út năm 1983 vào bộ đội nhờ thời bình nên năm 1986 được cho xuất ngũ.

Không ngờ về nhà, anh con trai bắt đầu có dấu hiệu tâm thần phá nhà phá cửa, bỏ đi lang thang điên điên khùng khùng. Mẹ già chạy đôn chạy đáo nhờ người chữa bệnh vẫn không khỏi.

May sao nhờ thời gian qua đi, đến năm 2000 bệnh con trai đỡ dần, có khi cũng thấy tỉnh trí lại. Từ đó lấy được vợ cùng xã cũng là người thuộc dạng trí óc chậm phát triển, sinh được 1 trai 1 gái.

Nhưng sau khi có đứa con thứ hai năm 2011, bệnh cũ tái phát đánh đập vợ con, tới mức có lần suýt đốt nhà! Vợ sợ quá ôm con về bên ngoại.

Thế là chỉ còn mẹ già lại nai lưng ra nuôi đứa con trai 46 tuổi tâm thần bất định nhưng bà đã hơn 80 tuổi biết làm gì kiếm tiền trong khi trợ cấp Nhà nước chẳng đủ chút nào. Đành bán nhà rồi dắt con dở người lang thang lên Hà Nội bán rong hàng lặt vặt ngoài chợ nhỏ kiếm sống qua ngày, tối về 2 mẹ con ngủ đầu đường xó chợ.
Vậy mà mẹ già cứ canh cánh bên lòng nỗi lo mình mất đi thì thằng con dại khờ biết sống cậy nhờ ai đây?!

1.132 - Thiênna Hồ
KỶ LỤC GIA THẾ GIỚI “THỤT DẦU”
Tiến sĩ, doanh nhân Việt kiều Mỹ sinh 1968 tại VN. Sống ở Mỹ (2012).
Năm 1978 lúc 10 tuổi cùng gia đình vượt biên đường biển, bị hải tặc tấn công 5 lần may mà sống sót cập bến Indonesia rồi được Mỹ tiếp nhận.

Lớn lên tốt nghiệp đại học nhiều ngành kinh tế, thương mại, sinh hóa lẫn dinh dưỡng ra lập công ty thành đạt từ năm 27 tuổi.

Vốn đa năng nên cùng lúc còn siêng năng tập luyện thể dục để giữ gìn sức khỏe qua đó mê say tập bài phạt “thụt dầu” (Sumo squats - thường áp dụng trong quân trường rèn luyện tân binh) với động tác đứng lên cúi xuống nhiều lần liên tục trong tư thế chuẩn là phải đứng tấn 2 chân mở rộng rồi co đầu gối cúi cong lưng xuống rồi đứng lên vươn thẳng người. Ban đầu do người bố vốn là một võ sĩ đai đen hướng dẫn.

Chuyên cần rèn luyện như vậy 3 lần mỗi tuần (500-1.000 lần trong 30-45 phút) từ năm trên 20 tuổi, nhờ đó đã đạt tới thành tích thực hiện được 5.384 lần Sumo squats trong vòng 1 tiếng đồng hồ đáng kể là chưa ai làm được. Kể cả nhà Vô địch Thế giới môn này Attila Hovarth vận động viên đẩy tạ 2 lần dự Olympic 1992 – 1996 của Hungary với kỷ lục 4.656 lần/giờ.

Để chính thức hóa việc phá kỷ lục của mình, ngày 16.12.2007 bà đã biểu diễn tài nghệ này trước sự chứng kiến của đông đảo người hâm mộ và cả Ban Biên tập Kỷ lục Guinness Quốc tế tại sân vận động của ĐH San Francisco ở California: Hoàn tất 5.135 lần “thụt dầu” đúng quy cách trong chỉ 1 tiếng đồng hồ (kém thành tích cao nhất của mình phần nào do lúc này đã gần 40 tuổi).

1.133 - Thích Minh Châu
CẦU NỐI PHẬT GIÁO HÒA HỢP CỘNG SẢN
Tu sĩ Phật giáo sinh 1920 tại Quảng Nam. Sống ở TPHCM (2012).
Tu sĩ Phật giáo xuất gia ở Huế rồi du học An Độ đậu tiến sĩ. Năm 1964 trở về Sài Gòn làm viện trưởng Viện ĐH Vạn Hạnh trực thuộc Giáo hội PG VN Thống nhất, là tu sĩ PG hiếm hoi đạt bằng cấp đại học nước ngoài cao nhất thời này nên rất có uy tín trong và ngoài nước.
ĐH Vạn Hạnh đương nhiên truyền bá tinh hoa tư tưởng PG tập trung nhiều giáo sư và sinh viên gốc miền Trung theo đạo Phật mang sẵn tinh thần dân tộc, từ đó dễ chuyển dần qua khuynh hướng thiên tả, thân Cộng chống chế độ Thiệu – Kỳ. Vì thế không lạ sau 30.4.1975 được chính quyền Cộng sản khá ưu ái.

Từ đó vị viện trưởng cũ tỏ rõ theo phái chủ trương “sống chung” hợp tác với Cộng sản do các hòa thượng lãnh đạo PG miền Nam lúc đó Thích Trí Thủ, Thích Trí Tịnh dẫn đầu đối lập với phái PG chống đối Cộng sản của hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ.

Bản thân nhờ trình độ trí thức cao, khả năng ngoại giao linh hoạt được cử làm đại diện làm việc trực tiếp với chính quyền Cộng sản. Tích cực tham gia vận động thành lập giáo hội PG mới thiên Cộng là Giáo hội PG VN (giữ chức vụ tổng thư ký) đối lập với giáo hội cũ là Giáo hội PG VN Thống nhất chưa chịu chấp nhận Cộng sản (xem như bị cấm hoạt động, sau khi hòa thượng Thích Huyền Quang qua đời hầu như đã “hoàn thành nhiệm vụ lịch sử”!).
Nhờ đó được chính quyền cho chuyển ĐH Vạn Hạnh thành Viện Phật học Vạn Hạnh rồi lập thêm trường Cao cấp Phật học VN, Viện Nghiên cứu Phật học VN.

Sau khi đã làm được một số việc nhằm bảo vệ và hoằng dương đạo pháp (nổi trội về mặt giáo dục) như trên trong tình thế thời cuộc rất khó khăn, đến cuối đời lặng lẽ rút lui về ở ẩn chuyên lo tiếp tục biên soạn, dịch thuật kinh sách với hơn 30 tác phẩm đã hoàn thành.

1.134 - Thích Quảng Độ
PHẬT GIÁO CHỐNG CỘNG QUYẾT LIỆT NHẤT
Tu sĩ Phật giáo tên thật Đặng Phúc Tuệ sinh 1927 tại Thái Bình. Sống ở TPHCM (2012).
Trước 1975 từng làm Tổng Thư ký Viện Hóa đạo của Giáo hội PGVN Thống nhất (tuơng đương cơ quan “hành pháp” của Giáo hội), sau đó là Phó Tăng thống của Viện Tăng thống (tương đương cơ quan “lập pháp” của Giáo hội).
Sau 1975 cùng hòa thương Thích Huyền Quang viện trưởng Viện Tăng thống đối lập với chính quyền Cộng sản, đòi quyền tự do tôn giáo thực sự.
Vì thế đã nhiều lần bị chính quyết bắt giam, thậm chí đưa ra tòa lãnh án tù: Năm 1977 bị bắt giam ở TPHCM rồi đưa ra tòa nhưng do sức ép công luận quốc tế nên không kết án; năm 1982 lại bị bắt đưa về quản thúc tại quê nhà Thái Bình; năm 1992 được cho về lại TPHCM song qua năm 1994 viết tài liệu cáo buộc chính quyền đàn áp PG (cả gửi thư lên Tổng Bí thư Đỗ Mười lúc đó) nên 1995 bị bắt lần nữa đưa ra tòa chịu án 5 năm tù; đến 1998 được trả tự do trước thời hạn; tuy nhiên 1999 ra Quảng Ngãi vận động Phật tử đấu tranh liền bị bắt áp tải về TPHCM, từ đó xem như bị quản thúc tại chỗ ở nơi mình trụ trì là Thanh Minh Thiền viện.

Năm 2008 sau khi hòa thượng Thích Huyền Quang viên tịch, được cử làm quyền Tăng thống. Đến cuối năm 2011 trong Đại hội PGVN Thống nhất tổ chức ở Mỹ mới chính thức được suy tôn làm Tăng thống Giáo hội PGVN Thống nhất (đệ ngũ Tăng thống) trên danh nghĩa vì giáo hội này từ lâu không được chính quyền hiện tại công nhận. Hơn nữa, do tuổi già nên cũng không còn phát triển hoạt động mạnh mẽ như trước kia.
Vì các hoạt động tranh đấu cho quyền dân chủ và tự do tôn giáo nên được một số tổ chức nhân quyền quốc tế trao giải nhà vận động dân chủ như tổ chức Thorolf Rafto của Na Uy năm 2006, tạp chí A Different View ở Châu Au năm 2008 nhưng đều từ chối đi nhận giải vì ngại sẽ không được phép trở về nước nữa.

1.135 - Thích Trí Thủ
DẪN ĐẦU PHẬT GIÁO HÒA HỢP CỘNG SẢN
Tu sĩ Phật giáo tên thật Nguyễn Văn Kính sinh 1909 tại Quảng Trị – Mất 1984 ở TPHCM (76 tuổi).
Tu học tại Huế, năm 1963 dẫn đầu Phật giáo miền Trung chống chế độ Ngô Đình Diệm.
Sau khi chế độ này bị lật đổ, vào Sài Gòn làm viện trưởng Viện Hóa đạo được xem như cơ quan “hành pháp” của Giáo hội PGVN Thống nhất (bên trên còn Viện Tăng thống đóng vai trò tương đương cơ quan “lập pháp” của Giáo hội).
Sau ngày Công sản toàn thắng, bản thân theo chủ trương chấp nhận hòa hợp tôn giáo với chính quyền mới khác với Viện Tăng thống do hòa thượng Thích Huyền Quang dẫn đầu đấu tranh đòi PG độc lập với chính quyền, thậm chí đi đến chỗ chống đối mà đại diện hiện nay là hòa thượng Thích Quảng Độ.
Từ đó năm 1977 từ bỏ giáo hội cũ là Giáo hội PGVN Thống nhất để tham gia vận động thành lập Giáo hội PG mới là Giáo hội PGVN và nhận chức Chủ tịch Hội đồng Trị sự Giáo hội (giống Viện Hóa đạo trước kia).
Trong giai đoạn khó khăn PG phải đối đầu với chế độ Cộng sản “vô thần”, đã đóng vai trò trung gian quan trọng mà tế nhị bảo vệ đạo pháp vẹn toàn theo chính kiến riêng của mình tương tự cố Tổng Giám mục Sài Gòn – Nguyễn Văn Bình bên Thiên Chúa giáo.

1.136 - Tô Kiều Ngân
KHÔNG ĐI H.O
Nghệ sĩ ngâm thơ tên thật Lê Mộng Ngân sinh 1926 tại Thừa Thiên – Huế. Sống ở TPHCM (2012).
Lớn lên vào Sài Gòn hoạt động văn nghệ, là một nghệ sĩ đa tài viết văn, làm thơ, dịch thơ Đường, chơi đàn tranh đàn bầu nhưng nổi bật nhất là nghệ thuạt ngâm thơ truyền cảm (kèm thổi sáo, thổi harmonica điêu luyện) qua chương trình thơ Tao Đàn hàng tuần trên Đài Phát thanh Sài Gòn chế độ cũ (phụ trách luôn sau khi nhà thơ Đinh Hùng sáng lập qua đời).
Bị gọi đi lính, ra trường sĩ quan chuyển về ngành tâm lý chiến.
Từ đó sau 75 mang lon trung tá phải đi cải tạo dài ngày.
Nhưng sau khi được trả tự do đã chấp nhận ở lại cùng gia đình không đi Mỹ theo diện H.O.
Trở lại đời thường sống đời thanh thản tìm vui qua những hoạt động văn nghệ thầm lặng như ngâm thơ ghi đĩa, ngâm thơ phổ biến trên mạng, làm thơ nhắc nhớ kỷ niệm quê nhà Huế, nghiên cứu ca Huế, viết báo, viết sách dạy học thổi sáo, ngâm thơ, thổi kèn harmonica…

1.137 - Tô Thùy Yên
BÀI THƠ LỚN TÙ CẢI TẠO
Nhà thơ tên thật Đinh Thành Tiên sinh 1938 tại Gò Vấp, TPHCM. Sống ở Mỹ (2012).
Di cư 1954 vào Nam.
Học ĐH Văn khoa Sài Gòn, làm thơ từ đó gia nhập nhóm Sáng Tạo gồm đa số nhà văn miền Bắc di cư thành lập tạp chí văn nghệ cùng tên vận động mở đường cho trào lưu xây dựng nền VHNT mới cho miền Nam tự do dân chủ.
Trong đó phần mình có đóng góp đáng kể cho thể loại thơ tự do, cùng với Thanh Tâm Tuyền được xem là hai nhà thơ tiên phong của trào lưu này. Tác phẩm thơ thường làm những bài dài mang tính tự sự triết lý sâu xa.
Năm 1963 bị gọi nhập ngũ, ra trường làm sĩ quan tâm lý chiến.
Vì vậy sau 30.4.75 mang hàm thiếu tá phải đi cải tạo hơn 10 năm.
Tuy nhiên sau khi được thả ra còn bị bắt thêm 2 lần nữa vì tình nghi chống đối chế độ cộng sản song mỗi lần chỉ giam giữ khoảng một năm thôi.
Trong thời gian trở về từ trại cải tạo đã sáng tác bài thơ dài “Ta về” 124 câu đáng kể là khúc trường ca thơ bi tráng về chủ đề tù cải tạo có chất luợng, giá trị nhất của các nhà thơ VNCH cũ. Bài thơ đã sớm được chuyển qua Mỹ phổ biến, được nhạc sĩ Cung Tiến bạn thân thiết phổ nhạc năm 1992. Nguyên văn:

Ta về
“Ta về một bóng trên đường lớn
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai
Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ
Mười năm đá cũng ngậm ngùi thay.

Vĩnh biệt ta-mười-năm chết dấp
Chốn rừng thiêng im tiếng nghìn thu
Mười năm mặt sạm soi khe nước
Ta hóa thân thành vượn cổ sơ.

Ta về qua những truông cùng phá
Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may
Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ
Nghe tàn cát bụi tháng năm bay.

Chỉ có thế. Trời câm đất nín
Đời im lìm đóng váng xanh xao
Mười năm, thế giới già trông thấy
Đất bạc màu đi, đất bạc màu.

Ta về như bóng chim qua trễ
Cho vội vàng thêm gió cuối mùa
Ai đứng trông vời mây nước đó
Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ.

Một đời được mấy điều mong ước
Núi lở sông bồi đã mấy khi
Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng động
Mười năm, cổ lục đã ai ghi.

Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ nỗi lẻ loi.

Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa
Làng ta ngựa đá đã qua sông
Người đi như cá theo con nước
Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng.

Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này.

Ta khóc tạ ơn đời máu chảy
Ruột mềm như đá dưới chân ta
Mười năm chớp bể mưa nguồn đó
Người thức mong buồn tận cõi xa.

Ta về như hạt sương trên cỏ
Kết tụ sầu nhân thế chuyển dời
Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt
Tội tình chi lắm nữa người ơi.

Quán dốc hơi thu lùa nỗi nhớ
Mười năm người tỏ mặt nhau đây
Nước non ngàn dặm bèo mây hỡi
Đành uống lưng thôi bát nước mời.

Ta về như sợi tơ trời trắng
Chấp chới trôi buồn với nắng hanh
Ai gọi ai đi ngoài cõi vắng
Dừng chân nghe quặn thắt tâm can.

Lời thề buổi ấy còn mang nặng
Nên mắc tình đời cởi chẳng ra
Ta nhớ người xa ngoài nỗi nhớ
Mười năm ta vẫn cứ là ta.

Ta về như tứ thơ xiêu tán
Trong cõi hoang đường trắng lãng quên
Nhà cũ mừng còn nguyên mái, vách
Nhện giăng, khói ám, mối xông nền.

Mọi thứ không còn ngăn nắp cũ
Nhà thương-khó quá sống thờ ơ
Giậu nghiêng cổng đổ, thềm um cỏ
Khách cũ không còn, khách mới thưa.

Ta về khai giải bùa thiêng yểm
Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi
Hãy kể lại mười năm chuyện cũ
Một lần kể lại để rồi thôi .


Chiều nay ta sẽ đi thơ thẩn
Thăm hỏi từng cây, những nỗi nhà
Hoa bưởi, hoa tầm xuân có nở?
Mười năm, cây có nhớ người xa?

Ta về như đứa con phung phá
Khánh kiệt đời trong cuộc biển dâu
Mười năm, con đã già trông thấy
Huống mẹ cha đèn sắp cạn dầu.

Con gẫm lại đời con thất bát
Hứa trăm điều một chẳng làm nên
Đời qua, lớp lớp tàn hư huyễn
Giọt lệ sương thầm khóc biến thiên.

Ta về như tiếng kêu đồng vọng
Rau mác lên bờ đã trổ bông
Cho dẫu ngàn năm em vẫn đứng
Chờ anh như biển vẫn chờ sông.

Ta gọi thời gian sau cánh cửa
Nỗi mừng giàn giụa mắt ai sâu
Ta nghe như máu ân tình chảy
Tự kiếp xưa nào tưởng lạc nhau.

Ta về dẫu phải đi chân đất
Khắp thế gian này để gặp em
Đau khổ riêng gì nơi gió cát
Thềm nhà bụi chuối thức thâu đêm.

Cây bưởi xưa còn nhớ, trắng hoa
Đêm chưa khuya quá hỡi trăng tà
Tình xưa như tuổi già không ngủ
Thức trọn, khua từng nỗi xót xa.

Ta về như giấc mơ thần bí
Tuổi nhỏ đi tìm một tối vui
Trăng sáng soi hồn ta vết phỏng
Trọn đời nỗi nhớ sáng khôn nguôi.

Bé ơi, này những vui buồn cũ
Hãy sống, đương đầu với lãng quên
Con dế vẫn là con dế ấy
Hát rong bờ cỏ giọng thân quen.

Ta về như nước Tào Khê chảy
Tinh đẩu mười năm luống nhạt mờ
Thân thích những ai giờ đa khuất
Cõi đời nghe trống trải hơn xưa.

Người chết đưa ta cùng xuống mộ
Đâu còn ai nữa đứng bờ ao
Khóc người ta khóc ta rơi rụng
Tuổi hạc ôi ngày một một hao.

Ta về như bóng ma hờn tủi
Lục lại thời gian kiếm chính mình
Ta nhặt mà thương từng phế liệu
Như từng hài cốt sắp vô danh.

Ngồi đây nền cũ nhà hương hỏa
Đọc lại bài thơ thủa thiếu thời
Ai đó trong hồn ta thổn thức
Vầng trăng còn tiếc cuộc rong chơi.

Ta về như hạc vàng thương nhớ
Một thủa trần gian bay lướt qua
Ta tiếc đời ta sao hữu hạn
Đành không trải hết được lòng ta.”

Năm 1993 cùng vợ con qua Mỹ định cư theo diện H.O, để lại người vợ sau – một nhà văn có tên tuổi - cùng một con gái mắc bệnh dộng kinh trầm kha.
Trên đất Mỹ tiếp tục làm thơ, xuất bản 2 tập “Tuyển tập thơ Tô Thùy Yên” 1995 và “Thắp tạ” 2004.

1.138 - Tô Tiến Hòa
3 ĐỜI NHIỄM CHẤT ĐỘC DA CAM
Nông dân sinh 1948 tại Hà Nội. Sống ở Hà Nội (2007).
Bộ đội trên chiến trường Quảng Trị và Thừa Thiên – Huế, bị thuơng nên được đưa ra Bắc an dưỡng năm 1972 rồi xuất ngũ về quê làm ruộng.
Lấy vợ sinh con bị dị tật, teo cơ, da lỡ loét do nhiễm CĐDC. Con lớn lên lấy vợ sinh con cũng bị khuyết tật không có chân, các ngón tay dính vào nhau…
Bản thân ông về già cũng phát tác di chứng về CĐDC gây đau đầu, da lỡ lói, mắt mờ, tai điếc. Nhưng vì thương cháu quá ham học nên hàng ngày phải chịu khó cõng cháu đến trường xin học…

1.139 - Tô Văn Khải
MỘT ĐỜI CÕNG CHA MẸ
Lao động nghèo sinh 1971 tại Tây Ninh. Sống ở TPHCM (2007).
Trong thời chiến tranh chống Mỹ, gia đình sống trong vùng chiến khu Tây Ninh nên cha mẹ bị nhiễm CĐDC lúc nào không hay (còn 4 ông bác ông chú đều là liệt sĩ). Cha bị phù thủng, suy nhược toàn thân; còn mẹ bị trúng miểng bom trong một trận bom Mỹ làm 2 chân co rút lại bại liệt và thần kinh bất ổn nhiều khi mê mê tỉnh tỉnh như người mất trí.
Ngoài ra còn thêm 2 em gái cũng mắc bệnh bại não cứ gặp trời nóng lên là lên cơn động kinh phá phách, cấu xé cả bản thân mình.
Vì thế từ nhỏ đã phải đi bòn mót khoai sắn ngoài đồng, thậm chí còn lượm phân bò đem bán cho nông dân giúp cả nhà thêm miếng cơm cầm hơi.
Năm 1989 gia đình chuyển về sống ở Củ Chi mong “đổi đời” thoát khỏi ám ảnh chiến tranh u ám. Nhưng cảnh nhà vẫn không khá hơn được chút nào do chỉ có một mình mình còn sức khỏe đi ra ngoài làm thuê, tối về cặm cụi đan rổ rá kiếm thêm chút tiền nuôi cha mẹ và 2 em gái. Khi cha mẹ và 2 em lên cơn đau vẫn chỉ một mình lo cõng chạy băng đồng lên trạm xá, chữa trị qua loa về nhà nếu có ai còn lên cơn thì lại cõng đi vòng vòng quanh sân để cho… dịu bớt cơn đau!
Riết rồi chịu không thấu, đến lượt mình bệnh nằm dài cả tháng, thế là cả nhà… đói! Đẩy vào chỗ tuyệt vọng tới mức có lần định cùng cả nhà… uống thuốc trừ sâu chết đi cho xong, may mà cuối cùng kịp tỉnh lại đem giấu chai thuốc trừ sâu không cho ai biết.
Hoàn cảnh bi đát tận cùng như thế mà lại còn phải làm thêm một nhiệm vụ báo hiếu nữa theo yêu cầu của cha là… lấy vợ để dòng họ khỏi bị tuyệt tự!
Cũng lấy được vợ nghèo như mình rồi cũng sinh được bé gái đầu lòng. Đến đó mới nảy ra mối lo nữa không biết cháu có bị ảnh hưởng hậu quả CĐDC hay không khi đến hơn 2 tuổi vẫn chưa biết nói. Ông bà, cha mẹ lo lắng như ngồi trên lửa, may mà đến 3 tuổi thì bé nói được ai cũng mừng không kể xiết.
Tuy nhiên vui mừng chưa được bao lâu thì đại tang kéo đến, đầu tiên một em gái lên cơn động kinh nặng không qua khỏi rồi kéo theo bà mẹ đau lòng quá cũng ra đi theo chân con. Với lời trăng trối để lại cho con trai duy nhất ráng lo tiếp cho cha và em gái được lúc nào hay lúc đó.
Thế là bây giờ lại tiếp tục cõng cha cõng em đi cho hết quảng đời còn lại.
Dù sao nay cũng còn được niềm an ủi là có đứa con gái nhỏ chạy lẫm chẫm theo sau cha cõng ông bà bi bô gọi “ba ba” trong khi lẽ ra em mới là người được cha cõng trên vai!

1.140 - Tod Adamson – Jennifer Arias
QUÊ VIỆT NỐI NHỊP CẦU TÌNH YÊU
Cặp vợ chồng Mỹ sinh tại Việt Nam. Sống ở Mỹ (2012).
Chồng là con lai Mỹ bị cha Mỹ bỏ rơi, sinh ra lại bị bại liệt nên mẹ Việt đem cho trại mồ côi ở Đà Nẵng trước 1975, được trại đặt tên Việt là Trường Thắng. Tháng 4.1975 được máy bay Mỹ đưa qua Mỹ trong chiến dịch “giải thoát” trẻ mồ côi mang tên Babylift (khoảng 2.000 em qua Mỹ và 1.300 em qua Canada, Uc, Châu Au).
Vợ cũng là con lai Mỹ bị mẹ đem bỏ rơi trước Viện Cô nhi ở Sài Gòn, được các bà xơ nuôi nấng đặt tên Việt là Phương Hồng Lan. Cũng qua Mỹ trong chiến dịch Babylift.
Năm 2000 cả hai đều tìm về thăm lại quê mẹ sau bao năm xa cách, gặp nhau trên cùng chuyến bay từ đó nảy sinh tình yêu. Trở về Mỹ làm đám cưới năm 2001.

(Còn tiếp)




Thứ Tư, 23 tháng 5, 2012

LỐI CŨ - HOÀNG THỊ THIỀU ANH

Em về ngang lối nhỏ
Dẫm phải lá vàng khô
Tim ta chợt ngẩn ngơ
Nghe mùa thu vụn vỡ

Chiều say nghiêng nỗi nhớ
Bao niềm riêng ngọt ngào
Em quên về lối cũ
Cho lòng ta xanh xao.


HTTA

Thứ Ba, 22 tháng 5, 2012

NHỮNG CHIỀU CỦA NGƯỜI CÔ ĐỘC - HẠC THÀNH HOA

1.
Anh còn lại những buổi chiều
Những buổi chiều dáo dác kiếm tìm
Những buổi chiều nghển cổ nhón gót
Những buổi chiều đưa vào quán nước cho thở
Mồi thuốc cho hút, dìu lên xe và đỡ đầu bằng cánh tay êm ái nhất.
Buổi chiều đưa về con đường ký ức ngắn nhất để cùng một lượt
vừa gặp gia đình vừa gặp lại bạn bè.
2.
Anh còn lại những buổi chiều
Những buổi chiều ve vuốt lá xanh xao
Những buổi chiều nghe chuông reo lần cuối
Áo vàng hoàng yến, áo tím hoàng hôn,
lòng tắt nắng trở về.
Ôi những buổi chiều bình minh
Sau một ngày ra công vỡ đất
Sau một ngày tự giam cầm trong vỏ cứng khô
Sau một ngày vác mỏi lu tượng đồng tiếng nói không ngừng
Sau một ngày những cặp mắt bồ câu mỗi lúc một xa
Những bước chân người càng đến gần vực sâu lịch sử
Sau một ngày càng lặng câm lủi thủi càng giống người tiền sử bơ vơ.
3.
Anh còn những buổi chiều
Những buổi chiều mang đến từng cơn gió mát hồi sinh mầu nhiệm
Từng khoảnh khắc ngày tàn để thở ra kỳ hết nỗi buồn
Anh ngây ngất trong em mùi thơm mát dịu của Jasmine
Ôi những chiều vàng đơn độc lang thang trên phố không người
Ta thắp lên đôi ngọn nắng nhớ nhung
Trong mắt tròn ngơ ngác.

Thứ Hai, 21 tháng 5, 2012

TA VỀ - TÔ THUỲ YÊN

Ta về một bóng trên đường lớn
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai
Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ
Mười năm đá cũng ngậm ngùi thay.

Vĩnh biệt ta-mười-năm chết dấp
Chốn rừng thiêng im tiếng nghìn thu
Mười năm mặt sạm soi khe nước
Ta hóa thân thành vượn cổ sơ.

Ta về qua những truông cùng phá
Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may
Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ
Nghe tàn cát bụi tháng năm bay.

Chỉ có thế. Trời câm đất nín
Đời im lìm đóng váng xanh xao
Mười năm, thế giới già trông thấy
Đất bạc màu đi, đất bạc màu.

Ta về như bóng chim qua trễ
Cho vội vàng thêm gió cuối mùa
Ai đứng trông vời mây nước đó
Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ.

Một đời được mấy điều mong ước
Núi lở sông bồi đã mấy khi
Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng động
Mười năm, cổ lục đã ai ghi.

Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ nỗi lẻ loi.

Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa
Làng ta ngựa đá đã qua sông
Người đi như cá theo con nước
Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng.

Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này.

Ta khóc tạ ơn đời máu chảy
Ruột mềm như đá dưới chân ta
Mười năm chớp bể mưa nguồn đó
Người thức mong buồn tận cõi xa.

Ta về như hạt sương trên cỏ
Kết tụ sầu nhân thế chuyển dời
Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt
Tội tình chi lắm nữa người ơi.

Quán dốc hơi thu lùa nỗi nhớ
Mười năm người tỏ mặt nhau đây
Nước non ngàn dặm bèo mây hỡi
Đành uống lưng thôi bát nước mời.

Ta về như sợi tơ trời trắng
Chấp chới trôi buồn với nắng hanh
Ai gọi ai đi ngoài cõi vắng
Dừng chân nghe quặn thắt tâm can.

Lời thề buổi ấy còn mang nặng
Nên mắc tình đời cởi chẳng ra
Ta nhớ người xa ngoài nỗi nhớ
Mười năm ta vẫn cứ là ta.

Ta về như tứ thơ xiêu tán
Trong cõi hoang đường trắng lãng quên
Nhà cũ mừng còn nguyên mái, vách
Nhện giăng, khói ám, mối xông nền.

Mọi thứ không còn ngăn nắp cũ
Nhà thương-khó quá sống thờ ơ
Giậu nghiêng cổng đổ, thềm um cỏ
Khách cũ không còn, khách mới thưa.

Ta về khai giải bùa thiêng yểm
Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi
Hãy kể lại mười năm chuyện cũ
Một lần kể lại để rồi thôi .

Chiều nay ta sẽ đi thơ thẩn
Thăm hỏi từng cây, những nỗi nhà
Hoa bưởi, hoa tầm xuân có nở?
Mười năm, cây có nhớ người xa?

Ta về như đứa con phung phá
Khánh kiệt đời trong cuộc biển dâu
Mười năm, con đã già trông thấy
Huống mẹ cha đèn sắp cạn dầu.

Con gẫm lại đời con thất bát
Hứa trăm điều một chẳng làm nên
Đời qua, lớp lớp tàn hư huyễn
Giọt lệ sương thầm khóc biến thiên.

Ta về như tiếng kêu đồng vọng
Rau mác lên bờ đã trổ bông
Cho dẫu ngàn năm em vẫn đứng
Chờ anh như biển vẫn chờ sông.

Ta gọi thời gian sau cánh cửa
Nỗi mừng giàn giụa mắt ai sâu
Ta nghe như máu ân tình chảy
Tự kiếp xưa nào tưởng lạc nhau.

Ta về dẫu phải đi chân đất
Khắp thế gian này để gặp em
Đau khổ riêng gì nơi gió cát
Thềm nhà bụi chuối thức thâu đêm.

Cây bưởi xưa còn nhớ, trắng hoa
Đêm chưa khuya quá hỡi trăng tà
Tình xưa như tuổi già không ngủ
Thức trọn, khua từng nỗi xót xa.

Ta về như giấc mơ thần bí
Tuổi nhỏ đi tìm một tối vui
Trăng sáng soi hồn ta vết phỏng
Trọn đời nỗi nhớ sáng khôn nguôi.

Bé ơi, này những vui buồn cũ
Hãy sống, đương đầu với lãng quên
Con dế vẫn là con dế ấy
Hát rong bờ cỏ giọng thân quen.

Ta về như nước Tào Khê chảy
Tinh đẩu mười năm luống nhạt mờ
Thân thích những ai giờ đa khuất
Cõi đời nghe trống trải hơn xưa.

Người chết đưa ta cùng xuống mộ
Đâu còn ai nữa đứng bờ ao
Khóc người ta khóc ta rơi rụng
Tuổi hạc ôi ngày một một hao.

Ta về như bóng ma hờn tủi
Lục lại thời gian kiếm chính mình
Ta nhặt mà thương từng phế liệu
Như từng hài cốt sắp vô danh.

Ngồi đây nền cũ nhà hương hỏa
Đọc lại bài thơ thủa thiếu thời
Ai đó trong hồn ta thổn thức
Vầng trăng còn tiếc cuộc rong chơi.

Ta về như hạc vàng thương nhớ
Một thủa trần gian bay lướt qua
Ta tiếc đời ta sao hữu hạn
Đành không trải hết được lòng ta

TTY
(Bài thơ được viết sau mười năm trong trại cải tạo trở về )

Thứ Bảy, 19 tháng 5, 2012

"MOI HẾT TIM GAN" ĐỂ NÓI VỚI ĐINH BỘ TRƯỞNG MỘT LẦN !

Đã gần 9 tháng kể từ ngày Bộ trưởng Đinh La Thăng trở thành tư lệnh của ngành GTVT với quyết tâm thực hiện "3 khâu đột phá chiến lược"



LTS: Trong số các comment của bạn đọc gởi đến Báo Người Lao Động hôm nay có một comment rất đặc biệt. Đặc biệt vì nó dài đến hơn 2.500 từ, được viết lên bằng tất cả tâm huyết của tác giả. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu ý kiến ấy đến bạn đọc.
Đã gần 9 tháng kể từ khi ông Đinh La Thăng được Quốc hội phê chuẩn là Bộ trưởng GTVT. Sau những tuyên bố mạnh mẽ đầu tiên của ông tại Quốc hội và một loạt tuyên ngôn và các hoạt động điều hành của ông trên cương vị người đứng đầu ngành giao thông, cũng đã đủ thời gian để dư luận có những đánh giá đầy đủ hơn về trình độ, năng lực và cả phẩm chất của vị bộ trưởng này.

Ai cũng hiểu, hệ thống giao thông, vận tải có ý nghĩa quan trọng đặc biệt đến thế nào trong việc phát triển kinh tế, đến đời sống dân sinh. Trong nhiều năm qua, sự yếu kém, lạc hậu của hệ thống đó, tình trạng quá tải, tắc nghẽn giao thông thường xuyên ở cả đường bộ, đường sắt… đã gây cản trở biết bao nhiêu cho sự phát triển của nền kinh tế, gây khó khăn biết
bao nhiêu cho việc đi lại của người dân.
Chính vì thế, ngành giao thông hơn lúc nào hết, cần một người lãnh đạo có tầm nhìn, hiểu biết, có tài năng và tâm huyết để chỉ đạo, điều hành, tổ chức lại hệ thống yếu kém đó, một cách toàn diện. Đáp lại sự kỳ vọng đó của đa số dân chúng, của cộng đồng doanh nghiệp, trong thời gian đầu, sự xuất hiện của ông Đinh La Thăng - nguyên là chủ tịch hội đồng thành viên Tập đoàn Dầu khí Quốc gia (PVN), với những tuyên bố, hành động ban đầu khá mạnh mẽ và rõ ràng, dư luận đã tưởng rằng, đây chính là một người lãnh đạo cần phải có trên chiếc ghế bộ trưởng GTVT.

Ngay trong ngày được Quốc hội phê chuẩn làm Bộ trưởng GTVT, ông Thăng tuyên bố: “Bộ trưởng là tư lệnh lĩnh vực ngành, phải cho tôi toàn quyền. Tư lệnh ra chiến trường phải được toàn quyền quyết định chiến đấu, tiến hay lùi, nếu chờ xin phép thủ trưởng ở nhà thì sẽ lỡ cơ hội”. Ông cũng nói rõ, phương hướng, kế hoạch hành động của mình với báo giới: “Bộ Giao thông sẽ tập trung giải quyết 3 khâu đột phá chiến lược. Thứ nhất là đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông, thứ hai là tình trạng tai nạn giao thông, thứ ba là ùn tắc giao thông. Tôi sẽ thực hiện quyết liệt 3 vấn đề trên”.

Một hành động khác đáng chú ý của Bộ trưởng Đinh La Thăng sau 2 tháng nhậm chức là khi đi kiểm tra công trình nhà ga sân bay quốc tế Đà Nẵng, ông đã chỉ đạo thay chức vụ Trưởng ban quản lý dự án dự án xây dựng nhà ga này. Tiến độ công việc tại dự án này sau đó tiến triển rõ rệt. Với những sự khởi đầu như vậy, Bộ trưởng Đinh La Thăng đã nhận được những đánh giá tích cực từ dư luận, báo chí.

Người ta đã tưởng rằng, đây chính là vị bộ trưởng mà ngành giao thông cần có trong thời điểm hiện nay. Trong thời điểm ấy, chỉ có một điểm khá lợn cợn khi người ta đánh giá về Bộ trưởng Thăng là tại kỳ họp Quốc hội, ông có đề nghị Quốc hội dành 40.000 tỷ đồng tổng thu vượt dự toán từ nguồn dầu thô quốc gia để dành hết cho Bộ GTVT sử dụng. Đây là một đề nghị bất ngờ do tính phi lý, cục bộ của người đề xuất.

Nhưng với một loạt hoạt động chỉ đạo, điều hành trực tiếp của ông Đinh La Thăng trong những tháng gần đây đang khiến cho dư luận từ ủng hộ chuyển sang nghi ngờ về năng lực, tầm hiểu biết, phẩm chất thực sự của người đứng đầu ngành giao thông. Một trong những điểm người ta dễ đặt câu hỏi nhất là trình độ hiểu biết pháp luật của Bộ trưởng Đinh La Thăng.

Một thành viên Chính phủ, đứng đầu một lĩnh vực quan trọng, có tầm ảnh hưởng lớn đến quốc kế, dân sinh không thể không hiểu rõ hệ thống, quy định chính sách, pháp luật. Nhưng với nhiều quyết định, chủ trương của ông Đinh La Thăng, người ta không thể không nghi ngờ về sự hiểu biết của ông trong vấn đề này. Ngay từ khi Công văn số 6630/BGTVT-TCCB do ông ký ngày 17-10-2011. Trong đó quy định: “Các đồng chí lãnh đạo thuộc diện bộ quản lý từ cấp vụ và tương đương trở lên không chơi gôn, không tổ chức hoặc tham gia các giải gôn”. Theo ông Lê Hồng Sơn, cục trưởng cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tư pháp, đây là văn bản có nội dung “sai thẩm quyền, vi phạm quyền cán bộ công chức”.

Một ví dụ khác rõ hơn, ngày 16-3-2012, Bộ trưởng Đinh La Thăng ký ban hành ban hành công văn số 1782 yêu cầu dừng ngay việc nghiệm thu, cấp giấy chứng nhận chất lượng an toàn kỹ thuật đối với xe cơ giới cải tạo. Công văn có hiệu lực ngay ngày ký. Theo nhiều chuyên gia pháp luật, công văn trên có nhiều điểm sai như: không phải là văn bản quy phạm pháp luật (vì không phải thông tư hoặc thông tư liên tịch hay chỉ thị, quyết định) nhưng yêu cầu dừng thực hiện một văn bản có tính quy phạm pháp luật (Quyết định số 15/2005/QĐ-BGTVT năm 2005 của bộ trưởng GTVT). Hơn nữa, lại yêu cầu các đơn vị trực thuộc ngành thực hiện ngược lại nội dung trên, thực hiện ngay rồi mới soạn thảo quyết định thay thế quyết định cũ.

Điều này cho thấy, ông Đinh La Thăng thiếu sự hiểu biết về pháp luật mặc dù đây là một kiến thức rất đơn giản mà một cán bộ nhà nước cần phải nắm bắt. Để thực hiện kế hoạch hành động mang tính “đột phá” cho ngành GTVT-giảm ùn tắc giao thông, Bộ trưởng Đinh La Thăng đã có những chủ trương và có nhiều chỉ đạo trực tiếp nhưng cho đến nay, những hoạt động này cũng khiến không ít người dân, tổ chức nghi ngờ, mất lòng tin vào các hành động đó.

Cụ thể như việc đổi giờ học, giờ làm ở thành phố Hà Nội, chỉ trong một thời gian ngắn đã chứng minh không đem lại hiệu quả. Hay mới đây, việc đề xuất thu thuế hạn chế phương tiện giao thông cũng gây bức xúc lớn không chỉ trong dư luận mà cả các chuyên gia, cán bộ có uy tín của ngành giao thông. Nhiều người đánh giá đây là chủ trương bất hợp lý, không khoa học, làm tăng thêm chi phí vận tải, giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp vận tải Việt Nam.

Chính vì điều này, mới đây, Chính phủ đã yêu cầu Bộ GTVT và Bộ Tài chính nghiên cứu, xem xét lại chủ trương này để trình vào một thời điểm khác. Nhưng hết chủ trương trên thì Bộ trưởng Giao thông lại đề ra sáng kiến thu tiền của dân qua “Quỹ tham gia giao thông” - một dạng quỹ có thể coi như quỹ chat - đóng hụi, để dễ thu tiền của người tham gia giao thông khi có vi phạm.

Việc tập trung các giải pháp để giảm tai nạn, ùn tắc giao thông là đúng đắn nhưng nó cần phải bằng các giải pháp thực sự khoa học, có nghiên cứu, tính toán đầy đủ và có tính giải trình cao. Nhưng với tất cả những giải pháp do Bộ GTVT đề xuất như vừa rồi trong đó có những biện pháp, giải pháp có dấu ấn cá nhân của Bộ trưởng Đinh La Thăng nó cho thấy chưa đem lại hiệu quả, chưa tạo được sự ủng hộ từ dư luận, từ nhiều cơ quan, các chuyên gia trong lĩnh vực này. Thậm chí, trong nhiều thời điểm, các giải pháp đó bị đánh giá tiêu cực, khó có thể triển khai do những sự bất hợp lý, thiếu những cơ sở khoa học, thực tế về giao thông đường bộ và không được lòng dân.

Người ta đang lo ngại, với những chính sách mới của ngành GTVT, ngành công nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô Việt Nam mới bắt đầu hình thành một chút, ngành vận tải… đang đi vào ngõ cụt. Các hoạt động sản xuất, lắp ráp, nhập khẩu ô tô như đang dần đông cứng lại. Theo số liệu của bộ Tài chính thì chỉ trong quý I/ 2012, số thu thuế nhập khẩu ô tô nguyên chiếc giảm trên 4000 tỷ đồng - một số tiền đủ xây dựng gần 20 cái cầu vượt lắp ghép dạng nhẹ đang phát huy hiệu quả chống ùn tắc tại Hà Nội-và nên nhớ-mới chỉ trong 1 quý.

Những bức ảnh mới đây đăng trên các báo về minh họa cho tình trạng ùn tắc giao thông cho thấy, có nhiều con đường lớn ở một số thành phố, phần đường dành cho ô tô vắng hoe trong khi phần đường dành cho xe máy chật cứng như nêm, kéo dài hàng cây số. Phải chăng, nó đang phản ánh cho sự lệch lạc của chính sách?

Trong bối cảnh dư luận thất vọng với những đề xuất, giải pháp mới về chống ùn tắc giao thông thì việc mới đây, Bộ trưởng Đinh La Thăng lại có đề xuất dành hơn 10.000 tỷ đồng để đầu tư cho hệ thống văn phòng, trụ sở làm việc của Bộ GTVT càng khiến hình ảnh tốt đẹp mà vị Bộ trưởng này gây dựng được trong mấy ngày đầu biến mất trong cách nhìn của những người ủng hộ, có lẽ còn rất ít ỏi của ông.

Trong bối cảnh kinh tế còn khó khăn, chính Bộ trưởng GTVT còn phải nghĩ nhiều cách để thu thật nhiều tiền của dân qua việc đề xuất thu nhiều loại phí giao thông đường bộ như phí hạn chế phương tiện rồi “quỹ tham gia giao thông”… để có tiền đầu tư, thì việc đề xuất dành hơn 10.000 tỷ đồng trên để xây dựng trụ sở làm việc cho thấy cách xử lý, tầm nhìn của một vị bộ trưởng như vậy là rất có vấn đề.

Hơn nữa, trong khi các bộ khác: Kế hoạch, Tài chính… bắt đầu thực hiện chủ trương cắt giảm đầu tư công mà Chính phủ yêu cầu thì việc lãnh đạo Bộ GTVT lại đề xuất đầu tư cả chục ngàn tỷ đồng cho trụ sở như vậy, thật là điều bất bình thường.

Đáng nói hơn nữa, là Bộ trưởng GTVT còn đề xuất vay vốn ODA để xây trụ sở lại càng phản cảm vì vốn ODA là vốn vay, cuối cùng cũng phải trả bằng những đồng tiền thuế do dân, doanh nghiệp đóng góp vào ngân sách và nó chỉ nên sử dụng, đầu tư cho những công trình, dự án cấp bách cho phát triển kinh tế - xã hội chứ không phải để làm nhà làm việc cho ngành giao thông.

Nhưng giao thông cũng không chỉ có chuyện ùn tắc, tai nạn. Người ta cũng chưa thấy vai trò của Bộ trưởng Đinh La Thăng trong việc xử lý nhiều vấn đề quan trọng khác của ngành này. Như tình trạng làm ăn thua lỗ, bết bát của nhiều doanh nghiệp lớn trong ngành giao thông: tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin), Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines)…

Trong khi Vinalines đang làm ăn thua lỗ hàng ngàn tỷ, hàng chục tàu cũ lạc hậu… thì việc quy hoạch, tiếp tục dành cả 100.000 tỷ đồng đầu tư cho doanh nghiệp này liệu có phải là giải pháp đúng đắn? Hay trong lĩnh vực hàng không, trong khi cần phải xây dựng một môi trường cạnh tranh thì việc cho phép Vietnam Airlines thâu tóm, chiếm cổ phần chi phối trong hãng hàng không Jestar Paciffic để độc quyền khoảng 90% thị trường hàng không trong nước có đúng đắn?

Sự yếu kém, lạc hậu của hệ thống giao thông đường sắt, chưa thấy có những đổi mới đáng kể nào từ khi Bộ trưởng Đinh La Thăng lên nắm quyền. Một câu chuyện liên quan đến tính trung thực của Bộ trưởng. Trong khi Chánh văn phòng Bộ GTVT khẳng định xe Land Cruiser chở Bộ trưởng Đinh La Thăng đã bị một ôtô khác đâm trong chuyến công tác tại Ninh Bình, thì ông Thăng phủ nhận sự việc đó: "Không có chuyện ai bị tai nạn nào hết. Tôi khẳng định là không có chuyện đó". Người ta tất nhiên có quyền đặt câu hỏi nghi vấn về lời thanh minh của Bộ trưởng bởi ba nhẽ: báo chí trưng ra hình ảnh ô tô của ông bị đâm; chánh văn phòng là người phát ngôn của bộ nên lời của ông mang tính chính thức của tổ chức; không một báo nào đăng tin bộ trưởng đâm đã phải cải chính, nếu họ đưa tin không đúng.

Cơ sở hạ tầng đang là 1 trong 3 nút thắt để Việt Nam phát triển. Giải quyết nó không phải là những tuyên bố ngẫu hứng, những văn bản tùy tiện. Hơn lúc nào hết, ngành giao thông cần một bộ trưởng có phẩm chất của một nhà chính trị và nhà kỹ trị, có cái nhìn dài hạn, bao quát và ý thức được những tuyên bố và chính sách của mình đối với sự phát triển của đất nước. Nhìn toàn diện tất cả các vấn đề như vậy để thấy, mặc dù ngành GTVT đang rất cần phải có một Bộ trưởng giỏi giang, quyết đoán, có tâm, có tầm nhưng cho đến giờ này, với lựa chọn là Bộ trưởng Đinh La Thăng, có thể cần phải xem lại. Cũng có thể nói, BT Đinh La Thăng có một số phẩm chất tốt: quyết đoán, nhanh nhẹn, dám làm… nhưng ở cương vị một chính khách, một bộ trưởng có lẽ phải cần nhiều hơn thế: tầm hiểu biết, cách làm bài bản, khoa học - những điều người ta chưa thấy có ở ông mà người ta chỉ thấy rõ hơn đó là sự nóng vội và nông nổi.

Thường vụ Quốc hội mới rồi họp cũng đã có bàn đến việc bỏ phiếu tín nhiệm với cấp bộ trưởng trở lên. Việc này nếu làm được, sẽ giúp Quốc hội đánh giá, nhìn nhận lại những chức danh đã phê chuẩn-để có những vị trí nào chưa phù hợp, có thể điều chỉnh lại, có thể, bước đầu là rất nên với vị trí Bộ trưởng Bộ GTVT?

Mạnh Quân
(Nguon " Bao Nguoi Lao Dong")

VÀI ĐIỀU NÓI THÊM VỀ ÔNG BỘ TRƯỞNG

Ông Đinh La Thăng trước khi được bổ nhiệm lảm Bộ Trưởng Bộ GTVT đã kinh qua
nhiều chức vụ ; Lãnh đạo Tập đoàn Sông Đà ,Phó Bí Thư Trực Tỉnh uỷ Thừa Thiên Huế ,Chủ tịch HĐQT Tập đoàn dầu khí. Những chức vụ này đều gắn ít nhiều vụ việc tiêu cực nơi ông làm việc . Ví dụ trong thời gian Phó Bí Thư trực Tỉnh uỷ TT H xảy ra vụ Đồi Vọng Cảnh. Vùa qua ,Thanh tra Chính Phủ phát hiện sai phạm hàng chục ngàn tỷ đồng ở Tập đoàn Dầu Khí ở những năm trước, ông Đinh La Thăng có dính líu gì không cần được làm rõ
HTTV
Đổi giờ học, giờ làm, Hà Nội vẫn kẹt xe








Thứ Sáu, 18 tháng 5, 2012

BÓNG MÂY - VÕ CHÂN CỬU

• Không trăng anh muốn tìm em
Đã tan ngọn gió lại chìm bóng mây

• Hết vang rồi những thanh điệu ấy
Âm bổng trầm. Ai giữ nơi xa

• Khuya rồi trăng khép mi thưa
Vắng em anh đếm hạt mưa giếng trời

• Tiếng dế cào bên hiên
Ồ. ánh trăng đã mềm

• Anh tưởng em nhắn tin.
Dừng lại mở thêm trời mộng ảo

• Ở ngoài trời mây bay nhốn nháo
Cho anh tìm một cõi vô thanh

Thứ Năm, 17 tháng 5, 2012

CAO HUY KHANH - VN HỒ SƠ HẬU CHIẾN 1975 - 2012 ( KỲ 112 )



NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ

1.121 - Du Tử Lê
ĐỆ NHẤT THƠ TÌNH HIỆN ĐẠI
Nhà thơ Việt kiều Mỹ tên thật Lê Cự Phách sinh 1942 tại Hà Nam. Sống ở Mỹ (2012).
Di cư vào Nam năm 1954. Gia nhập quân lực VNCH, sĩ quan tâm lý chiến.
Bắt đầu làm thơ từ năm 1956. Được xem làm thơ tình hay (và nhiều) nhất trước 75 ở miền Nam, nhận Giải thưởng Văn học VNCH 1973. Có nhiều bài thơ được phổ nhạc gồm “Kiếp sau xin giữ lại đời cho nhau” (Phạm Duy), “Trên ngọn tình sầu” (Từ Công Phụng), “Khúc thụy du” (Anh Bằng)…
Trong biến cố tháng 4.1975, di tản qua Mỹ.
Trên đất khách tuy phải làm nghiều nghề tay trái để sống song vẫn không xa rời nghiệp viết lách, tiếp tục làm thơ và là nhà thơ Châu Á hiếm hoi có thơ in báo lớn như New York Times, Los Angeles Times, được đưa vào giảng dạy cấp đại học, được mời thỉnh giảng đại học (chương trình văn học VN). Ngoài ra còn bắt đầu viết nhiều ghi chép, ký sự đời thường, chân dung văn nghệ sĩ mình quen biết.
Đến nay đã in tổng cộng hơn 40 tác phẩm đủ thể loại.
Đã nhiều lần về nước, năm 2002 từng ra Hà Nội thăm quê Hà Nam. Đặc biệt năm 2005 về TPHCM ủy quyền cho một người bạn in tập “Thơ tình Du Tử Lê” gồm 80 bài sáng tác trong khoảng thời gian 1956-1975. Nhưng về Mỹ lại bị dư luận chống Cộng hải ngoại phê phán nên phải lên tiếng biện bạch đó là do người khác… tự ý xuất bản mình không cho phép!

Từng phát biểu có di nguyện khi mất xin được thủy táng hy vọng biển cả sẽ đưa thân xác trôi về quê nhà.

1.122 - Đoàn Sơn
“EM BÉ NAPALM 2”
Kỹ sư Việt kiều Thụy Sĩ sinh 1957 tại Thừa Thiên – Huế. Sống ở Thừa Thiên – Huế (2012).
Sinh ra và lớn lên ở một làng quê bên phá Tam Giang (làng An Truyền), năm lên 4 tuổi cha trúng đạn không biết từ đâu chết tại chỗ.
Năm lên 11 tuổi trong chiến trận Mậu Thân 1968, một quả bom napalm từ máy bay Mỹ ném xuống rơi trúng nhà làm mẹ chết ngay, còn bản thân mình bị cháy toàn thân bốc lửa vừa dập lửa vừa khóc ré hoảng hốt chạy ra khỏi nhà. Sau đó được bà dì bỏ vào thúng gánh chạy lên bệnh viện Huế cách cả mấy chục cây số nhờ cứu chữa.

Tại đây được tổ chức từ thiện quốc tế Terre des Hommes nhận đưa qua Đức chữa trị với đầy đủ phương tiện, thuốc men hơn, rồi sau đó đưa tiếp qua Thụy Sĩ điều trị. Một thời gian dài mới phục hồi, các vết bỏng liền da chỉ còn các ngón tay co quắp không cử động bình thường được.

Xuất viện được một bà mẹ Thụy Sĩ nhận làm con nuôi. Từ người con nuôi bất hạnh đã nhen nhóm trong lòng gia đình Thụy Sĩ này mối tình cảm VN, bà mẹ luôn trích tiền tiết kiệm gửi tặng các bệnh nhân nghèo VN, còn người chị sau này làm Chủ tịch Hội Hữu nghị Thụy Sĩ – VN.

Bản thân được cho ăn học đàng hoàng, vào đại học tốt nghiệp kỹ sư nông nghiệp ra đi làm, lấy vợ Thụy Sĩ sinh 2 con gái 1 con trai.

Trong suốt thời gian trên cố quên quá khứ đau buồn ở VN nhưng càng lớn càng không sao quên được: “Nhiều lúc mình không muốn nhớ đến quá khứ đau thương, hãi hùng nhưng nỗi nhớ nước nhớ nhà luôn thôi thúc mình quay về.”

Vì vậy đến năm 42 tuổI mới bắt đầu đi học lại tiếng Việt, học đến 4 năm mới xong do ở đây ít có lớp dạy tiếng Việt. Rồi năm 1989 lần đầu tiên quay về quê cũ, tìm lại căn nhà xưa tiêu điều vẫn còn đó, ở lì trong nhà “khóc liền 4 tuần lễ”. Gặp lại bà dì đã cứu đời mình ngày xưa, bà vẫn còn sống nhưng trong cảnh neo đơn khi bao người thân đều đã lần lượt ra đi trong chiến tranh.

Dù bịn rịn không muốn xa quê một lần nữa song cuối cùng vẫn phải qua lại Thụy Sĩ còn vướng bận công việc sau khi đã gửi gắm bà dì cho làng nước trông nom giùm. Ra đi lần này với quyết tâm làm việc dành dụm tiền bạc đến năm 50 tuổi sẽ trở về làng ở hẳn.

Thực hiện đúng lời hứa, năm 2007 xin nghỉ hưu non gom hết tài sản chia tay 3 con để cùng vợ hồi hương lo cho bà dì mỏi mòn chờ cháu bao năm.

Cả 2 vợ chồng chung tay sửa sang ngôi nhà tả tơi còn in hằn dấu vết bom đạn, dọn vườn trồng rau cải làm niềm vui. Cả người vợ Thụy Sĩ dần trở thành như một người phụ nữ VN đảm đang đi chợ nấu món ăn VN cho bà dì ăn tấm tắc khen ngon!

Con cái thỉnh thoảng qua thăm, cùng góp tiền cho cha mẹ làm từ thiện giúp đỡ người nghèo khó, bệnh tật, học sinh nghèo trong làng.

(“Em bé Napalm 1” là trường hợp bé gái Kim Phúc bị trúng bom napalm năm 1972 tại Tây Ninh được nhà nhiếp ảnh Nick Ut chụp ảnh đăng báo Mỹ đoạt giải Pulitzer 1973: Xem Kỳ 11).

1.123 - Nguyễn Đức Đạt
NGHỆ SĨ GUITAR KHIẾM THỊ TRÊN ĐẤT MỸ
Nghệ sĩ đàn guitar Việt kiều Mỹ sinh 1970 tại VN. Sống ở Mỹ (2012).
Sinh ra đã bị mù mắt bẩm sinh, cha là lính Mỹ ở VN đã bỏ 3 mẹ con (còn một em gái) về nước trước 1975.
Sau ngày Giải phóng không bao lâu thì mẹ mất, bản thân phải sống bụi đời lê la trên hè phố làm mọi việc cực nhọc để sống còn và nuôi em.

Trong những lần dắt em đi ăn xin đến các quán ăn bình dân mới làm quen với những giai điệu ngọt ngào của đàn guitar qua các đàn anh cũng khiếm thị đánh đàn xin tiền khách trong quán. Từ đó say mê xin theo học đàn.

Đến năm 10 tuổi dành dụm được ít tiền mua cây đàn cũ về tự học, tự tập luyện những khi rảnh rỗi. Càng ngày ngón đàn càng điêu luyện cộng với tâm tình u uất thân phận làm tiếng đàn rất có hồn.

Năm 1991 được đi Mỹ theo diện con lai.

Trân đất Mỹ được nhận vào học trung học, có điều kiện thuận lợi hơn để rèn luyện nghề đàn. Từ năm 1993 dự nhiều cuộc thi đàn guitar và liên tiếp thắng giải nên năm 1994 được vào học trường ĐH Fullerton ở California chuyên ngành guitar cổ điển flamengo.

Từ đó thành danh nổi tiếng, làm cây guitar chính trong ban nhạc Bayadera đi trình diễn khắp nơi. Được bầu chọn là một trong 15 nhân vật tiêu biểu cho nền văn hóa đa dạng của Quận Cam, California (trung tâm dân Việt kiều ở Mỹ) bước vào thế kỷ 21.

1.124 - Richard Nguyen
ĐẤU TRANH DÂN CHỦ BẤT BẠO ĐỘNG
Tiến sĩ toán Việt kiều Mỹ tên cũ Nguyễn Quốc Quân sinh 1953 tại Hà Nội. Sống ở Mỹ (2012).
Theo gia đình di cư vào Nam năm 1954. Trước 1975 làm giáo viên dạy toán ở Sài Gòn.
Năm 1981 vượt biên theo đường bộ qua Thái Lan rồi qua Mỹ. Học đại học tốt nghiệp tiến sĩ toán năm 1986. Làm việc cho một công ty công nghệ thông tin. Có vợ 2 con.

Song song đó còn tham gia hoạt động chính trị chống Cộng, năm 2002 gia nhập Đảng Việt Tân (Việt Nam Canh tân Cách mạng Đảng) đặt trụ sở tại California chủ trương đấu tranh đòi tự do dân chủ cho VN bằng phương pháp phi bạo lực.

Năm 2007 nhận nhiệm vụ xâm nhập VN bằng đường bộ qua biên giới Campuchia định hoạt động rải truyền đơn chống Cộng thì bị bắt tại TPHCM cùng hai đồng sự. Được nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế vận động can thiệp nên năm 2008 ra tòa lãnh án 6 tháng tù rồi trục xuất về Mỹ.

Đến tháng 4.2012 vẫn được cấp chiếu khán đáp máy bay về TPHCM thì lại bị bắt giữ ngay sân bay Tân Sơn Nhất vì tội âm mưu khủng bố xúi giục người dân biểu tình chống chế độ hiện hành nhân dịp lễ mừng Chiến thắng 30.4 giải phóng hoàn toàn miền Nam. Tuy nhiên bà vợ ở Mỹ nói mục đích chuyến đi này của chồng mình chỉ là để thăm người em gái còn sống ở VN.

Có thông tin cho biết đương sự là con trai của nữ nghệ sĩ ngâm thơ Hồ Điệp nổi tiếng trong chương trình thơ Tao Đàn hàng tuần trên Đài Phát thanh Sài Gòn. Năm 1987 bà cũng đã vượt biên theo đường bộ qua Campuchia nhưng rốt cuộc mất tích lúc 58 tuổi.



1.125 - Thanh Lãng
SỰ NGHIỆP VĂN HỌC SỬ CHƯA TRỌN
Linh mục Thiên Chúa Giáo, giáo sư đại học nghiên cứu văn học sử VN tên thật Đinh Xuân Nguyên sinh 1924 tại Thanh Hóa – Mất 1978 ở TPHCM (55 tuổi).

Tốt nghiệp tiến sĩ văn chương ở Thụy Sĩ về Sài Gòn dạy ĐH Văn khoa chuyên về văn học sử VN với ý hướng áp dụng phương pháp nghiên cứu khoa học văn học của phương Tây vào văn học sử VN, đặc biệt chú trọng việc phân chia các thời kỳ văn học trong lịch sử và sưu tầm tư liệu.

Theo ý hướng đó, đã tìm hiểu các tài liệu văn học sử do miền Bắc biên soạn (qua đường tiếp cận từ nước ngoài…) và có sử dụng một số để giảng dạy, viết sách. Đặc biệt bổ sung và nhấn mạnh phần văn học Quốc ngữ của giới Thiên Chúa giáo từ cuối thế kỷ 19.

Từ đó in bộ sơ thảo văn học sử mới của riêng mình tựa đề “Bảng lược đồ Văn học VN” 2 cuốn thực chất là các bài giảng ở đại học.

Còn tham gia hoạt động văn hóa làm chủ biên tạp chí Nghiên cứu Văn học, Tin sách. Nhận chức Chủ tịch Hội Văn bút VN, tham gia Hội đồng Văn hóa – Giáo dục VNCH thời Tổng thống Nguyễn văn Thiệu.

Sau 30.4.1975 đương nhiên không được tiếp tục dạy đại học nên cộng tác với Phân viện Khoa học Xã hội tại TPHCM, chuyển qua nghiên cứu chữ Quốc ngữ dựa vào nhiều tài liệu thu thập từ Pháp và Tòa thánh Vatican. Tham gia sinh hoạt trong Hội Trí thức yêu nước TPHCM (tập hợp số trí thức không Cộng sản còn ở lại), từng có quan điểm không tán đồng chủ trương của Vatican phong thánh cho 117 Thánh tử đạo VN. Vì vậy bị giới Thiên Chúa giáo chính thống phê phán thân Cộng “bênh vực chế độ”.

Năm 1997 “Bảng lược đồ Văn học VN” dày 1.800 trang được in lại.

1.126 - Thành Được
“TRỐN” Ở LẠI PHÁP
Nghệ sĩ cải lương Việt kiều tên thật Châu Văn Được sinh 1933 tại Sóc Trăng. Sống ở Mỹ (2012).
Trước 1975 là “kép đẹp” nổi tiếng trên sân khấu cải lương Đoàn Thanh Minh ở Sài Gòn chỉ xếp sau “đệ nhất danh ca” Ut Trà Ôn. Tuy giọng ca không ngọt bằng Ut Trà Ôn nhưng ngoại hình ăn ảnh hơn.
Từng lấy 2 nữ danh ca cải lương cũng vào hàng Số 1 thời đó Ut Bạch Lan và Thanh Nga.
Sau ngày Giải phóng, vẫn ở lại tiếp tục trình diễn sân khấu có mặt đóng chung với Thanh Nga trong vở cải lương nổi tiếng “Thái hậu Dương Vân Nga”.

Được Nhà nước tin cậy nên cho tham gia doàn nghệ sĩ qua Đức biểu diễn lấy uy tín cho chế độ Cộng sản hiện hành. Bất ngờ khi đi ngang qua Pháp được phe nhóm chống Cộng hải ngoại chiêu dụ liền bỏ trốn khỏi đoàn xin chính quyền Pháp cho ở lại “tị nạn”!

Sau đó qua Đức lập nhà hàng sinh sống. Một năm sau vợ được phép xuất cảnh qua Đức đoàn tụ với chồng. Đến 1995 chuyển qua Mỹ cũng làm chủ nhà hàng. Thỉnh thoảng đi hát sô cho đỡ nhớ nghề.

Năm 2006 lặng lẽ trở về VN mà công chúng không hề hay biết. Đi thăm mộ các đồng nghiệp cũ như nữ nghệ sĩ Như Ngọc, 2 tác giả cải lương Hà Triều – Hoa Phượng, còn ca vọng cổ hoài niệm trước mộ Ut Trà On. Tìm thăm bà thầy NSND Phùng Hà lúc đó còn sống mà mình “tưởng đến chết không gặp nữa rồi”!

Năm 2008 cả 2 vợ chồng cùng về làm đơn kiện… đòi nhà ở TPHCM!

1.127 - Thảo Trường
NHÀ VĂN CẢI TẠO LÂU NHẤT
Nhà văn Việt kiều Mỹ tên thật Trần Duy Hinh sinh 1936 tại Nam Định – Mất 2010 ở Mỹ (75 tuổi).
Là giáo dân đạo Thiên Chúa nên di cư vào Nam 1954, để lại bà mẹ ở miền Bắc (bố đã mất).
Gia nhập quân lực VNCH làm sĩ quan pháo binh, sau chuyển qua ngành an ninh quân đội. Từng có mặt trong phái đoàn VNCH bay ra Hà Nội làm công tác trao trả tù binh năm 1973.

Trong thời gian này có tham gia hoạt động sáng tác truyện ngắn và tiểu thuyết từ khá sớm, cộng tác với nhóm Sáng Tạo. Có tác phẩm đầu tay “Thử lửa” in năm 1962.

Về sau viết truyện theo khuynh hướng ủng hộ hòa bình, hòa giải dân tộc gần gũi với các nhóm phản chiến Công giáo chủ trương 2 tờ tạp chí Trình Bày, Hành Trình. Nổi bật có truyện ngắn “Người đàn bà mang thai trên kinh Đồng Tháp” được dịch ra tiếng Pháp in chung trong một tuyển tập ở Pháp. Đến 1975 đã ra mắt hơn 5 tác phẩm.

Sau 30.4.75 mang lon thiếu tá an ninh quân đội là ngành “độc” (chuyên thẩm vấn, tra tấn tù binh Việt Cộng) nên phải đi cải tạo lâu dài đến 17 năm qua 18 nhà tù từ miền Nam ra miền Bắc. Vợ con trước đó đã kịp di tản qua Mỹ.

Năm 1992 được trả tự do, qua năm sau đi H.O qua Mỹ.

Trên xứ người bắt đầu viết trở lại: “Chế độ chính trị không bắt tôi im được mãi, họ chỉ cản trở tôi được một giai đoạn thôi.”

Tám tác phẩm mới thời kỳ này đượm chất suy tư về quá khứ chiến tranh: “Cuộc chiến tranh VN chỉ thực sự chấm dứt ngày 4.5.1992, ngày 4 tù cải tạo cuối cùng được thả” (4 tướng Lê Văn Thân, Đỗ Kế Giai, Trần Bá Di, Lê Minh Đảo). Và về kinh nghiệm sống trải qua các trại cải tạo: “Tất cả đau khổ, tàn nhẫn, xót xa mà anh em trong tù phải chịu, những cảnh trớ trêu mình gặp hay sự dốt nát tội nghiệp của cai tù… đều đòi hỏi mình để tâm phân tích…”

1.128 - Thế Nguyên
HỒI CHUÔNG TẮT LỬA
Nhà văn tên thật Trần Gia Thoại sinh năm 1942 tại Nam Định – Mất 1989 ở TPHCM (48 tuổi).

Theo gia đình đạo Thiên Chúa di cư vào Nam 1954, tốt nghiệp ngành công chánh ra làm công chức.
Song song đó bắt đầu viết truyện. Năm 1964 xuất bản cuốn truyện vừa (chỉ khoảng 100 trang) “Hồi chuông tắt lửa” gây ấn tượng mạnh về đề tài, khung cảnh, chất liệu suy tư, bút pháp cô đọng viết về những xung đột âm ỉ giữa những con người khác chính kiến trong lòng một xóm đạo chia rẽ vì quan điểm chính trị đối nghịch thời chống Pháp.

Cuối năm 1960 được Cộng sản móc nối. Từ đó năm 1967 nhờ gia sản của vợ đã đứng ra lập nhà xuất bản Trình Bày rồi bán nguyệt san Trình Bày năm 1970 tại Sài Gòn tập hợp giới trí thức văn nghệ sĩ đa số theo khuynh hướng Công giáo tiến bộ thiên tả. Từ in sách đến in bài trên báo thường xuyên đã biến nơi đây thành một diễn đàn chủ lực của phong trào phản chiến vận động hòa bình chống chế độ Thiệu - Kỳ.

Bản thân còn tìm mọi cách phát triển nhóm Trình Bày ra rộng rãi qua một số tờ báo khác do chính mình đóng vai trò chủ chốt như nhật báo Làm Dân, tạp chí Đất Nước, Nghiên cứu Văn học… Nhiều lần bị chính quyền VNCH o ép, tịch thu, đưa ra tòa…

Trở thành một nhà báo lăn lộn từng trải, quán xuyến, đa năng nên cũng không còn thì giờ quan tâm đến việc sáng tác nhiều nữa (còn in thêm vài tập truyện khác song không còn giữ được độ sâu sắc, sức nặng cảm xúc bằng “Hồi chuông tắt lửa”).

Sau ngày Giải phóng, là nhà văn “Ngụy” hiếm hoi được chế độ mới đưa vào Ban Chấp hành Hội Nhà văn TPHCM xem như đại diện cho giới nhà văn “tại chỗ” nhưng hầu như chẳng có quyền hành, tiếng nói gì đáng kể, ngoài việc được giao đi… sửa morasse cho tuần báo văn Nghệ TPHCM! Còn nhà xuất bản lẫn tạp chí Trình Bày thì đương nhiên đóng cửa vô điều kiện, vô thời hạn.

Thật ngẫu nhiên trùng hợp như một định mệnh, bấy giờ cuộc đời lâm vào cảnh thất vọng tràn trề khi lý tưởng từng ấp ủ đấu tranh nay phải đối diện với thực tế phũ phàng giống đúng như “Hồi chuông (đã) tắt lửa” – cũng là “Tắt lửa lòng”! -- tên tác phẩm đầu tay mà cũng là xuất sắc nổi tiếng nhất của mình!

Cuối cùng định mệnh còn ra tay giúp kết thúc sớm cuối một đời văn đời hoạt động văn hóa nửa đường đứt gánh cay đắng bằng một cái chết hết sức vô duyên: Ngồi buồn dùng dao cạy mụn cóc nơi bàn chân bị nhiễm độc phong đòn gánh chỉ qua một ngày không cứu sống kịp!

1.129 - Thế Phong
NHÀ VĂN MỘT MÌNH MỘT CHỢ 2 CHẾ ĐỘ
Nhà văn tên thật Đỗ Mạnh Tường sinh năm 1932 tại Yên Bái. Sống ở TPHCM (2012).
Di cư vào Nam 1954 đi lính không quân.
Bắt đầu viết văn từ năm 1952, sau đó viết đủ thể loại cả thơ lẫn tiểu thuyết, truyện ngắn, phê bình văn học, lịch sử văn học, chân dung văn nghệ sĩ, bút ký, hồi ký… Viết rất nhiều rồi tự lập cơ quan xuất bản “tư” Đại Nam Văn Hiến chuyên in tác phẩm của mình dưới dạng ronéo thời trước.

Tự cho mình tách ra trong dòng văn học miền Nam thời đó như một nhà văn độc lập, nhà văn “nổi loạn” không theo bất cứ khuynh hướng, trào lưu hay phe nhóm nào (không tỏ rõ thân Cộng hay chống Cộng) mà ngược lại còn mạnh miệng phê phán tất cả. Khiến ai cũng “ngán” không muốn đụng vào, cho là nhà văn “côn đồ”!

Sau 1975, thời gian đầu thấy khó tiếp tục hoạt động văn chương theo kiểu cũ nên tạm gác bút ra đường làm nghề lao động kiếm sống từ bán lẻ bánh bông lan lề đường (vợ bán nón) đến làm lơ xe bus rồi được nhận vào làm công nhân công ty xe khách TPHCM.

Đến thời Đổi mới thoáng hơn mới xin nghỉ hưu non năm 1992 quay về lại với nghề viết bây giờ thay vì in ronéo phổ biến hạn chế như trước kia thì đã có Internet tha hồ đưa bài lên mạng. Vẫn viết nhiều, viết đủ thứ trong đó có cả mảng bài viết về những chuyến trở lại miền Bắc gặp lại thân hữu bạn bè văn chương cũ nhưng tránh đề cập vấn đề chính trị.

Một số tác phẩm đã được in lại ở Mỹ, Pháp.

1.130 - Thích Hằng Trường
PHƯƠNG PHÁP “TU TOÀN DIỆN”
Tu sĩ Phật giáo Việt kiều Mỹ sinh 1962 tại Huế. Sống ở Mỹ (2012).

Con trai út trong gia đình 11 anh chị em con bác sĩ Lê Khắc Quyến khoa trưởng đầu tiên của ĐH Y khoa Huế.

Năm 1967 sau khi cụ bác sĩ thân sinh mất chức do theo phong trào Phật Giáo miền Trung chống chế độ Thiệu – Kỳ, theo gia đình vào Sài Gòn học trường Petrus Ký.

Năm 1980 theo tàu vượt biên qua Mỹ.

Một năm sau chuẩn bị vào đại học ngành hóa thì được hòa thượng Tuyên Hóa khai sáng, giác ngộ lẽ đạo nên bỏ học xuất gia.

Chuyên tâm nghiên cứu kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo Đại thừa, từ đó sáng tạo nên lý thuyết “tu toàn diện” bắt đầu từ năm 2002 ở California truyền bá rộng rãi trong quần chúng qua nhiều buổi thuyết giảng, pháp thoại tại chỗ hoặc trên đài truyền hình, phát thanh thu hút nhiều tín đồ hâm mộ.

Chủ trương “tu toàn diện” gần với quan điểm Phật giáo mang tính ứng dụng thực tiễn phổ biến, hiện đại hóa đi vào cuộc sống hiện thực gần gũi nhân sinh của thiền sư Nhất Hạnh, qua đó chú trọng dạy cho môn đồ cách kết hợp tu đạo cùng nghệ thuật sống chan hòa với mọi người trong xã hội: “Có thể hiểu “tu toàn diện” là một mặt đem tình thương trải tràn khắp chốn, mặt khác hãy xây dựng một phương thức sống mới…”.

Nhấn mạnh tu nhập thế nhắm mục đích phục vụ cộng đồng hiệu quả nhất là về mặt tinh thần chứ không phải xuất thế đi ở ẩn: “Trong cuộc sống hãy lấy tình thương mà giải quyết. Lấy lý thì có cãi cọ, chỉ lấy đạo ra mà làm, đừng nói gì hơn. Trong cuộc đời chúng ta sống được là nhờ có tình bạn, tình huynh đệ chia ngọt xẻ bùi từ đó mà phát khởi tình yêu dân tộc, đất nước. Đùng nhìn về quá khứ mà hãy nhìn vào hiện tại. Đừng để những tư tưởng xung khắc nhỏ biến thành những bức tường dày chia cách nhau…”

Song song phần lý thuyết còn hướng dẫn cách tu tập kết hợp với các phương pháp tập Thiền, yoga, khí công. Lập Hội Từ bi phụng sự để góp phần hỗ trợ công việc truyền đạo.

(Còn tiếp)

Thứ Tư, 16 tháng 5, 2012

MƯA SÀI GÒN - LÊ NGỌC THUẬN

chừ em nhan sắc trùng tu
má môi như thể sương thu nhẹ nhàng
còn anh trở mộng đi hoang
trái tim hẹp lại thiên đàng trống không
thôi thì em cứ ôm chồng
riêng anh chuông mỏ sắc không chốn nầy
Sài Gòn Đông Bắc Nam Tây
thiếu thơ sóng vỗ ly đầy đá chanh
fê không, rượu không đoạn đành
anh như tượng đá bên thành cổ xưa

Thứ Ba, 15 tháng 5, 2012

GS.TS PHẠM ĐỨC DƯƠNG : ĐỪNG LÀM " Ô NHIỄM " TIẾNG MẸ ĐẺ

Ngôn ngữ “tuổi teen” đang phần nào khiến cho tiếng Việt biến dạng, méo mó, mất đi sự trong sáng, đẹp đẽ vốn có. Việc sử dụng ngôn ngữ lệch chuẩn ngày càng lây lan mạnh trong giới trẻ, khiến không chỉ các bậc phụ huynh, nhà giáo dục mà cả các nhà ngôn ngữ học phải “đau đầu”.

Phóng viên Báo Năng lượng Mới có cuộc trao đổi với GS.TS Phạm Đức Dương – Nguyên Viện trưởng Viện Đông Nam Á, Chủ tịch Hội Nghiên cứu khoa học Đông Nam Á – Việt Nam.

PV: Thưa giáo sư, là một người nghiên cứu về ngôn ngữ, ông đánh giá như thế nào khi hiện nay giới trẻ đang làm biến dạng tiếng Việt?

GS.TS Phạm Đức Dương: Là người nghiên cứu về ngôn ngữ và văn hóa, tôi rất lo lắng cho ngôn ngữ của dân tộc. Nói không ngoa, tiếng Việt của chúng ta đang bị vẩn đục. Tôi thấy hiện nay thanh niên nói bậy, chửi tục rất nhiều. Việc chửi tục, nói bậy không chỉ khiến cho tiếng Việt bị vẩn đục mà đáng báo động nữa là tình trạng giới trẻ sử dụng “ký hiệu teen” đang trở nên phổ biến. Việc các em dùng ký hiệu tràn lan, “Tây, ta” lẫn lộn khiến cho cả các nhà ngôn ngữ học cũng phải “bó tay”. Trong thời đại thông tin hiện nay, việc các em sử dụng các ký hiệu đơn giản là không sai. Nhưng điều đáng nói là các em đã lầm lẫn khi biến nó thành ký hiệu chung để nói hoặc viết ở mọi nơi, mọi lúc.

Đây là điều khó tránh khỏi khi xã hội phát triển khiến cho mọi người phải chạy theo để bắt nhịp. Hiện nay, lớp trẻ của chúng ta học rất nhiều nhưng dường như một bộ phận không giữ được văn hóa đọc. Thời gian của các em bị chi phối quá nhiều vào học thêm, vào đi chơi với bạn bè, vào Internet, chat… Và cũng vì ngày nay có quá nhiều sách báo được xuất bản khiến các em không biết chọn lọc sẽ dẫn đến tình trạng đi sai đường trong nhận thức, trong cách chọn lựa văn học để tiếp thu kiến thức.

PV: Trước đây, khi đi học và giảng dạy tại các nước phương Tây ông có thấy ngôn ngữ của các nước bị lai tạp như tiếng Việt hiện nay?

GS.TS Phạm Đức Dương: Thời Pháp thuộc, tiếng Pháp được dạy từ lớp Đồng ấu trở lên. Đến lớp nhì thì các bài học (trừ giờ Việt văn) còn toàn bằng tiếng Pháp nên giới học sinh, sinh viên, công chức sử dụng tiếng Pháp là chuyện thường tình. Thế nhưng sách, báo tiếng Việt thời đó vẫn không lai căng tiếng Pháp một cách hổ lốn. Từ sau Cách mạng Tháng Tám cho đến ngày thống nhất đất nước, Bác Hồ, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đến các nhà lãnh đạo giáo dục, văn hóa, văn nghệ, báo chí… đều rất quan tâm đến việc bảo vệ, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Và vì thế, tiếng Việt được coi trọng, không pha tạp, ngay các giáo trình chuyên khoa ở các trường đại học cũng chỉ sử dụng tiếng Việt. Hiện nay, các em học sinh được học rất nhiều kiến thức, nhưng văn hóa thì lại ít.

Người ta vẫn nói có học mà thiếu văn hóa là vì thế. Hiện nay ở trong nhà trường, học để chú tâm đến kiến thức, đến điểm số chứ để một đứa trẻ có lễ độ thì không thể như trước kia. Ngày trước, chúng tôi được học làm người, học lễ độ sau đó mới được các thầy dạy cho kiến thức. Ngày nay, chúng ta đang giảng dạy theo phương pháp hiện đại nhưng dường như các em không hiểu hết được nghĩa. Ở những nước mà tôi đã từng được đến, từng được tham gia học tập và giảng dạy thì ngôn ngữ của họ cũng có bị lai tạp, nhưng họâ dùng toàn bộ như mình, mà họ lại biến đổi cho phù hợp với cấu trúc, phù hợp với tiếng nói của họ, làm cho từ được vay mượn phải chịu sự chi phối của ngôn ngữ người ta dùng. Cho nên tình trạng lai tạp là không có. Ngày xưa cha ông chúng ta cũng có sử dụng những từ ngữ nước ngoài nhưng không phải như bây giờ. Giới trẻ mượn từ mà khiến người khác khó có thể hiểu được ý mà chúng nói.

PV: Theo ông, vì sao lại có hiện tượng “rối loạn”, “ô nhiễm” trong ngôn ngữ hiện đại?

GS.TS Phạm Đức Dương: Theo tôi đó là sự giảm sút tình yêu tiếng Việt, ý thức, trách nhiệm giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt của một bộ phận nhân dân. Đó là sự thiếu hụt tri thức cơ bản về ngôn ngữ nói chung và tiếng Việt nói riêng. Đời sống hiện đại khiến cho những người không biết nghĩa của các từ tố Hán – Việt ngày càng nhiều, dẫn đến việc dùng sai tiếng Việt. Ví dụ: từ “cứu cánh” nghĩa là mục đích (hay mục đích cuối cùng), song hiện nay rất nhiều người hiểu là “cứu giúp” hay “giải thoát”, “giải pháp”. Sự “rối loạn”, “ô nhiễm” trong đời sống ngôn ngữ hiện đại là có thật và gây ra nhiều hậu quả, thể hiện sự thiếu tôn trọng, yêu quý tiếng mẹ đẻ và tiềm ẩn nguy cơ mai một những giá trị đạo lý truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc.

Bởi vì ngôn ngữ không chỉ là công cụ giao tiếp, phương tiện của tư duy mà còn là sự kết tinh những giá trị bản sắc, tinh hoa của một dân tộc trong lịch sử phát triển lâu dài. Vấn đề văn phạm và chính tả trong việc viết tiếng Việt cũng có quá nhiều sai phạm. Trên sách báo, nhiều phóng viên, biên tập viên hầu như không chú ý đến văn phạm, chính tả nên có nhiều sai sót gây phản cảm cho người đọc. Trường hợp những người dẫn chương trình truyền hình trong các buổi truyền hình trực tiếp bóng đá, văn nghệ… nói theo kiểu “văn Tây” thì còn có thể chấp nhận được, nhưng in trên sách báo thì không thể tùy tiện. Như tôi nghĩ, ảnh hưởng lớn nhất trong cách sử dụng ngôn từ của chúng chính là Internet, chat và thích “thể hiện cá tính, đẳng cấp” của một số người, đặc biệt là giới trẻ. Một số doanh nghiệp nắm bắt tâm lý sính ngoại của người dân nên triệt để khai thác: tên thương hiệu, vỏ bao bì, cách quảng cáo…

Một số người thường thể hiện sự “uyên bác” bằng cách diễn đạt pha trộn nhiều tiếng nước ngoài, hay diễn đạt khó hiểu, dùng các từ nước ngoài một cách không cần thiết… Những mặt tích cực thì không thể phủ nhận nhưng nó mang theo hiện tượng mà chúng ta vẫn dùng đó là từ “sính ngoại”, tức là quá tôn sùng và ưa dùng ngôn ngữ nước ngoài. Nguyên nhân nữa khiến cho cho ngôn ngữ của giới trẻ lệch chuẩn là: Trong gia đình, cách nói năng giao tiếp giữa mọi người cũng không chuẩn mực; trong giờ học, học sinh không nói bậy nhưng giờ ra chơi các em vẫn chửi bậy; còn ở ngoài xã hội, việc nói tục, chửi bậy khá phổ biến nhưng rất ít người lên án.

PV: Vậy chúng ta nên làm thế nào để tiếng Việt trở về với sự trong sáng vốn có của nó, thưa giáo sư?

GS.TS Phạm Đức Dương: Bản thân gia đình cũng phải có ý thức rèn con cái từ lời nói đến hành vi. Bố mẹ phải nêu gương cho con cái. Bên cạnh đó, nhà trường phải chú ý rèn học sinh về ngôn ngữ, nói đúng, viết đúng chuẩn tiếng Việt, trong đó có viết đúng chính tả. “Trước tiên, chúng ta phải giáo dục để các em hiểu rõ đâu là chuẩn mực ngôn ngữ, chứ không nên lầm lẫn khi biến phương tiện làm việc thành phương tiện giao tiếp. Lời nói lệch chuẩn có thể dẫn đến tư duy, hành vi lệch lạc. Vì thế, việc làm méo mó ngôn ngữ tiếng Việt cần phải được lên án”. Cần xây dựng phong trào giữ gìn sự trong sáng tiếng Việt để học sinh hiểu và thực hiện theo. Việc giáo dục cần được bắt nguồn từ thực tế, những câu chuyện, tình huống thật xảy ra trong cuộc sống.

PV: Xin cảm ơn giáo sư về cuộc trao đổi này!

Diệu Thuần (thực hiện)
(PetroTimes)

Thứ Hai, 14 tháng 5, 2012

CHẮP TAY DÒNG ĐỜI ( KỲ 15 ) - VÕ CHÂN CỬU

Gỗ và Đá
Dưới lòng suối những rễ cây vô tình ngoạm đá. Dâu biển tang thương, phá xong những cánh rừng, người ta moi đến gốc. Những rễ cây ôm đá qua các nhà sinh vật cảnh đã thành các món hàng vô giá.
Dòng chảy 21 năm VHMN có thể sẽ được đào xới lên theo nhiều kiểu cách. Một nhà khoa học sinh học chăm bẳm vào các đề tài nghiên cứu, khi nhìn thấy các món sinh vật cảnh này quả quyết qua tháng năm, nó tích tụ nhiều chất phóng xạ. Có loại đem chưng trong nhà sẽ rất độc hại. Cách nhìn duy vật thô sơ vẫn xem gỗ và đá là những loài vô cơ. Cách nhìn mới cho rằng trong đó sự sống vẫn dịch chuyển. Có khi nó chứa đựng cả phần hồn ! Thật vậy chăng ?


Linh cảm
Trong lĩnh vực văn chương, có người vẫn tin hoặc muốn tạo ra những tác phẩm “phi thời gian”. Điều ấy rõ ràng là không thể, nhưng vẫn có nhiều ngụy biện. Dù bắt nguồn từ khuynh hướng hay trường phái nào, tác phẩm văn chương, nhất là thơ ca cũng phải từ cảm xúc của con người. “Khi cảm xúc bị tác động thì trong lòng phát ra lời với âm hưởng và tiết tấu. Đó được gọi là Thơ. Như vậy, Thơ dùng biểu lộ tình cảm và tư tưởng con người”. Định nghĩa mang tính nhập môn ấy hình như được công nhận trên toàn thế giới. Nhưng có một ngày những người cầm quyền lại phủ nhận, bắt thơ phải phục vụ cho điều này, điều nọ…Từ đó cho rằng những vần thơ không xuất phát từ cảm xúc hiện thực không phải là thơ. Họ quên mất khả năng “linh cảm” của thơ…
Trước và sau biến cố 1975, các nhà thơ Miền Nam cảm nhận ra sao ? Đâu phải ai cũng phải miêu tả bằng những tiếng súng đạn, sự rên rỉ…Trong khi tôi cảm nhận với những “Tiếng chà xát của mây trong khí / Gió sang mùa mộng mị sang canh”… thì ở Bình Thuận, Lê Nguyên Ngữ, một thi sĩ mặc áo lính nghe được những cơn “gió bấc” vào cuối 1974 :

TRỞ BẤC
Có phải bấc đã xoay chiều
Vào những cửa nhà không cánh của quê ta ?
Gió thổi sắt se trên cánh đồng như lùng tìm mùa lúa mới
Hương cốm cũ theo về phảng phất
Trên bàn thờ khói lạnh hương tàn
Con cháu nào đã bỏ tổ tiên
Xa chạy cao bay

Có phải gió bấc đang nôn nao nỗi khát thèm
Viền đường bay áo mới
Ngọn cỏ vàng đong đưa vô tình
Rung nỗi bơ vơ lên khung trời xám nhạt bao la
Dưới cầu ao xưa
Lũ bèo cũng đang khát thèm
Âm khua rỗ rá

Có phải gió bấc bây giờ
Đang ruổi rong bằng vó ngựa bất kham
Và rượt đuổi mùa đông
Khắp ngõ hẻm hang cùng
Ôi quê ta, quê ta
Kỷ niệm nào đang run trong mùa đông rét ngọt
Bên hàng cây ngọn rẫy rất vô tình

Cơn bấc nào đã lì lợm tìm về
Trên quê ta, quê ta
Bằng đôi cánh tuyệt vời
Đang trùm khắp mùa đông binh lửa
Bằng ngõ đến tuyệt vời
Bấc làm người lạ mặt giữa quê ta
(Tạp chí Thời Tập)

Trong những năm cuối của cuộc chiến tranh tệ hại, có khá nhiều bài thơ được phổ nhạc. Có những bản đưa bài thơ được phổ nhạc trở nên nổi tiếng. Từ đó lại có những tranh cãi rằng “Thơ có trước hay Nhạc có trước ” –mà quên mất rằng “ngôn ngữ thơ” luôn “đượm tính âm nhạc”. Hóa giải cho sự tranh cãi này, có thể là các ví von của dân gian : “Thơ với nhạc như hoa với bướm”. Hoặc cách đổ thừa cho rằng mỗi tác phẩm nghệ thuật ra đời đều có số phận riêng của nó, có thể được nhiều người thích hoặc không thích ! Ngay cả với Trịnh Công Sơn, một nhạc sĩ luôn có lời nhạc đượm chất thơ, cũng có những bản nhạc không được cho là hay; nhưng nếu đọc lời, bài thơ lại rất ý vị ((Bài hát cùng tựa đề) :
KHÓI TRỜI MÊNH MÔNG
Ta về nơi đây phố xưa dấu đạn
Con đường bên sông cỏ lá buồn tênh
Ta về nơi đây tháng năm quá rộng
Ðường xưa em lại thấp thoáng bàn chân

Ta về nơi đây thoáng nghe gió lạnh
Hết mùa thu sang đã đến ngày đông
Những hàng cây xanh đón em áo lộng
Bây giờ ta nhìn khói trời mênh mông

Ta về nơi đây bỗng im tiếng động
Ðã về trên sông những cánh bèo xanh
Có còn trong em những đêm gió lộng
Ngồi bên hiên nhìn bến nước đầy dâng

Có còn trong em những cây nến hồng
Những cầu qua sông những chút tình duyên
Gió trời lênh đênh nhớ con phố hẹn
Ta nhìn ta về giữa trời hư không...

Có một thi sĩ khá cực đoan, không bao giờ muốn thơ mình được phổ nhạc: Nguyễn Đức Sơn. Nỗi ước mơ hòa bình của anh được diễn tả đượm màu tiêu dao:

MAI KIA
Mai kia tan biến hận thù
Giữa đêm sao chiếu mịt mù phương đông
Cha về ôm cả biển sông
Duỗi chân duỗi cẳng nằm không một đời
Cho con cha hứa một lời
Đuổi mây thiên cổ rong chơi tối ngày
Thu nào tóc bạc òa bay
Có con chỉ trỏ mới hay tuổi già
Cúi hôn trời đất đậm đà
Cha tan theo bóng trăng tà vạn niên.

Câu đá, câu mây
Ước mơ đơn giản ấy không dễ gì có được. Nhiều tình huống phải tan hoang sau biến cố “có triệu người vui nhưng cũng có triệu người buồn” – như cách nói của một nhà chính trị !

Sau sự kiện “long trời lở đất”, các thi sĩ không theo yêu cầu “thơ phải thế này, thế nọ” sinh sống và cảm xúc ra sao ? Ai cũng có một khoảng trời, một thiên đường mơ ước. Mỗi người chọn môt chốn ẩn giấu, làm nơi dung thân mình. Vẫn chất giọng không thay đổi, Nguyễn Bắc Sơn “Xin bái biệt những người tin rằng thi sĩ chết”:


Bỏ xứ
Mười năm nhỉ, mười năm khuất nhục
Ngồi khua ly trong quán cô hồn
Cô độc quá người thanh niên khí phách
Trời đất bao la mà không chỗ dung thân.

Kỳ lạ nhỉ, giờ đây ta bỏ xứ
Theo trái phong du níu gió lên trời
Xin bái biệt cổ thành với nhà ga hoang không thiết lộ
Khói của chòi rơm, bãi cát trăng soi.

Xin bái biệt những người tin rằng thi sĩ chết
Và hi hô tát cạn dòng sông
Khi giã từ, ta tặng cho các ngươi cái búa
Ðể đốn đời thánh hạnh của cây thông.

Ở Ðà Lạt, ngoài khung cửa kính
Giàn su xanh thở ấm má em hồng
Và tôi, kẻ mười năm không áo lạnh
Biết đời mình đủ ấm hay không?

Ở Ðà Lạt ta tha hồ cuốc đất
Và tha hồ ẩn hiện giữa ngàn cây
Sẽ đi tìm cây cần trúc nhỏ
Ra hồ ngồi, câu đá câu mây.

Ở Ðà Lạt, lạc đàn dăm bảy đứa
Còng lưng ra mà cõng ba-lô
Những hào sĩ đứng bên bờ nhật nguyệt
Vỗ tay cười khinh lớp sóng lô nhô.

Thư:
Từ gợi ý của một số bạn hữu thân thiết, Tản mạn văn học Chắp Tay Dòng Đời đã trải qua 15 kỳ. Một phần góc khuất trong 21 năm Thơ ca Miền Nam được khơi dòng từ một người thuộc lớp sau cùng của VHMN. Các tản mạn đa phần có tính hồi ký, nên có một số chi tiết đã được góp ý nên chỉnh lại cho chuẩn xác, và thú vị hơn.
Người viết xin tạm ngưng truyền mạng 5 kỳ còn lại, và hy vọng Võ Chân Cửu - Chắp Tay Dòng Đời có thể sẽ được in thành sách vào cuối năm 2012.

Võ Chân Cửu