Thứ Ba, 1 tháng 5, 2012

CHẮP TAY DÒNG ĐỜI ( KỲ 13 ) - VÕ CHÂN CỬU

Lá Cỏ và Sao Lạp

Sài Gòn-chốn ngựa xe xô bồ, tới nay vẫn là vùng đất của dân nhập cư. Mỗi giai đoạn, diện mạo văn học của nó đều tiêu biểu cho sự tổng hợp.
Những người nghèo vào Sài Gòn thường kiếm sống bằng chạy xe ôm, làm thợ hồ hay phu khuân vác. Nếu hỏi anh bỏ quê vô đây làm gì, mọi người dễ nghe câu trả lời: để làm thơ ! (giọng người từ Quảng Nam đến Phú Yên thường phát âm chữ thuê thành “thuơ”).
Chuyện tiếu lâm nêu trên cho thấy những miền đất khắc nghiệt thường sản sinh ra nhiều người làm thơ (Thực tế khá nhiều người có tài, đã thành danh). Tình hình đó nay đã khác. Có thể do khá nhiều nhà lãnh đạo khi có công danh muốn chứng tỏ mình thuộc dòng…văn hiến, nên sáng tác nhiều thơ, dễ nhất là theo lối…Bút Tre. Cấp dưới xum xoe, xưng tụng, riết thành “phong trào”. Để hủy diệt một giá trị tinh thần, cách hay nhất là đánh đồng nó với đầy dẫy những sản phẩm tầm thường. Chế độ tự do xuất bản ở xã hội tư bản khiến mỗi nhà xuất bản phải tự bảo vệ thương hiệu của mình, chỉ in ra những tác phẩm đáng đọc, không nhằm vào mục đích thu “quản lý phí”. “Tác giả tự xuất bản” có thể tạo ra dư luận nếu tác phẩm có giá trị văn học.
Văn học Miền Nam (VHMN) chỉ tồn tại có 21 năm đã sản sinh ra nhiều cây bút-dù thuộc phái “viễn mơ” hay “hiện thực”- nhưng đều có tính cách riêng. Các nhà làm văn học sử sẽ tổng hợp các điều kiện xã hội, nguồn tư tưởng thời đại để phân tích ra các xu hướng sáng tác. Hạnh phúc tình yêu và cõi vĩnh hằng-bất tử vẫn là 2 ngã hướng tới của những người làm ra cái đẹp nghệ thuật. Nhưng VHMN giai đoạn này, có thể do sự sống và cái chết quá liền kề, tất cả đều ngắn ngủi nên 2 lĩnh vực trên gần như có sự pha trộn. Cái đẹp tầm thường có thể là sự linh thiêng, cứu rỗi. Ngôn ngữ diễn đạt trong thơ, đã có những nhịp điệu tìm kiếm riêng.

Qua Vùng Chiến Tranh
Ta nghe chính tại nơi này
Năm rồi trận đánh phơi thây hàng ngàn
Bây giờ cây mởn lá xanh
Gió xôn xao thổi cỏ tranh ngập đầu
Máu xương dấu tích còn đâu
Còn trơ lô cốt bên cầu bỏ hoang
Gạch vôi lở loét rêu phong
Tường xiên xiên ngã theo dòng thời gian.
(Sưu tập của VCHC)

Ca tụng thân xác
Trần Đức Uyển, người khởi đầu làm thơ từ nhóm Tạp chí Văn nghệ (sau này ông nổi tiếng hơn với bút hiệu Tú Kếu làm thơ trào phúng) từ giữa những những năm 1960 đã ghi nhận sự vô nghĩa của cuộc chiến tranh, điều mà Nguyễn Bắc Sơn sau này xem đó là “như một trò chơi”. Trước tình cảnh đó, một số cây bút trẻ có xu hương đi vào “tìm sự giải thoát”. Trước tiên là cái đẹp của tình yêu, có khi pha chút “tưởng tượng thân xác”. Nguyễn Tôn Nhan, vào 1970 sau khi ngắm “Áo Ai Bay Trên Lầu Cũ” và ồ lên “Trăng cổ lâu ồ trăng cổ thi/Người ơi cho nhớ chút xiêm y”, đã xúc cảm quẩn quanh hơn:
Chỉ Có Lá Cỏ Là
Chỉ có lá cỏ là
Rỉ máu năm mười ba
Chỉ có cô tiểu thoa
Là rên năm mười tám

Chỉ có em là đáng
Xỏ mũi anh suốt đời
Chỉ có cỏ lá ơi.
(Tuần báo Khởi Hành)
Cùng với Nguyễn Tôn Nhan, Đặng Tấn Tới từ vùng đất Bình Định bày tỏ sự say đắm với hình tượng này (về sau hai người trở thành sui gia) :

Chơi Lá Cỏ
Em về chơi lá cỏ
Hát mấy ngõ thanh xuân
Ta vào trong hội mừng
Quên hết màu sinh diệt
(Thi tập Trúc Biếc, 1971)
“Lá cỏ”, biểu tượng cho thiên nhiên thuần khiết hay sức sống căng đầy của các nàng thiếu nữ ? Biểu tượng tình yêu gắn liền với sự sinh tồn, biểu tượng của thân xác và cách sống hiện sinh thâm nhập từ các tư tưởng triết học của thời đại đã được các thi sĩ diễn tả. Một nhà thơ khác là Hoa Tưởng Dung, (bút danh chỉ xuất hiện đôi lần trên vài tạp chí) bày tỏ cụ thể hơn về khoảng cách giữa hữu hạn và vô hạn:

Thiên tinh
Không ai hay biết
Ta là hương thơm
Sống còn hủy diệt
Trong làn gió vương !

Không ai hay biết
Tình cờ! Tài năng !
Vừa mới thoảng đến
Công trình đã xong !

Không ai thấu rõ
Tài trí tuyệt vời
Chờ bao lầm lỡ !

Không ai tỏ hay
Thời gian vú bày
Giữa hai áo ngủ !

Thơ lúc này có xu hướng mang hình thái tư duy của triết học . May mắn là khúc cuối bài thơ xác định được “cái đẹp” sẽ là sự cứu rỗi cho mỗi người như kết luận của một số triết gia. “Cái đẹp” không nằm ngoài thân xác. Một giáo sư triết học nổi tiếng lúc này cũng cho in hẳn một cuốn sách về đề tài này: Ca Tụng Thân Xác.

Mong manh “Sao Lạp”
“Quên hết màu sinh diệt” bằng đường “ca ngợi thân xác” có khi là sự chạy trốn không thành. Nhà thơ có khi vì chiến tranh và xã hội vây hãm nên đã tự mình tìm vào nẻo thần bí nào đó. Tôn giáo, có khi là một cứu cánh, nhưng với người làm thơ, tôn giáo lại đậm màu tư duy về cõi vô cùng. Phạm Phú Hải, một người làm thơ lặng lẽ ở Đà Nẵng, không gửi in báo nào ghi lại cảm thức ấy như sau:

Chùa Phổ Đà Nẵng
Lạnh mùa thu ở trong núi đá
Có con cá nhỏ chết bên cầu
Có con chim nhỏ vì vui qúa
Cũng chết bên cầu ấy bữa xưa

Có gã thư sinh lên núi đá
Hỏi thăm đường đến chốn bất lai
Trăng khuya úp mở sa ngàn lá
Bướm đã đàn đàn chấp chới bay

Có lão tiều phu trong núi đá
Mười năm say hương quế quên về
Lều dựng gió đẩy rung mái gió
Một bầu cổ nguyệt chảy tràn khuya

Trăng khuyết xuôi, trăng tròn, trăng khuyết ngược
Bứt tháng, hái ngày, phơi khô năm
Năm khô, rau mới đùn rau cũ
Sợi sợi án ngời vô lượng quang

Xuất định bốn bề sương giọt giọt
Con chim xưa sống lại bên cầu
Tiều lão mặt trời vai tịch tịch
Mặt trời rơi xuống giữa dòng sâu

Chẳng đến đâu, chẳng từ đâu đến
Con chim ngày cũ hót inh rừng
Một cầu lặng ngắm hai dòng nước
Một chảy xuôi đông, một ngược nguồn

Không ở đâu, không đâu chẳng ở
Cá hồi dương lội ngược chiêm bao
Cầu gãy hai bờ xương tương ngộ
Trùng phùng từ hội đất chiêm bao

Mùa thu núi đá lạnh vô cùng

(Bản thảo gửi VCHC, 1972)

Nhiều nhà phê bình lúc này gán ghép những nguồn thơ mang dấu vết “suy tư” nói trên vào dòng thơ Thiền. Có thể ảnh hưởng của triết học Phật giáo lúc này lan tỏa rộng. Nhiều người lại nói rằng “thơ Thiền”, trong cách biểu hiện, phải gần với một “công án”, nên cho rằng đó là dòng thơ “tâm linh”. Thực ra, để thành thơ, thì nó phải mang hoặc xuất phát từ cõi tâm linh-trừ những “nhà dùng thơ” dùng văn vần vào mục tiêu “phục vụ” hay rao giảng. Nhìn rộng ra, trong VHMN từ những năm 1950 đã có nhiều người đi theo khuynh hướng. này. Như Thạch Trung Giả, nhà nghiên cứu và là một thầy giáo nổi tiếng ở Nha Trang qua bài “Đàn Sao Lạp”:

Đàn rơi tiếng trầm
Sao rớt từng không
Sao không còn tăm
Đàn dư tiếng dội
Gieo trong lòng đàn
Sao trên Đại Hoàn
Đàn trong U Để
Lạp kia se sẽ
Hồng rung ngập ngừng

Phải chăng cẩm âm
Vào trong tiếng lạp.

Giữa bất an của đời sống hiện thực, dòng thơ tâm linh giúp con người nhận ra thế giới vi diệu và kỳ diệu, đáng sống hơn. Những dòng thơ khác, nếu thực là thơ, sẽ tác động đến tâm hồn ra sao ?

(Còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét