Thứ Sáu, 3 tháng 8, 2007

VỊ TƯỚNG THIÊN TÀI VÀ BÌNH DỊ

Ngôi nhà của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp ở làng An Xá ( Quảng Bình) .Ảnh NT Thịnh
Hôm nay 25.8, kỷ niệm 100 năm ngày sinh của nhà quân sự thiên tài, vị Tổng tư lệnh, người anh cả của LLVTND, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thanh Niên khởi đăng loạt bài với những tư liệu chưa hẳn ai cũng đã biết, nói về một khía cạnh khác của một con người đã khiến cả thế giới ngưỡng mộ.
"Đầu can võ tướng sa binh..."
"Khi tôi còn là hạt bụi, Người đã lên tàu đi xa..." là ca từ trong một ca khúc rất ấn tượng viết về Bác Hồ. Bác Hồ lên tàu Latouche - Tréville tìm đường cứu nước vào năm 1911. Năm ấy, ở làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, bên hữu ngạn Kiến Giang có một hạt bụi lớn thành mầm, mầm đội đất trồi lên: cậu bé tuổi Tân Hợi ra đời ngày 25.8, để tuổi hai mươi thành học trò của Bác, tuổi tam thập chỉ huy một đội quân du kích vỏn vẹn hơn ba chục nhân mạng, tuổi tứ thập làm rung chuyển thế giới bằng một trận đánh ngang ngửa 56 ngày đêm với đội quân viễn chinh nhà nghề, thiện chiến và... thắng tuyệt đối, tuổi lục thập đuổi được một đội quân hùng mạnh của một quốc gia giàu mạnh nhất thế giới ra khỏi đất nước, giành lại toàn vẹn non sông...
Có vẻ như mỗi bước chinh chiến của vị tướng tổng tư lệnh thế kỷ 20 đã được nhà lý số nổi tiếng thế kỷ 16 Trình Tuyền Hầu Nguyễn Bỉnh Khiêm định liệu tiên đoán cả. Nhưng chuyện đó để sau hẵng kể. Còn bây giờ, ta trở lại An Xá bên hữu ngạn Kiến Giang, nơi ông chào đời.
Đất hai huyện Lệ Thủy - Quảng Ninh (có thời nhập lại thành Lệ Ninh) và sông Kiến Giang chảy qua là như vầy: Mỗi huyện là một nhát cắt như một lát bánh đòn (bánh tét) của đất nước. Nghĩa là, cấp huyện mà có biên giới quốc gia với nước bạn Lào ở phía tây và hải phận ở phía đông. Dãy Trường Sơn chạy dọc phía tây có đỉnh Đâu Mâu thanh như ngọn bút. Sông Kiến Giang chảy về xuôi cuộn lại thành phá Hạc Hải (biển cạn) mênh mông vạn khoảnh ví như cái nghiên mực. Ven biển là bãi cát Đại Trường Sa lấp lóa trắng. Chiều hè muộn, mặt trời gác núi, bóng ngọn Đâu Mâu đổ xuống như ngọn bút chấm vào nghiên mực Hạc Hải viết lên trang giấy Trường Sa. Vậy mới có danh ngôn: Mâu Sơn vi bút/Hạc Hải vi nghiên/Trường Sa vi bản. Sông Kiến Giang gồm hai nhánh nhỏ phát nguyên từ núi Quan Độ chảy hướng tây bắc - đông nam, nơi hợp thủy gặp núi, cuộn lại thành vực An Sinh, lại chảy theo hướng nam bắc, xuống Tiểu Phúc Lộc lại chia hai nhánh ôm ấp vùng châu thổ tả - hữu, qua khỏi phá Hạc Hải còn nghển cổ lại như một khóa son sản sinh 5 nhạc sĩ tài hoa họ Dương làng Quảng Xá, rồi nhập với dòng Long Đại thành sông lớn Nhật Lệ đổ ra biển.
Địa linh sinh nhân kiệt. Tương truyền, gần hai ngàn năm trước, thuật sĩ Cao Biền đã yểm huyệt An Sinh (?!). Dấu tích nay vẫn còn. Thế kỷ 16, quan quân đào hói (kênh) nhà Mạc chặn long mạch đứt dòng quận công ở Đại Phúc Lộc. Cuối thế kỷ 13, quận công Hoàng Hối Khanh vào lập huyện Nha Nghi (tức Lệ Thủy ngày nay). Giữa thế kỷ 16, tiến sĩ Dương Văn An người làng Tuy Lộc (liền mạch đất với An Xá) về chịu tang mẹ, nhuận sắc và tập thành Ô Châu Cận Lục, quyển sách phong thổ địa chí đầu tiên của Thuận Hóa (Bình Trị Thiên). Đầu thế kỷ 17 (1609) quan tham chiến Triều Văn Hầu (Nguyễn Triều Văn) vào nhập cư đất Phong Lộc mang theo con trai Nguyễn Hữu Dật mới 6 tuổi, sau phò chúa Nguyễn được coi như Gia Cát Khổng Minh, được phong tới Tĩnh Quốc Công. Năm 1650, quý tử của Tĩnh Quốc Công là Nguyễn Hữu Kính ra đời mỹ danh là Nguyễn Hữu Cảnh, để tới tuổi tứ thập (1692) thành vị chưởng cơ tài năng xuất chúng, trong 8 năm (1692-1700) định vị hình hài đất nước, hoàn thành công cuộc tiến xuống phương Nam bắt đầu từ Lý Thường Kiệt (1069) kéo dài suốt 631 năm.
Bên trong ngôi nhà của Đại tướng ở làng An Xá - ảnh: N.T.ThịnhNăm 1628, Đào Duy Từ đến Quảng Bình cùng với Nguyễn Hữu Dật xây dựng hệ thống Lũy Thầy trên đất hai huyện chống nhau với quân Trịnh. Thế kỷ 19, tả hữu Kiến Giang vinh danh các dòng họ Võ Xuân, Nguyễn Đăng, nguyên lão ba triều. Các vị thượng thư Nguyễn Hữu Bài, Võ Trọng Bình, Huỳnh Côn. Thống đốc quân vụ đại thần Hoàng Kế Viêm, "tác giả kịch bản đồng thời là đạo diễn" hai trận chiến Cầu Giấy (Hà Nội) rạng danh chính sử đánh Tây. Phong trào Cần Vương lan rộng xuất hiện một loạt võ quan kháng chiến đánh Pháp: lãnh binh Mai Lượng, đề đốc Lê Trực, Hải long vương Bạch Xỉ, tướng Hoàng Phúc, Nguyễn Phạm Tuân... rồi lắng lại một vị tiến sĩ nho học cuối cùng của kỳ thi cuối cùng: Võ Khắc Triển đăng khoa năm 1919. Năm ấy Võ Nguyên Giáp 8 tuổi, 6 năm sau vào học Quốc Học, lại ra Hà Nội dạy học, làm báo, làm cách mạng, chuyển qua làm quân sự ở tuổi 33, không qua một trường quân sự chính quy nào, "chuyên tu tại chức" hình như cũng không. Nhưng ông có 3 người thầy là những sư phụ đáng kính: lịch sử, nhân dân và Hồ Chí Minh.
Lại nói, sông Kiến Giang về đến Tiểu Phúc Lộc (Thượng Phong) thì quẫy đạp uốn lượn liên tiếp tạo ra bên bồi bên lở. Bên lở lở mãi không có dân cư, bên bồi bồi thêm xóm làng trù phú. Khúc sông Kiến Giang chảy qua làng ông - làng tôi, lạ thay các bên lở đều mang địa danh gốc Chàm. Quãng bờ sông Đờng Đờng lở, đến bến sông nhà ông thì bồi sa mạnh. Bên làng tôi vùng lở có tên là Thùi (nghĩa Chàm là cái quán lợp lá). Cuối làng là phá Hạc Hải. Chợ Thùi ăn sản phẩm Hạc Hải. Có thể bởi vậy mà những năm gần đây, khi đã yếu, ông vẫn nhiều lần yêu cầu tỉnh nhà xử lý đập Mỹ Trung cứu lấy Hạc Hải. Vậy mà thực ra thì ông chỉ gắn bó với Hạc Hải trong tuổi thiếu niên. 14 tuổi ông đã vào học Quốc Học, học giỏi có tiếng, được học bổng của Pháp. 70 năm sau có người còn khơi ra chuyện này để làm khổ ông. Năm 1944, khi ông đội mũ phớt, đeo súng côn chỉ huy đội quân 34 người tôi vẫn chưa phải là hạt bụi.
"Đầu can võ tướng sa binh..." sấm Trạng Trình phán khá rõ. Chữ Giáp đứng đầu 10 can, năm 1954 (Giáp Ngọ) cũng đầu can, ông thắng trận, nhưng phải tới bốn năm sau tôi mới cảm nhận được tiết tấu Giải phóng Điện Biên, điệu múa sạp mà các chiến sĩ mang về từ Tây Bắc và cái tên Võ Nguyên Giáp vang lên như một tiếng kèn gọi quân. Giai điệu giải phóng Điện Biên phổ biến nhanh và quen thuộc.