Thứ Hai, 31 tháng 1, 2011

NHÀ THƠ NGUYỄN TÔN NHAN ĐÃ RA ĐI...


19 giờ ngày 28 tháng Chạp (31.01.2011)
Nhà thơ Nguyễn Tôn Nhan đã rong chơi cõi khác.
Xin chia buồn cùng chị Quỳnh Hương và các cháu

nguyễn miên thảo - cao huy khanh - từ hoài tấn - hoàng lộc - viêm tịnh -
triệu từ truyền - từ kế tương - phù hư - mang viên long -
dương đình hùng - phạm tấn hầu - nguyễn văn trai
vũ trọng quang - bùi chí vinh - võ chân cửu - đức phổ

phan binh - đinh công bảy - văn viết lộc
hồng nga - lưu hồng cúc
oOo
THƠ NGUYỄN TÔN NHAN
XUÂN BAN ĐẦU
bài thơ xuân nào run lẩ bẩy
bến tầm dương say vấy hồn trinh
em ơi khờ dại một mình
và xa dội một tiếng kình gõ mau
o
bài thơ xuân quên mất nhau
khờ em đâu nhớ những màu tơ xưa
ồ thơ đưa đẩy đã bưa
sóng xô đời đã kịp vừa biệt tăm
o
biệt cả tăm lẫn tằm
say đằm vai mỏng mảnh
mưa sài gòn sủi tăm
anh lang thang vô ảnh
o
trời ơi nước sóng sánh
trời đất vào mùa đầu
hay mùa cuối hòa nhau
mắt đỏ màu máu thốn
o
hai với hai là bốn
sương muối xuống ào ào
bài thơ nào lẩy bẩy
xa xôi còn muốn chao
o
cái xuân xoang chẳng cuối đầu
như anh chưa hiểu hết màu ái ân
o
cứ lên gân lên gân tới nữa
đến thân tàn nhụy rữa mới thôi
o
đất trời ôi ôi ôi ôi
sài gòn nát cả mùi hôi ban đầu
Sài Gòn,Giêng 2011
o
Bài thơ cuối cùng của nhà thơ Nguyễn Tôn Nhan
đăng trên Tuần báo Khởi Hành số Xuân Tân Mão
2011 ở hải ngoại

Chủ Nhật, 30 tháng 1, 2011

BÍ ẨN TRẦM HƯƠNG - HOÀNG HẢI VÂN

Giải mã bí ẩn trầm hương (ky 1)
Ông Nguyễn Phúc Ưng Viên

Trên thế giới, giá bán cao nhất 1 kg trầm hương có thể lên tới 160 triệu đồng, còn giá 1 kg kỳ nam thì lên đến mức hoang tưởng: 7 tỉ đồng.Sự kỳ dị đó của giá cả, cộng với sự thiếu trách nhiệm trong quản lý tài nguyên thiên nhiên đã khiến cho trầm hương vốn không bao giờ thiếu trên rừng núi chúng ta suốt hơn 4.000 năm qua, đã gần như bị tuyệt chủng chỉ trong vòng 35 năm.

So với giá cả trên mây xanh thì những tri thức về trầm hương vẫn còn dưới mặt đất. Người ta biết quá ít về nó. Tri thức về trầm hương nghèo nàn đến mức sách vở chỉ trích qua trích lại 2 tài liệu, xưa nhất là của Lê Quý Đôn (Phủ biên tạp lục), gần nhất là của Đỗ Tất Lợi. Còn tài liệu khoa học trên thế giới thì chủ yếu nói về đặc tính của cây dó, liệt kê các hoạt chất và một số dược lý của trầm, chưa ai nói được cặn kẽ trầm được hình thành như thế nào, có những giá trị độc đáo gì mà giá của nó mắc đến như vậy. “Trong đau thương dó biến thành trầm”, tôi từng đọc ở đâu đó câu thơ này, nó khiến ta suy tư về lẽ sinh tồn của đời người. Trầm đã hình thành đúng như thế. Khi nào thân cây dó bị một vết thương (do va đập, do bị côn trùng đục, bị bom đạn...), xung quanh vết thương đó lâu ngày biến thành trầm. Vì hiểu được “nguyên lý” này nên ngày nay người ta có thể làm trầm “nhân tạo”, tức là trồng cây dó rồi tạo ra vết thương, cấy hóa chất vào để gây tác động cho ra trầm. Đến nay, nhiều người đã trồng dó và đã lấy được trầm theo phương pháp trên, tuy trầm nhân tạo có mùi thơm của trầm nhưng giá trị như thế nào thì vẫn còn mù mờ.Thực ra, tôi không quan tâm mấy đến trầm hương, ngoài sự liên tưởng về cái “đau thương” nói trên. Cho đến khi tôi gặp được một kỳ nhân dụng trầm tôi mới hiểu sự “đau thương” đó có quá nhiều bí ẩn.Đó là ông Nguyễn Phúc Ưng Viên. Là cháu nội hoàng tử thứ 12 con vua Minh Mệnh, ông Ưng Viên gọi vua Minh Mệnh bằng ông cố. Theo “đế hệ thi” của vua Minh Mệnh thì hàng “Ưng” ngang với vua Hàm Nghi và là hàng ông nội của vua Bảo Đại. Hàng “Ưng” nay chỉ còn vỏn vẹn 3 vị: ông Ưng Linh hiện ở Đà Nẵng gần 90 tuổi, ông Ưng Ân ở Huế gần 80, ông Ưng Viên trẻ nhất, mới xấp xỉ 70. Giải thích về thứ bậc và tuổi tác của mình trong dòng họ, ông bảo: “Tôi thuộc dòng thứ”.Ông Ưng Viên sống ở TP.HCM như một ẩn sĩ âm thầm chữa bệnh cứu người. Từng có thời gian tiếp cận khá sâu vào ngành y của người Mỹ, nhưng ông không theo nghề bác sĩ mà chuyên tâm ứng dụng thuốc nam - xin lưu ý là thuốc nam chứ không phải thuốc bắc. Cả nhà ông không bao giờ sử dụng thuốc tây, kể cả đối với những vật nuôi như con heo con gà. Ông bảo dân tộc Việt từ một nhóm nhỏ mấy ngàn người, đã dựa vào thiên nhiên mà sống, mà sinh sôi phát triển mà mở rộng bờ cõi, đến nay đã lên tới hơn 80 triệu người, dân tộc đó ắt phải biết cách phòng và chữa bệnh bằng chính những gì mình có. Thuốc tây mới du nhập vào khoảng 150 năm nay thôi. Thế giới có biết bao nhiêu là trận dịch chết người hàng loạt, còn trong suốt chiều dài lịch sử của mình, Việt Nam có một trận dịch nào khiến nhiều người chết không? Chết hàng loạt vì đói thì có, còn chết hàng loạt vì dịch thì không.Cây trầm ở độ cao 1.500m trong dãy Yang Sin (Buôn Ma Thuột) trên 100 năm tuổi, mật độ nhiễm trầm 80% được ông Ưng Viên tạc thành tượng Phật. Tượng cao 2,82m, chu vi đế 3mÔng cũng không coi trọng thuốc bắc bằng thuốc nam. Ông bảo từ ngàn năm trước người Việt hằng năm phải cống nạp các thầy thuốc giỏi cho Trung Quốc. “Dòng họ tôi, chỉ riêng thời nhà Đinh đã phải cống nạp đến 18 thầy thuốc giỏi sang Tàu”, ông nói.La sơn phu tử Nguyễn Thiếp đã từng nhắc vua Quang Trung rằng nước Nam ta sẽ còn phụ thuộc vào Trung Quốc chừng nào vẫn còn phụ thuộc vào thuốc bắc.Tổ chức Y tế thế giới ngày nay cũng khuyến nghị loài người nên áp dụng những thức ăn - dược liệu hữu ích của các dân tộc có lịch sử lâu đời để chăm sóc sức khỏe. Việc sử dụng tảo Spirulina từ châu Phi cho cả thế giới là một minh chứng.Tôi phải giới thiệu sơ qua một chút “lý lịch” của ông Ưng Viên, không phải để nhấn mạnh cái gốc hoàng tộc của con người này, mà vì nó liên quan đến tư cách “dụng trầm” và y thuật của ôngCây trầm ở độ cao 1.500m trong dãy Yang Sin (Buôn Ma Thuột) trên 100 năm tuổi, mật độ nhiễm trầm 80% được ông Ưng Viên tạc thành tượng Phật. Tượng cao 2,82m, chu vi đế 3m
Mọi người đều biết, Lê Quý Đôn ở Đàng Ngoài, mà trầm thì xuất từ Trung Bộ, nên dù là một nhà bác học nhưng Lê Quý Đôn chỉ có thể khảo sát qua tư liệu cổ và hỏi thêm một số người khai thác trầm để viết sách, ông không thể có cơ hội trải nghiệm với trầm. Còn nhà Nguyễn, chính là gia tộc dụng trầm số 1, tính từ Nguyễn Hoàng (Chúa Tiên) trở đi.Có những cuộc tương ngộ làm nên lịch sử. Riêng cuộc tương ngộ giữa Nguyễn Hoàng và Nguyễn Bỉnh Khiêm thì làm nên một cuộc xoay trời chuyển đất. Đọc sử sách ta chỉ biết đến lời khuyên nổi tiếng “Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung thân” mà Nguyễn Bỉnh Khiêm nói với Nguyễn Hoàng, nghe lời khuyên đó mà họ Nguyễn được bảo toàn để cho Việt Nam có thêm một nửa giang sơn gấm vóc. Nhưng không lẽ Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ giúp cho Chúa Tiên một lời khuyên thôi sao? Sử sách không ghi thêm điều gì nữa. Sử sách cũng chỉ cho biết Nguyễn Bỉnh Khiêm là ông Trạng Trình tinh thông dịch số, là nhà nho yêu nước thương dân, là một ẩn sĩ “thu ăn măng trúc đông ăn giá”, là một nhà tiên tri. Chỉ là nhà tiên tri sao có thể khiến được cả ba nhà Mạc, Trịnh, Nguyễn đều đến xin tham vấn trong những thời điểm ngặt nghèo? Nhà tiên tri, dù nổi tiếng đến đâu cũng chỉ có thể thuyết phục được người thường, đâu có thể khiến nổi các bậc đế vương đem sự nghiệp tiền đồ của mình mà gửi gắm. Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn còn là sự bí ẩn của lịch sử.Cho đến một buổi trưa ông Ưng Viên đãi tôi ăn món thịt dê do chính ông nấu. Tôi chưa bao giờ được ăn món thịt dê ngon như vậy. Nó ngon dĩ nhiên là do sự thiện nghệ của người nấu, nhưng nó còn ngon hơn vì câu chuyện được nghe. Ông Ưng Viên nói một trong những thứ mà Chúa Tiên mang vào Nam là những đàn dê, việc này do chính Nguyễn Bỉnh Khiêm đề nghị. Dê là con vật độc đáo, không những có giá trị y thực phục vụ sức khỏe cho dân chúng, mà còn rất tiện ích cho hậu cần quân sự. Dê dễ nuôi, có thể dẫn các đàn dê theo quân, khi có chiến sự chúng ở đâu nằm im ở đó không chạy nhặng xị như trâu bò gà vịt, lại dễ phân phối trong quân, một con dê có thể phục vụ gọn bữa ăn cho một “tiểu đội”. Cha ông của ông Ưng Viên dặn dò con cháu ngoài việc nhớ ơn và thờ phụng tổ tiên mình, còn phải nhớ ơn và thờ phụng Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bởi Nguyễn Bỉnh Khiêm là người đề xuất với Chúa Nguyễn từ chiến lược chiến thuật, từ chuyện quân cơ, hậu cần cho đến những chuyện cụ thể liên quan đến bảo vệ sức khỏe cho quân dân như món ăn, bài thuốc để làm hành trang Nam tiến. Trong đó có chuyện “dụng trầm”.Nhà Nguyễn để lại nhiều di sản, có thứ để lại cho lịch sử, có thứ chỉ để lại cho con cháu. Những ai nói công thức rượu Minh Mệnh đã bị thất truyền là nhầm to. Hoàng tử Vĩnh Giu con vua Thành Thái, thuộc hàng cháu nội ông Ưng Viên, lúc khốn khó đã bỏ rượu cho các nhà hàng để sinh sống, đó là rượu Minh Mệnh chính hiệu. Ông Ưng Viên cho hay ông Vĩnh Giu có giữ bí quyết làm men nhưng không biết làm rượu, chính ông đã làm rượu giúp cho ông Vĩnh Giu. Rượu cung đình nhà Nguyễn có tới 175 dòng men, hơn 3.000 loại rượu. Ông Vĩnh Giu lưu giữ được 30% dòng men, ông Ưng Viên giữ được 70%. Chỉ riêng hai ông gộp lại cũng đã đủ 175 dòng, không có dòng men nào thất truyền cả, chỉ có điều là chúng không được truyền ra ngoài.Còn việc dụng trầm thì kế thừa tri thức của tiền nhân do Nguyễn Bỉnh Khiêm truyền lại, nhà Nguyễn đã có gần 400 năm ứng dụng trầm hương trong y học và đời sống, kể cả phục vụ quốc phòng, rồi hoàn thiện pho y lý về trầm hương, đồng thời có chính sách hữu hiệu bảo vệ triệt để nguồn tài nguyên trân quý ấy. Ông Ưng Viên kế thừa đủ di sản dụng trầm của dòng họ, do ông nội ông truyền lại, những bí quyết đó cũng không truyền ra ngoài. (còn tiếp)HHV (TNO)

Thứ Bảy, 29 tháng 1, 2011

THƠ GỬI NGƯỜI ĐỒNG HƯƠNG - TRẦN DZẠ LỮ

Tặng Một người…
O thông minh, đĩnh ngộ qúa trời
Người như rứa làm răng tui dám chat?
O là vàng mà tui là đồng nát
Mình đồng hương mà khác khói O ơi!
Dẫu biết rằng hai kẻ cùng trôi
O trôi xuôi còn tui thì trôi ngược
Xa xứ lâu rồi mần răng nói được
Tội chưa tề ! Những đứa lìa quê…
Có đôi khi tui cũng thèm về
Để ngó chộ lại mùa trăng của Huế
Ở Bao Vinh O thả mái tóc thề
Tận Nam Phổ cũng nghe mùi hương ngai ngái.!
O giấu buồn thuở còn con gái
Cho đến chừ-đố ai biết ra răng?
Miệng O cười lúng liếng cả mùa xuân
Mắt O liếc đến ngả nghiêng phố núi…
Vì cớ chi tui đi lui đi tới
Để tìm O , O còn ở bên tê
Tình bên ni dù cách vạn sơn khê
Tui cũng gửi qua mail, qua chat…
O không chat, một mình tui cũng chat
Chat cho đời-bớt-khổ O ơi
Bao nhiêu năm HÁT DẠO BÊN TRỜI
Chừ hát nữa có răng mô O hí?
Trần Dzạ Lữ
( SàiGòn tháng giêng năm 2011 )

Thứ Sáu, 28 tháng 1, 2011

CỔ TÍCH ĐÊM - HOÀNG THỊ THIỀU ANH


Ðêm!
Em từ cổ tích buớc ra
Mượt mà tà áo lụa
Vần vũ
Điệu múa cung bi sầu
mềm rũ
Khúc tình ca
Phôi thai từ miền quan ải
Yêu thương
Ðêm!
Ngỡ ngàng ðến bên tôi
Ðôi bàn tay gầy
Mơn man gương mặt tôi
đầy hờn dỗi
Nụ hôn
Em!
Êm ðềm luớt qua môi
Oằn mình trong tiếng nấc
Ðêm!
Dỗi dằn trăng 16
Buông mành
máu lệ
Duới lòng sâu mộ địa
Em thét gào những khát nhớ ðê mê
Bầu trời úa màu tang chế
Lễ phục ngày không anh
Tôi và em...
Trãng và ðêm...
Là thế!
Mộng mị một đời chẳng phải của nhau.


HTTA

Thứ Năm, 27 tháng 1, 2011

CAO HUY KHANH - VIỆT NAM HỒ SƠ HẬU CHIẾN 1975 - 2011 (KỲ 56)


NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ

561 - Kim Ngọc
“NỮ QUÁI” HÀI CHẾT KHÔNG NHẮM MẮT
Nữ diễn viên sân khấu sinh 1945 tại Sài Gòn – Mất 2011 tại TPHCM (67 tuổi).
Trước 75 là cô đào cải lương có giọng ca trong vắt thánh thót từng được tặng danh hiệu “Nữ quái kiệt” đoạt giải cải luơng miền Nam, chỉ có điều thể hình thấp nên sau đó có xu hướng chuyển qua đóng vai hài.
Sau 75 chồng cũ cũng là nghệ sĩ chia tay mang theo đứa con trai 9 tuổi vượt biên qua Pháp, còn lại con gái đầu ở với mẹ. Sau thời gian bỏ qua nghề khác lao động chân tay bươn chải lo nuôi con được gọi trở lại sân khấu bấy giờ chuyên diễn vai hài trên truyền hình lẫn sân khấu chạy sô ăn khách qua nhân vật được khán giả bình dân hâm mộ “Bà Tư xả láng”.
Lấy chồng khác cũng là đồng nghiệp (thêm một con trai nay cũng đóng phim truyền hình) nhưng lòng vẫn thương nhớ đứa con lạc mẹ từ nhỏ. Nhân một chuyến lưu diễn Pháp đã gặp được con lần duy nhất, con giờ đã trưởng thành cũng theo nghiệp dĩ hành nghề diễn viên xiếc lưu động, lấy vợ Thụy Sĩ có một cháu gái.
Đầu năm 2011 đi diễn ở Đồng Nai đứng trên sân khấu vừa xuống giọng bản vọng cổ thì đột quỵ (huyết áp) ngay trên sân khấu, đưa đến bệnh viện không cứu kịp.
Sinh thời chuyên đem tiếng cười đến mua vui cho mọi người mọi nhà vậy mà khi đem thi thể về nhà làm lễ khâm liệm, mắt vẫn mở không ai vuốt cho khép mắt lại được như thể còn nuối gặp đứa con trai xa cách về gặp mặt lần cuối cùng. Người con gái phải lấy điện thoại gọi qua Pháp không gặp em trai đang đi diễn xa, người chồng cũ phải gọi điện thay – để con gái đưa máy sát tai mẹ nằm trong quan tài nghe - hứa con trai sẽ về (chưa bao giờ về), lúc ấy mẹ mới an tâm khép mắt!
Điều trùng hợp kiếp sống nghệ sĩ tha phương khi năm 1970 cha mất mà mình đang bận tập tuồng nơi xa cũng không về kịp vuốt mắt cho cha.

562 - Lê Văn Ở
NGƯỜI “MỘT MẮT”
Ngươì khuyết tật sinh 1992 tại Kiên Giang. Sống ở TPHCM (2011).
Từ khi sinh ra bị nhiễm CĐDC từ đời cha mẹ nên đã mang thân phận người một mắt – “một mắt” đúng nghĩa đen vì chỉ một bên mặt có con mắt còn nửa mặt kia toàn kéo da kín mít không chừa một lỗ nào cho mắt lòi ra cả. Nhưng oái oăm đau xót thay là con mắt duy nhất hiệân hình ra trên khuôn mặt đó cũng lại… mù luôn!
Lớn lên được đưa vào học trường mù Nguyễn Đình Chiểu ở TPHCM, được phát hiện có năng khiếu âm nhạc nên học giỏi các loại đàn từ organ đến guitar phím lõm.
Nhờ vậy sau khi ra trường được thu nhận vào Cơ sở khuyết tật An Phú trong cùng TPHCM gia nhập đội “Văn nghệ Da cam” gồm toàn các thành viên người khuyết tật chịu di chứng CĐDC đi biểu diễn ca nhạc khắp nơi góp thêm lời ca điệu đàn cho cuộc đời vơi đi nỗi buồn bất hạnh: “Tiếng đàn đem lại cho tôi ánh sáng cuộc đời.”
Không chỉ thế, còn tin tưởng nó còn đem lại ánh sáng cuộc đời cho cả những người sáng mắt lành lặn như một nạn nhân ma túy từng được thức tỉnh từ tiếng đàn đó.
Đã vậy, còn chắt chiu từng đồng tiền thu nhập chia được để thỉnh thoảng còn gửi về quê giúp đỡ đần cha mẹ nuôi các em: “Dù là chẳng bao nhiêu nhưng nó chứng minh chúng tôi có thể tự nuôi sống bản thân và giúp đỡ ngươì khác”.

563 - Nguyễn Văn Nức
LÀM THƠ TÌM CON MẤT TÍCH
Bộ đội xuất ngũ sinh khoảng 1950 tại Hà Tây. Sống ở Hà Nội (2009).
Vào bộ đội đánh Mỹ trên chiến trường miền Trung, có năng khiếu và đam mê thi ca nên vừa chiến đấu vừa làm thơ đăng báo lai rai.
Sau trận chiến Thành cổ Quảng Trị 1972 do bị thương từ sức ép bom nổ gần nên được cho ra quân về làm công nhân nhà máy quân đội ở Hà Nội rồi chuyển qua làm bảo vệ cơ quan. Lấy vợ sinh được 5 con. Lo công ăn việc làm nuôi con vất vả có thì giờ rảnh rỗi đâu nên bỏ luôn niềm vui làm thơ thời trai trẻ sáng tác văn hoa.
Năm 1995 con gái út vô tình bị bọn buôn người dụ dỗ uống nước pha thuốc thuốc mê bắt cóc ngay tại Hà Nội. Cả nhà đổ ra đì tìm đều vô ích.
Thì ra cô con gái bị mang qua Trung Quốc bắt ép lấy chồng bản xứ tận trong vùng rừng núi hoang vu thuộc tỉnh Quảng Tây. Bị cách ly hẳn với gốc gác cũ mà tuổi đời lại còn non nớt không nhớ được gì bao nhiêu, không biết cách đối phó ra sao.
Vô vọng tìm con không biết xoay xở thế nào, người cha mới nảy ra ý đăng báo tìm con nhưng phải bằng cách thế nào vừa đăng được lâu vừa đỡ tốn tiền phải trả cho loại tin thuộc dạng “quảng cáo” này – đó chính là… thơ! Thế là bắt tay vào làm thơ trở lại chuyên về đề tài thương nhớ con qua đó đưa thông tin tìm con bị mất tích vào bài.
Cứ thế làm hàng trăm bài gửûi đủ báo, có báo đăng có báo không, đăng đẳng 13 năm trời vẫn không thấy tăm hơi tin tức gì hồi âm. Tuy vậy vẫn không bỏ cuộc, còn sống còn làm thơ vì con.
Ai ngờ vậy mà phép lạ cuối cùng cũng xảy ra: Người con gái bấy giờ đã có 3 con với người chồng Trung Quốc xem như hoàn toàn hoà nhập vào gia đình chồng khiến cũng dần quên hết quê hương, gia đìønh cũ. Đã lâu thấy cô biết an phận không còn ý định bỏ trốn nữa nên gia đình chồng cho phép ra ngoài thị trấn làm công nhân nhà máy. Và rồi trong một dịp mua hàng của một người đồng hương qua đây buôn bán, cô đã tình cờ đọc được mảnh giấy báo Việt dùng để gói hàng từ quê nhà mang qua trên đó có in bài thơ tìm con của bố! Mới giúp sực nhớ lại đầy đủ chi tiết quê quán gốc tích của mình.
Từ đó liền xin phép gia đình chồng mang 2 con về quê hương thăm bố mẹ rồi sau đó vẫn quay trở lại với cuộc sống mới của mình nơi đất khách quê người. Một cuộc sống ván đã đóng thuyền ngoài ý muốn phải chấp nhận chứ biết làm sao hơn, an ủi là may sao vẫn còn hơn biết bao đời người phụ nữ Việt bị bán qua biên giới làm kiếp tôi đòi nô lệ nhọc nhằn nhục nhã.
Phần ngươì cha thì nay càng tích cực làm thơ hơn nữa – đã làm được hơn 400 bài - để gọi là… cảm tạ thơ “sinh con cho tôi thêm một lần nữa”!

564 - Thanh Nga
NGHI ÁN VỀ MỘT VỤ ÁN CHÍNH TRỊ
Nữ nghệ sĩ sân khấu cải lương tên thật Nguyễn Thị Thanh Nga sinh 1942 tại Tây Ninh – Mất 1978 ở TPHCM (37 tuổi).
Trước 1975 là nữ diễn viên cải lương nổi tiếng ở miền Nam và sau 1975 cũng thế nhưng nổi tiếng một cách khác nhau qua 2 thời kỳ đứng trên sân khấu.
Trước 75 là hình tượng một người tình ngây thơ trong sáng nổi bật với vai sơn nữ Phà Ca và bài hát “Mưa rừng” trong những vở tuồng tình cảm lâm ly bi đát. Nhưng sau 75 bỗng nhiên “bùng nổ” với vai diễn Bà Trưng chống quân nhà Hán xâm lược trong vở “Tiếng trống Mê Linh”.
Tiếp liền đó là cái chết bi thảm cùng chồng bị bắn chết trên xe trong một vụ án được cho là nhằm bắt đứa con trai duy nhấùt của cô để tống tiền. Khi đó cô mới 37 tuổi tuổi đang ở đỉnh cao sự nghiệp chói lọi.
Đây là một trong số nghệ sĩ cựu trào được tôn vinh qua cả 2 chế độ, có thể vì đoàn Thanh Minh Thanh Nga của cô được xem là “thân Cộng” từng bị mật vụ chính quyền cũ theo dõi, có lẽ vì thế mà đến sau 75 lại từng bị phe “phản động” chống chế độ mới doạ đánh bom sân khấu. Cũng có thểâ đây là một nguyên nhân dẫn đến cái chết bất đắc kỳ tử tức tưởi oan khiên của cô: Một nguyên nhân có tính chất chính trị hoặc là do chủ trương “thân Cộng” của cô hoặc chủ trương “bài Hoa” từ vầng hào quang “Tiếng trống Mê Linh” trong thời điểm diễn ra cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979.
Ở đây có bóng dáng một “nhân vật hậu trường” đứng đàng sau đáng lưu ý là ông chồng của cô lúc đó (gốc Hà Nội, lấy từ trước 1975) được ghi nhận từng giữ chức vụ Đổng lý văn phòng (Chánh văn phòng bây giờ) Bộ Thông tin chế độ cũ! Một quan chức cao cấp “Ngụy” như vậy sao sau 75 vẫn bình chân như vại đóng vai trò đưa rước vợ đi diễn hàng đêm để cuối cùng bị rơi vào bẫy phục kích của bọn bắt cóc tống tiền?
Có nguồn tin từ trước 75 rằng ông này vốn là một cán bộ cộng sản chiêu hồi được chế độ cũ sử dụng hòng làm kế “gậy ông đập lưng ông” như trường hợp thượng tá Tám Hà của Việt Cộng ra đầu hàng năm 1968 sau được phong làm Thứ trưởng Bộ Chiêu hồi. Nhưng ông chồng Thanh Nga lại khác, không ngờ lại là “gián điệp hai mang” như Phạm Ngọc Thảo, Phạm Ngọc Ẩn, Huỳnh Văn Trọng !? Từ đó cô mới được đẩy lên đóng vai trò “nữ anh hùng dân tộc” chống quân xâm lược phương Bắc?
Có một trùøng hợp trùng hợp lạ lùng là một vụ có con bị bắt cóc đòi tiền chuộc tương tự trước đó không lâu cũng rơi vào nữ nghệ sĩ kịch nói Kim Cương vốn cũng đạt vinh quang qua 2 chế độ, cũng “thân Cộng” tới mức có lúc người ta đồn cô là… “trung tá Việt Cộng”! May mà con cô được thả ra sau khi đã nộp tiền chuộc.
Nên nhớ trước 75 những vụ như vậy khá hiếm hoi và sau 2 vụ Kim Cương, Thanh Nga cũng không thấy tái diễn nữa, tất cả có xảy ra và không còn xảy ra nữa không hiểu vì lý do gì?
Nhưng thời đó tất cả thông tin giải thích về 2 vụ án trên đều “độc quyền” từ phía công an và toà án trong đó cũng có phân tán ý kiến. Phía công an cho rằng chỉ thuần túy là một vụ bắt cóc tống tiền đơn giản (thậm chí còn không cho giải phẫu khám nghiệm tử thi như thủ tục thông thường lấy lý do “tôn trọng” thân xác một mỹ nhân thần tượng!) nhưng bên viện kiểm sát và toà án lại nghiêng về xu hướng đây là một âm mưu chính trị chống chế độ. Rốt cuộc toà án xử theo hướng đó tuy cuối cùng chỉ kết án một thủ phạm mà không truy tìm ra tông tích một tổ chức chống phá cách mạng nào. Riêng bản thân nạn nhân được công nhận “liệt sĩ”.
Từ đó “vụ án Thanh Nga” mãi mãi còn là một bí ẩn của lịch sử. Biến cô thành một nhân vật của thời Hậu chiến quá phức tạp rối rắm không chỉ ở trên sân khấu mà cả trong đời thường, trong phận người tài hoa bạc mệnh

565 - Thanh Tâm Tuyền
VÔ NGÔN
Nhà thơ tên thật Dzư Văn Tâm sinh 1936 tại Nghệ An (học ở Hà Nội) – Mất 2004 ở Mỹ (69 tuổi).
Nhà thơ kiêm nhà văn quân đội VNCH di cư vào miền Nam là thành viên sáng lập nhóm Sáng Tạo mở đường nền văn nghệ mới “thoát ly Tiền chiến” ở miền Nam sau 54. Được đánh giá là nhà thơ tiên phong trong phong trào thơ tự do không vần - còn gọi là “thơ xuôi” ảnh hưởng thơ tự do Pháp ở miền Nam sau 54 - qua tập thơ ấn tượng “Liên – Đêm mặt trời tìm thấy”. Và còn là một cây bút văn xuôi cô đọng, thâm trầm triết lý mà thơ mộng mang phong cách hiện đại với truyện vừa “Bếp lửa” từng được tặng giải chế độ cũ từ cuối thập niên 50.
Sau một thời gian dài hoạt động văn nghệ, làm báo văn hóa – chính trị ở Sài Gòn (ít làm thơ nữa) với ý hướng xây dựng nền văn nghệ mới tiến bộ cho một chế độ và xã hội “không cộng sản” ở miền Nam nhưng rốt cuộc cảm thấy lực bất tòng tâm không làm được gì không đi đến đâu nên xin chuyển lên Đà Lạt (dạy trường Võ bị) có lẽ để tập trung vào sáng tác.
Nhưng cũng vì thế mà sau 75 đi học tập cải tạo 7 năm ở miền Bắc vì cái “tội” giữ đúng lời hứa khi chọn ở lại: “Tôi là người làm thơ VN, tôi ở lại với xứ sở của tôi” (một trong ba nhà văn di cư hàng đầu – cùng Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu – vào thời điểm sắp Giải phóng từng tuyên bố không di tản).
Trong tù bắt đầu làm thơ lại vẫn với phong cách rất mới chọn chữ chắt lọc:
“… Tuột dốc té nhào trên hẻm núi
Chết điếng toàn thân trong giây lâu
Mưa rơi đều hạt mưa phơi phới
Ngày đang tàn hiu quạnh rừng sâu…”
(Ngã trên núi Việt Hồng ở Yên Báy khi đi vác nứa)
Hay:
“… Vẫn em của thủa trăng nào
Đêm hôm nở đóa chiêm bao xanh ngần
Vẫn em tình của trăm năm
Đoan trang khoé hạnh thâm trầm dáng thơ
Vẫn em mối kết thiên thu
Vẫn em xoa dịu sầu tư cõi này…”
(Thơ tình trong tù, 1980)
Năm 1982 cải tạo trở về còn viết bài “Prelude cho những chuyến đi, về”:
“Hắn rũ bỏ ký ức, và đi
Trong bóng tối ruỗng im quái gở
Lúc dứt lặn trận chiến man rợ
Hắn rũ bỏ ký ức, và đi
Trong rừng sâu thẳm cây trút lá
Ngọn gió mông muội thổi tràn trề
Bấy giờ hồi trằn trọc lịch sử
Lịm từng cơn ảm đạm ê chề
Sớm hay khuya không biết đâu nữa
Trời khắc tự hủy hoại vắng tanh
Dòng nước suối chảy không tiếng vang
Giữa bờ bến đắm chìm lấp lú
Những cơn trốt quặn thắt huyền bí
Xoay quanh sự thế vui trầm ngâm
Hắn đưa chân theo bước khôn cầm
Trên lối u mê mờ hoặc
Mọi nỗi niềm đều giấu mặt
Mọi sự thực đều lang thang
Hắn đi như thế, không thể khác.”
Và “đi như thế”… qua Mỹ năm 1990! Mai Thảo thì đã vượt biên qua Mỹ năm 1977, chỉ còn lại Dương Nghiễm Mậu vẫn ở lại Sài Gòn trung thành với lời thề không bỏ nước ra đi.
Nhưng trên xứ người lạ thay gần như không làm thơ nữa (mới qua có in một tập “Thơ ở đâu xa”õ). Và chấp nhận sống rút lui vào im lặng hoàn toàn rời xa các hoạt động văn học nghệ thuật – cả thế sự nữa -- từng gắn bó một thời ở Sài Gòn. Phải chăng vì làø một nghệ sĩ có tầm tri thức, có tư cách đứng đắn, thái độ sống chuẩn mực nghiêm túc, là người có quan điểm chính trị minh bạch khi ý thức rõ dòng chảy của lịch sử đã quá tầm với của mình nên tự nguyện là nhà văn “dám thừa nhận sự thất bại”. Một “người không bao giờ bôi vẽ, trá hình với ngòi bút” (Nguyễn Đạt).
Thêm vào đó là nỗi thất vọng về văn chương chữ nghĩa bất lực – trước thực tế, thời cuộc -- mà một thời mình từng mang ảo tưởng (vài dự định sáng tác không thành trong đó có truyện dài “Ung thư” còn dở dang): “Tôi thật không ngờ đã viết nổi một bức thư dài đến chừng này (khoảng 1.200 từ). Từ ngày sang đây tôi thật ngại cầm đến bút kể cả khi cần viết thư về nhà. Chữ đã đẻ ra chữ, nó đã đẻ ra được cơm gạo cho người ta qua cơn đói lòng nhưng nó cũng không đẻ ra những phù chú, pháp thuật nhằm “mà” mắt người hòng thủ lợi (ở đây cũng như ở kia). Người ta đã không thể “nhá” chữ mà sống thì người ta cũng không thể “nuốt chữ” để say sưa quên đời và chết một cách ngu xuẩn…” (Thư gửi học trò 1992).
Sống “rũ bỏ ký ức” như thế, được mô tả là “đóng cửa tránh tiếp khách” và thay vào đó đi học lấy bằng cử nhân điện toán để làm việc cho một ngành nghề không dính dáng gì đến công việc sáng tác hay hoạt động văn hóa tư tưởng như trước kia.
Thỉnh thoảng mới thấy le lói một ít thơ thôi đều rơi vào tâm trạng cô đơn bế tắt:
“Chiều chiều lững thững lên bãi tha ma
Trời thu la đà không mùi hương trời mùi cỏ ngái
Trong khoé mắt hoen ửng loé góc trời mùa hạ đang lụn
Những hàng bia lởm chởm sau lưng trên cỏ mượt ngả màu
Dưới chân đồi xóm nhỏ sau rừng cây dưa
Ngồi ngắm. Ngồi ngẫm
Gió mát đầu óc bay táng
Ngồi như trời trồng. Tự trồng cái bị thịt
Ngủ mở mắt thao láo không hay.”
(Ngồi – năm 2000)
Trước khi mất đã có dịp về lại thăm mẹ già, thăm quê hương dù sao cũng vẫn là quê hương từng không nguôi nỗi nhớ Hà Nội trong các tác phẩm trước đây. Đó cũng là lần về đầu tiên và cuối cùng, qua Mỹ lại mới biết mình mắc bệnh ung thư phổi.

566 - Thế Đính
BỊ NHẦM VỚI… LIỆT SĨ!
Nhà nhiếp ảnh sinh khoảng 1940 tại Hải Phòng. Sống ở Hải Phòng (2011).
Vào bộ đội được phân công làm phóng viên ảnh chiến trường bám sát mặt trận Quảng Trị, đường 9 Nam Lào, từ đó có tác phẩm “Trận đánh trên điểm cao 456” được in trên báo Quân đội Nhân dân năm 1971.
Sau 75 chuyển qua làm trong ngành du lịch chuyên chụp ảnh phong cảnh và người đẹp. Nhưng vẫn không quên được ám ảnh chiến tranh một thời nên đã bỏ thì giờ, công phu làm… họa sĩ vẽ tranh tập trung hoàn thành được bức tranh sơn dầu khổ lớn “Vượt Trường Sơn” mới thấy lòng thanh thản như đã trả xong món nợ cuộc đời.
Nhưng món nợ ấy vẫn chưa dứt khi năm 1999 phóng viên ảnh quốc tế nổi tiếng Tim Page người Mỹ từng có mặt trong chiến tranh VN tổ chức sưu tập in cuốn sách ảnh “Hồi niệm” nhằm tôn vinh tác phẩm của những nhà nhiếp ảnh cả VN lẫn Mỹ đã hy sinh trong cuộc chiến vừa qua và triển lãm số ảnh trong đó tại Hà Nội. Và trong đó lại có bức ảnh “Trận đánh trên đỉnh cao 456” sau đó được cả báo Mỹ giới thiệu trang trọng là tác phẩm của Thế Đính “liệt sĩ”!
Vậy là buộc đương sự phải lên tiếng thanh minh mình vẫn… còn sống đây!
Lúc đó truy ra đầu đuôi mới phát hiện có sự nhầm lẫn là thời chiến tranh có đến 2 Thế Đính cũng đều là bộ đội phóng viên ảnh chiến trường cùng đăng ảnh trên báo miền Bắc song không ai để ý (có khi còn bỏ sót tên tác giả). Nhưng Thế Đính kia vốn gốc dân miền Trung thì quả thật đã hy sinh rồi mà chưa ai quan tâm phân biệt số tác phẩm của 2 người, cái nào của người nào.
Dù vậy bản thân vẫn bùi ngùi nhắc nhở người đồng nghiệp cùng tên kỳ lạ kia, một trong vô vàn “phép lạ” trong chiến tranh: “Tôi phải mang ơn người đồng đội đã hy sinh trùng tên với tôi. Nếu không có anh ấy và sự nhầm lẫn thì bức ảnh trên vẫn còn nằm im trong kho tư liệu của riêng tôi…”

567 - Thế Uyên
“NHÀ TIÊN TRI BI THẢM”
Nhà văn tên thật Nguyễn Kim Dũng sinh 1935 tại Hà Nội. Sống ở Mỹ (2011).
“Con dòng cháu giống” văn chương (cháu cố nhà văn Nhất Linh), trước 75 dạy học và viết văn viết báo ở Sài Gòn rồi bị gọi đi lính.
Qua kinh nghiệm đi lính ấp ủ tham vọng bắt chước dân Do Thái lưu vong lập quốc Israel để xây dựng một chế độ xã hội công bằng độc lập tự chủ không theo chế độ Thiệu – Kỳ mà cũng không theo chế độ cộng sản miền Bắc. Từ đó lập nhóm “Thái độ” cùng chí hướng ra tạp chí quảng bá quan điểm này.
Nhưng trong không khí thời cuộc miền Nam hỗn loạn liên tục nhiều cơn sốt chính trị thành thị vừa chống Cộng vừa chống Mỹ chống Thiệu Kỳ trong khi nông thôn vẫn chiến tranh vẫn tiếp diễn dữ dội, chủ trương đó nhanh chóng rơi vào lạc lõng. Thế là thêm một “ảo tưởng” sụp đổ đi đến tự mình quyết định… giải tán tất cả!
Đồng thời từ đó đã lên tiếng công khai tiên đoán chế độ cũ ở miền Nam do tham nhũng bất tài lệ thuộc Mỹ sẽ sớm tan rã và sụp đổ… đúng như kết cục 30.4.75! Vì thế được dân chế độ cũ tặng cho biệt danh “Nhà tiên tri bi thảm”.
Sau 75 đi cải tạo gần 5 năm, sau khi ra trại đến năm 1987 qua Mỹ theo diện bảo lãnh bên gia đình vợ (5 con).
Trên đất Mỹ vẫn tiếp tục sáng tác nhưng ít nhắc về hoài niệm quá khứ chế độ cũ (truyện dài “Không một vòng hoa cho người chiến bại” 1998, “Sài Gòn sau 12 năm”…) mà càng về sau càng không quan tâm nhắc nhở, dính líu gì đến vấn đề chính trị nữa mà quay qua trở thành nhà văn nhà báo hải ngoại tiên phong phổ biến luận thuyết khoa học tiến bộ về… sex!
Thật ra trước 75 trong tác phẩm đã có nhen nhóm ý tưởng viết theo hướng chủ đề này từ ảnh hưởng một số nhà văn Mỹ “cấp tiến” mới du nhập vào nên từng được đánh giá là nhà văn VN đầu tiên đề cập đến đề tài tình dục ở miền Nam. Nay ở Mỹ có điều kiện thuận lợi hơn – lại không bị chi phối bởi vấn đề chính trị, thời thế – để khai thác với một loạt tác phẩm sáng tác lẫn nghiên cứu như “Tuyển tập dâm tình”, tình dục trong thơ Hồ Xuân Hương và cả trong truyện… Dương Thu Hương!
Cách đây vài năm bị nhiều bệnh đưa đến đột quỵ tê liệt nửa người song vẫn kiên trì dũng cảm ngồi xe lăn tập luyện để viết được bằng tay trái tiếp tục công việc chọn lựa viết lách sau này của mình.

568 - Thị Xinh
TỪ CHỐI ĐI H.O (2)
Thường dân không biết họ sinh 1974 tại Quảng Nam. Sống ở Quảng Nam (1998).
Mẹ trước đây từng tham gia hoạt động cách mạng, có người yêu đi tập kết miền Bắc.
Ở lại miền Nam, mẹ bị bắt giam may được một sĩ quan VNCH có cảm tình tìm cách cứu ra nên sau đó dưới sức ép gia đình đã chấp nhận lấy người đó làm chồng sinh được con gái – tên Xinh – năm 1974.
Đứa con mới được một tuổi thì cha sĩ quan chế độ cũ phải đi cải tạo, mẹ một mình nuôi con thân cô thế cô lại bệnh tật nên hoàn cảnh rất khó khăn. Đúng lúc đó người yêu cũ từ miền Bắc trở về hăm hở với giấc mơ bao năm nay vẫn sống đời độc thân chờ ngày về sum họp với mối tình đầu đời không ngờ phải đối đầu cảnh ngộ oái oăm ngỡ ngàng người kia nay đã tay bồng tay mang!
Dù vậy, người bộ đội tập kết vẫn có tấm lòng cao thượng chấp nhận thực tế cay đắng đau lòng, chẳng những không hờn oán mà còn tìm cách giúp đỡ 2 mẹ con. Nhưng chỉ được một thời gian thì người mẹ một phần vì sức khoẻ yếu phần khác do đau buồn số phận – một phần là ân hận nỗi phụ tình quên lời thề xưa - qua đời sớm. Bỏ lại đứa con côi bé bỏng rơi vào cảnh mồ côi cả cha lẫn mẹ lạc loài bơ vơ có ai cứu giúp được ở cái thời buổi hậu chiến đầy khó khăn.
Thế là người yêu “hờ” xưa kia đứng ra nhận em bé làm con nuôi, từ đó một mình – vẫn không lấy vợ - tự tay chăm sóc em từ thời còn bú ẵm đến lớn lên học hành đàng hoàng. Gia đình một cha nuôi một con nuôi cứ thế ngày qua ngày sống yên ấm hạnh phúc trong khi người cha ruột đi cải tạo bặt tin lâu rồi.
Đến khi con nuôi tới tuổi trưởng thành tốt nghiệp phổ thông thì người cha nuôi vừa về hưu năm 1992 trở bệnh nặng hậu quả thời chiến đấu đánh Mỹ gian khổ, bị một cơn sốt rét ác tính quật ngã thành người bại liệt nằm một chỗ bất động không nói năng gì được. Vậy là người con nuôi một mình lo tất cả mọi việc nuôi cha nuôi dù công việc này quá vất vả từ chuyện săn sóc bơm thức ăn vào miệng đến rửa ráy cho cha hàng ngày, giặt giũ áo quần, xoa bóp, thuốc thang… Ngoài ra còn phải kiếm việc buôn bán phụ để đắp đổi thêm vào lương hưu của cha.
Rồi người cha ruột cải tạo trở về chuẩn bị đi H.O qua Mỹ đương nhiên được đem con ruột theo. Nhưng lúc đó đứa con “2 cha” đã từ chối đi cùng cha ruột bởi không nỡ rời bỏ người cha nuôi tuy không cùng máu mủ nhưng đã là ân nhân của mình không thể thay thế không bao giờ quên được.

569 - Thích Đôn Hậu
VÌ SỰ HÒA HỢP PHẬT GIÁO
Đại lão hòa thượng Phật giáo tên thật Diệp Trương Thuần sinh 1905 tại Quảng Trị – Mất 1991 ở Huế (87 tuổi).
Nguyên trụ trì chùa Linh Mụ nổi tiếng ở Huế, từng lãnh đạo Phật giáo miền Trung – thuộc Giáo hội PGVN Thống nhất - chống chế độ Ngô Đình Diệm 1963 và Thiệu – Kỳ 1966.
Bất ngờ năm 1968 trong biến cố Mậu Thân từ chùa Linh Mụ đã “thoát ly” đi theo cách mạng, được đưa ra Bắc và cử ra nước ngoài – Liên Xô cũ, Trung Quốc, Mông Cổ – đại diện PG vận động cho Mặt trận Giải phóng miền Nam chống chính quyền Mỹ – Thiệu.
Sau 75 quay về trụ trì chùa Linh Mụ đồng thời tham gia Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc VN của chế độ mới đồng thời vẫn giữ chức vụ trọng yếu trong Giáo hội PGVN Thống nhất cũ từ Cố vấn Viện Hoá đạo, Chánh Thư ký Viện Tăng thống đếùn Xử lý Viện Tăng thống (xem như vị đệ tam Tăng thống).
Năm 1977 đã tuyên bố từ chức đại biểu Quốc hội và rút khỏi Mặt trận để phản đối việc chính quyền bắt giữ 6 thượng tọa lãnh đạo trong GH PGVN Thống nhất, nhờ đó năm 1978 tất cả được thả ra.
Nhưng đến năm 1981 lại tham gia thành lập Giáo hội PGVN mới (làm Đệ nhất Phó Pháp chủ kiêm Giám luật) do chính quyền cộng sản lập ra nhằm giải thể GH PGVN Thống nhất cũ tuy trên danh nghĩa mình vẫn là đệ tam Tăng thống GH PGVN Thống nhất cũ.
Tuy nhiên đến mấy năm cuối đời vào thời Đổi mới lại kêu gọi phục hồi GH PGVN Thống nhất cũ đồng thời gửi tâm thư đến giới PG hải ngoại mong mỏi xây dựng sự đoàn kết hòa hợp PGVN – 2 Giáo hội PG cũ và mới, PG “quốc doanh” trong nước và PG hải ngoại chống Cộng - như ý nguyện ấp ủ suốt đời từng bày tỏ mà vì nó bản thân và hành động từng không ít lần mâu thuẫn nhau trong mối quan hệ chính trị: “Có sống hòa hợp mới mong làm tròn nhiệm vụ của người con Phật đối với đại sự mở lòng tri kiến Phật của Đức Từ phụ, mới mong làm nên những sự nghiệp ích nước lợi dân. Điều này có nghĩa rằng sống hòa hợp là điều kiện tối yếu cho sự tiến tu và sự tiến tu chỉ có thể được thực hiện nếu có sốâng hòa hợp.” (Thông điệp Phật đản 1982).
Trước khi qua đời đã truyền ngôi Tăng thống đệ tứ của GHPG VN Thống nhất cũ cho Hoà thượng Thích Huyền Quang.

570 - Thích Huyền Quang
VỊ TĂNG THỐNG CUỐI CÙNG
Đại lão hòa thượng Phật giáo tên thật Lê Đình Nhàn sinh 1920 tại Bình Định – Mất 2008 ở Bình Định (89 tuổi).
Từng tham gia chống Pháp ở khu vực miền Trung song do quan điểm không chấp nhận cộng sản can dự vào Phật giáo nên bị đưa đi “an trí” ở Quảng Ngãi 4 năm, đến 1954 mới thả ra.
Vào Sài Gòn tiếp tục hoạt động trong giáo hội PGVN, trở thành một lãnh tụ đấu tranh chống chế độ Ngô Đình Diệm rồi chế độ Thiệu – Kỳ. Được trọng vọng, bầu làm Phó Viện trưởng Viện Hóa đạo.
Sau 75 với quan điểm không chấp nhận PG bị “cộng sản hóa”, đòi tựï do tôn giáo triệt để nên luôn bị chính quyền theo dõi truy bức.
Năm 1977 bị bắt giam 18 tháng vì tội chống đối “lật đổ chế độ” đưa ra tòa xử 2 năm tù treo. Năm 1982 phản đối việc Nhà nước lập Giáo hội PGVN mới để triệt tiêu Giáo hội PGVN Thống nhất cũ nên lại bị bắt rồi trục xuất về quản chế tại chùa Hội Phước ở Quảng Ngãi. Vẫn tiếp tục hoạt động “ngầm” đối lập chế độ. Từ hoạt động này năm 1982 đượïc đề cử giải Nobel Hòa bình.
Năm 1992 được vị Tăng thống thứ ba của GH PGVN Thống nhất cũ là hòa thượng Thích Đôn Hậu viên tịch trao quyền lại làm tăng thống thứ tư (các đời tăng thống: Thích Tịnh Khiết 1964-1973, Thích Giác Nhiên 1973-1979, Thích Đôn Hậu 1979-1991). Từ đó có danh nghĩa để đẩy mạnh cuộc đấùu tranh đòi khôi phục giáo hội cũ, đòi quyền tự do tín ngưỡng, dân chủ trong tình hình vẫn bị cô lập ở Quảng Ngãi suốt 17 năm trời.
Mãi đến năm 2003 do mắc bệnh nghi bị ung thư nên mới được đưa ra Hà Nội chữa trị. Nhân dịp này cùng với sức ép của quốc tế, đã được Thủ tướng Phan Văn Khải tiếp với đôi bên có ý “hòa hoãn” với nhau ít nhiều. Vì thế sau đó chữa xong bệnh mới được phép vào lại TPTHCM.
Nhưng chỉ ở lại TPHCM một tháng rồi có lẽ do thấy tình hình nội bộ Phật sự nơi đây phức tạp bị chính quyền chi phối không như trước kia nên quyết định chọn tu viện Nguyên Thiều ở Bình Định do mình sáng lập trước đây để ở và làm trụ sở hoạt động tiếp tục cho Giáo hội PGVN Thống nhất. Cùng lúc được trao tặng giải Nhân quyền quốc tế ở Cộng hòa Czech.
Trong lúc đó hy vọngï “hòa hoãn” – tiến tới “thỏa hiệp” cách nào đó - bước đầu với chính quyền không kéo dài bởi quan điểm lập trường đôi bên vẫn còn có quá nhiều khác biệt, đối chọi nhau. Phía Nhà nước mời tham dự Đại hội PG thế giới sắp diễn ra ở Hà Nội nhưng tăng thống yêu cầu phải mời cả PG hải ngoại (chống Cộng) rốt cuộc không thành. Nhà nước hứa dành cho sự ưu ái giải tỏa sự “bao vây cấm vận” với điều kiện phải loại trừ “cánh tay mặt” là hòa thượng Thích Quảng Độ Tổng Thư ký GH PGVN TN cũ vốn có chủ trương chống tới cùng song từ khước. Kết cuộc vẫn bị chính quyền phong tỏa hoạt động ở Quảng Ngãi, không cho tổ chức đại hội nhằm phục hồi GH PGVN TN.
Tình hình cứ dây dưa như thế đến năm 2004 rồi 2006 do lâm bệnh lại nên được đưa vào TPHCM điều trị, bệnh thuyên giảm lại về Bình Định. Đến giữa năm 2008 tuổi già nhiều bệnh phát tác cùng lúc nên không qua khỏi.
Vậy là ước vọng tái lập Giáo hội PGVN Thống nhất – “giữ Giáo hội có mặt với dân tộc” - theo đúng di chúùc của cố Tăng thống đời thứ ba Thích Tịnh Khiết chưa thành.
Đã cống hiến trọn vẹn cả cuộc đời, nỗ lực làm hết sức mình “phục vụ dân tộc, phục vụ đạo pháp, phục vụ GH PGVN TN cho đến hơi thở cuối cùng” nhưng bất khả kháng bởi cùng lúc phải duy trì cuộc đấu tranh đó theo đúng tinh thần Phật pháp bất bạo động. Bởi vậy đã không ít lần từng tỏ thiện chí với nhà cầm quyền (nhiều lần viết thư, đơn gửi các cấp lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận từ thời cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đến sau này, một lần chấp nhận gặp thủ tướùng đương nhiệm) nhưng rốt cuộc tất cả chỉ là cuộc đối thoại một chiều thất bại - như căn bệnh không tưởng mãn tính của các lực lượng đấu tranh không cộng sản chống Mỹ & Thiệu thời VNCH - trước quyền lực chính trị.
Chỉ còn lời nhắn nhủ để lại cho Phật tử: “Chúng ta phải dạn dĩ chịu đựng và tiếp tục chịu đựng để chúng ta có mặt với Giáo hội”. Với niềm tin son sắt: “Chính quyền nào cũng nói muôn năm nhưng có chính quyền nào muôn năm đâu? Còn PG đâu có nói muôn năm đâu nhưng PG mấy ngàn năm rồi.”
Tuy nhiên sau khi qua đời, chức tăng thống đời thứ năm đã bị bỏ trống (hòa thượng Thích Quảng Độ chỉ tạm thời xử lý) vì xảy ra mâu thuẫn trong nội bộ GH PGVN TN ở trong nước lẫn với bộ phận hải ngoại không thống nhất được việc suy tôn ai – “phe” nào - thay thế. Mà hòa thượng Quảng Độ nay cũng đã 84 tuổi, rồi sau này không biết GH PGVN TN cũ sẽ về đâu?
(Còn tiếp)

Thứ Ba, 25 tháng 1, 2011

BIỂN KHÔNG ANH - HẠ NHIÊN THẢO

Chiều gợn sóng phủ màu sương khói
Biển không anh tím cả hoàng hôn
Trên cát trắng bồng bềnh sóng vỗ
Vương xuống thành trăm hạt tương tư
o
Dẫu thương nhớ làm sao em khóc
Nước mắt này trôi dạt về đâu
Đêm khuya một thoáng ơ thờ nhớ
Biển xưa trăng lạnh ai chờ bóng ai...
o
Mùa đông có điều gì tha thiết
Mà em không thể ngủ để quên
Nỗi nhớ xa xôi không thể dứt
Đông về rưng rức đọng trên môi.

HNT

Thứ Hai, 24 tháng 1, 2011

KHI THẤT TÌNH THƠ CŨNG BỎ TA ĐI - NGUYỄN MIÊN THẢO


Này thơ ơi ta đâu phải vô nghì

Khi thất tình thơ cũng bỏ ta đi

Ta sợ nhất khi không còn yêu được

Mà nghìn năm em vẫn mãi xuân thì


NMT

Chủ Nhật, 23 tháng 1, 2011

BÚN BÒ HUẾ - TRẦN KIÊM ĐOÀN


Bún không phải chỉ đơn thuần là một món ăn truyền thống của Huế, nhưng đối với người Huế, bún còn là một phần lối sống “Kiểu Huế”.

Kiểu Huế là nghèo mà vẫn sang, vui rộn rã mà vẫn man mác buồn,... ngoài mặt phẳng lặng mà trong lòng dậy sóng, không soi bóng mình trong gương mà soi bóng mình trong đôi mắt của người thương, bè bạn, xóm giềng.. Người ngọai quốc như ông Foulon cũng nhận xét về sự mâu thuẫn của Huế: “Tóc tang cười nụ, vui mừng thở than!”(Lê Văn Lân dịch).

Huế mâu thuẫn từ buổi mới vào đời, đài các từ ngày mới có tên. Tên đất thì nhỏ như nốt ruồi son: Ô, Rí, Huế... mà tên người lại dài lướt thướt như mái tóc mây dài chấm gót: Công Tằng Tôn Nữ Thị Sông Hương, Nguyễn Khoa Hoàng Thành, Tôn Thất Quỳnh Phương... Huế quá trầm lặng và chật như cái bể cạn mà phải chứa những tâm hồn bão nổi sông hồ, nên dân Huế ngoài mặt hiền khô mà trong lòng cưu mang những bến bờ viễn xứ, sẵn sàng phản kháng và rực lửa đấu tranh “dấy loạn” như Lục Vân Tiên ra đường thấy việc bất bằng chẳng tha. Cái dấy loạn bão liệt nhưng nên thơ và lý tưởng quá đà của những tâm hồn lãng mạn kiểu Huế chỉ làm cho Huế thành đất dấy nghĩa nhưng không thể nuôi lớn Huế thành căn cứ địa, chiến khu như Tân Sở, Ba Lòng. Xưa vua Hàm Nghi và vua Duy Tân chỉ có những phút huy hoàng và chợt tắt ở Huế, để rồi suốt canh thâu le lói ở phương nào.

Tô bún bò Huế cũng là một biểu hiện của văn hóa Huế vì đây cũng là một sự “dấy nghĩa” trong truyền thống nấu ăn khi cho bò nổi heo chìm trong cùng một nồi, trộn lẫn hai tính chất mâu thuẩn “bò nấu thì teo, heo nấu thì nở” thành một thể hài hòa. Huế đã dùng sả để “chuyên trị” thịt bò chứ không dùng ngủ vị hương để chuyên trị như truyền thống lâu đời ở Trung Hoa và miền Bắc. Tô bún Huế mang hưong vị “rất Huế” để mà cảm nhận và thưởng thức như cảm nhận và thưởng thức mùi khói sóng buổi chiều trên sông Hương. Tự nhiên như: “Nó ngon thì tại nó ngon. Có chồng thì phải nuôi con, thờ chồng”. Cái dễ giận nhất của người Huế là "mình cảm thấy..." mà không cần lý luận. Bởi vậy, hình như càng đem lý tính để phân tích các món ăn Huế, cái hiểu về hương vị thực tế càng xoải cánh bay xa...

Bún Bò Huế. Ai ở xa nghe như thể Huế là vùng đất thổ sản của bò, giống miền Nam Mỹ Texas . Thật ra, tìm một trại bò trên đất Huế cũng khó như tìm lá Diêu Bông của Hoàng Cầm. Tô bún bò Huế cũng là phản ánh cái tham vọng thu nhỏ của người Huế vì muốn dùng cái “lượng” giới hạn để đạt tới cái “phẩm” vô cùng. Bởi vậy, ngoài những chất liệu cay chua ngọt bùi của trần gian, tô bún Huế còn được “nêm” thêm ít nhiều gia vị vô hình của cái tâm chủ quan và cái linh của hoàn cảnh Bà Bún.

Suốt cả thời thơ ấu, tôi sống ở làng, quanh năm chỉ có “Đây xóm nghèo quê tôi khi nắng lên...” là đẹp nhất.

Hàng năm, sau dịp Tết, người trong làng lại bắt đầu chuẩn bị lễ đầu năm. Mẹ tôi lễ vào ngày 19 tháng giêng để kịp ngày 20 đi coi giò gà và dự lễ tế Bà Bún tại làng Vân Cù.

Mỗi năm, tôi được ăn bún khá nhiều lần nhưng hai lần trọng đại nhất và ngon nhất là trong dịp lễ đầu năm của mẹ tôi và trong ngày lễ tế Bà Bún tại Vân Cù. Làm sao tôi quên được những buổi sáng hai mươi tháng giêng. Từ sáng tinh mơ còn lạnh cóng, mẹ tôi đã cẩn trọng nhúng bộ giò gà khô queo trong tô rượu trắng, gói trong giấy bổi, lâm râm cầu nguyện rồi chuẩn bị lên đường bói quẻ đầu năm.. Tôi là con trai út, nên được thương nhất nhà và thường bị gọi là “cái đuôi của mạ” vì mẹ tôi đi đâu tôi cũng lon ton dòi chạy theo.

Sau vụ coi giò gà tại nhà thầy Kiên ở Hương Cần thì mặt trời đã lên quá đọt tre. Mẹ tôi tiếp tục cuộc hành hương cuốc bộ đầu năm về làng Vân Cù. Từ Hương Cần về Vân Cù phải qua một cánh đồng lúa rộng, tôi phải chạy lúp xúp theo mẹ mướt mồ hôi, mặc dầu trời tháng giêng trên quê tôi lạnh đến nỗi “giêng hai cắn tay không ra máu!”. Sau nầy tôi bỗng khám phá ra thêm một bí mật về cái ngọn tuyệt vời của bún xáo Vân Cù trong ngày lễ Bà Bún một phần cũng là do cánh đồng trống nầy vì vượt qua cho được dặm trường thiên lý nầy thì cái bụng đã trống trơn.

Muốn nói đến Bún Bò Huế thì đừng quên trước hết phải nói đến con bún, vì tô bún là một tổng hợp hài hòa giữa con bún và nước bún. Thiếu một trong hai là kể như có Adam mà không có Eva, có Phạm Lãi mà thiếu Tây Thi! Và, nói đến con bún Huế thì không thể không nhắc đến chiếc nôi của bún là làng Vân Cù.. Làng Vân Cù nằm cạnh sông Bồ, là con sông ăn thông với sông Hương qua nhánh sông Đào. Vân Cù cách Huế chừng 10 cây số về phía Tây Bắc.

Từ xưa, Vân Cù là lò bún tập thể cung cấp bún cho cả Huế, Thừa Thiên, ra tới Quảng Trị và có khi vào đến Quảng Nam, Đà Nẵng. Hầu hết người làng Vân Cù tuy sống về nghề nông nhưng ai cũng có lò bún trong nhà. Cũng như rất nhiều nghề thủ công khác ở Huế như nghề Thợ Rèn ở Làng Hiền Lương, nghề Đan Thúng Mủng ở làng Bồ La, nghề Thợ Vàng ở làng Kế Môn, nghề Nuôi Tằm ở làng Dương Sơn, nghề Chằm Nón ở làng Hương Cần, nghề Đan Nôi Bội ở làng Liễu Hạ, nghề Gạch Ngói ở làng Nam Thanh... nghề Làm Bún ở làng Vân Cù là một công việc làm ăn truyền thống và độc đáo riêng của từng đơn vị sản xuất gia đình trong làng, có tính cách cha truyền con nối từ đời nầy qua đời khác. Tất cả dây chuyền sản xuất đều làm bằng tay với những dụng cụ thô sơ, nhưng thành phẩm thường đạt đến mức tinh luyện mà người khác làng khó lòng bắt chước nổi.

Thủy tổ của nghề làm bún tại Vân Cù là một bà, tục gọi là Bà Bún. Thời gian đã xoá nhòa danh sách của những người muôn năm cũ nên chẳng còn ai nhớ tên thật của Bà Bún. Trong những câu chuyện dân gian truyền miệng về cuộc đời của Bà Bún, tôi còn nhớ mãi chuyện kể của bác Cửu Am với mẹ tôi rằng:

Vào một thời xa lắc xa lơ, khi có những người Đàng Ngoài theo chân chúa Tiên Nguyễn Hoàng vào Nam lập nghiệp, có một nhóm người đến định cư trong vùng những Tháp Chàm cổ xưa đã đổ nát nên sau nầy có tên là làng Cổ Tháp, thuộc huyên Hương Điền. Trong số đó có một người thiếu nữ đẹp, có lẽ cũng mắt lá răm, môi cắn chỉ, má lúm đồng tiền... nên rất được nhiều người mến chuộng. Trong lúc mọi người chuyên sống bằng nghề canh tác làm ruộng thì người thiếu nữ nầy miệt mài chuyên nghề làm bún. Bún nàng ngon quá hay vì nàng xinh quá mà làm cho bao người ăn quên cả đường về. Rượu không say bún say mới ngại...

Vì vậy nên nhiều người ganh tỵ. Rồi một dạo dân trong vùng bị mất mùa liên tiếp 3 năm. Người ta cúng, tế cầu thần linh cứu giúp. Gặp cơ hội nầy, kẻ xấu bụng tung tin rằng, mất mùa là do thần linh quở phạt vì Cô Bún đã đem gạo là “hạt ngọc của Trời, phơi mao ngậm sữa” ra mà ngâm, mà chà, mà xát, mà nghiến nát ra để làm bún. Thế là nhà nông bắt đầu nổi giận. Hội Đồng Thị Tộc của làng họp bàn và ra lệnh cho Cô Bún phải bỏ nghề làm bún hay sẽ bị trục xuất ra khỏi làng, nhưng Cô Bún quyết sống chết với nghề nên chấp nhận ra đi.

Vì bản chất hiền lương và thuần hậu nên Cô Bún được làng ban ân cho phép chọn lựa hướng đi và cử năm người thanh niên mạnh nhất trong làng theo áp tải. Mỗi thanh niên sẽ cõng cái cối đá làm bún của Cô đi một chặng đuờng cho đến khi mệt đuối sức thì người khác tới thay cho đến hết người thứ năm là vùng đất mới của Cô Bún. Cứ thế, đoàn người đi về hướng Đông cặp theo sông Bồ không nghỉ. Nơi người trai làng thứ năm khuỵu xuống với cái cối đá trên vai là làng Vân Cù sau nầy. Nơi đây đã trở thành “đất lành chim đậu” cho Bà Bún lập nghiệp và truyền nghề làm bún đời đời qua bao nhiêu biến cố thăng trầm của đất nước và dân tộc..

Người ta thường ví von “mềm như bún” nhưng cái mềm Đông Phương lại là cái dẻo dai bền bỉ để sống còn trên bước đường vạn dặm. Thân gái dặm trường, Bà Bún đã vượt Hoành Sơn vào Huế. Chim đã về núi, Bà đã về dất nhưng Bún Huế vẫn còn tươi rói với nhân gian như có người đã hát nửa chơi, nửa thiệt: “Hoành sơn nhất đái chim về cội. Vạn đại dung thân đọi bún bò”.

Một “xưởng bún” điển hình ở làng Vân Cù thường bao gồm một cái xay để xay bột, một cái cối có chày đạp, lò nấu , chảo lớn, rây bột, khuôn bún và một số dụng cụ để khuấy, vớt, đong, đựng bột và bún trong từng chặng đường sản xuất. Từ hột gạo măng tơ biến ra con bún nõn nà cũng phải cần đến bàn tay, không phép mầu nhưng cũng phải khéo léo và cần cù, của bà tiên lao động. Sợi bún bắt đầu từ hột gạo. Gạo trắng ngâm nước lạnh qua đêm sẽ “mục” ra và được đem xay hay giã nhuyễn thành bột. Tiếp theo, bột gạo được “rây” để lọc ra phần mịn nhất tinh bột của gạo. Bột gạo nguyên chất được rưới nước sôi để nhồi thành một khối bột gọi là “trái bột”. Trái bột gạo được luộc chín sơ, rồi vớt ra và đem trộn với bột lọc theo tỷ lệ cứ 30 lon gạo (khoảng 10 ki-lô), trộn với 2 ki-lô bột lọc.

Tổng hợp bột gạo và bột lọc nầy lại được giã, trộn rất nhuyễn cho tới khi trái bột đạt tới mức “vừa đai, vừa đẻo” là đuợc. Giai đoạn cuối cùng là khối bột mượt mà và dẻo quẹo được đưa vào khuôn bún. Dưới sức ép, những đường bột tuôn ra theo lỗ đục sẵn dưới đáy khuôn bún, rơi vào nồi nước sôi và chín thành bún. Bún được vớt ra, xả sạch với nước lạnh và sẵn sàng để ăn.

Bún tự nó đã là một món ăn thanh đạm của người Huế, nhất là vùng quê. Bún Vân Cù được làm ra dưới ba hình thức: Bún con, bún lá và bún mớ.

Bún con hay bún vắt là một lọn bún quấn lại với nhau, dài vừa nắm tay như cuộn chỉ thêu, rất tiện lợi cho việc ăn uống đơn giản và đạm bạc trên nương, ngoài đồng, giữa đường. Chỉ cần một chút nước mắm ớt và năm, bảy con bún vắt thì bác nông phu trên đường về, chị chủ quán rộn ràng giữa chợ, em bán hàng rong lang thang... có thể tay cầm con bún chấm vào nước mắm ăn ngon lành ngay trên “hiện trường” vừa ngon miệng, vừa ấm lòng, vừa khỏi lơ là công việc..

Bún lá là một lớp bún trải trên lá chuối tươi, cuộn tròn cỡ bằng cái bánh tráng trung bình. Bún trắng nổi trên lá xanh mang vẻ đẹp trinh nguyên nên vừa bắt mắt, vừa bắt miệng. Bún lá thường là đơn vị bún cho cá nhân và gia đình: Mỗi người một rá, mỗi lá một tô. Bún mớ, còn gọi là bún “ngảo” hay bún kí-lô. “Ngảo” là cái rổ nhỏ thường dùng như một đơn vị đo lường ở các vùng quê của Huế trong khi “kí lô” là đơn vị đo lường mới xuất hiện sau này. Bún mớ là bún sản xuất đại trà với số lượng lớn để buôn bán, đổi chác trên thị trường.

Thật ra cả ba loại bún cơ bản là giống nhau, đều có màu ngà đục khi sống và màu trắng trong khi đã luộc chín. Người ta thường dùng danh từ “bún tươi” để chỉ bún mang trực tiếp ra từ lò và “bún luộc” để chỉ con bún được luộc chín từ bún khô. Con bún Huế điển hình có độ dai vừa phải, không “đai hoai” như bột lọc nhưng cũng không bở rệt như bột gạo. Thường người ta dùng đinh 3 phân ( khoảng 1/8 inch) để đục lỗ thoát trong khuôn bún hay để ước lượng độ lớn của con bún. Trong thực tế, bún lớn hay nhỏ là do bàn tay khéo léo của người cầm “rây”.

Muốn sợi bún nhỏ, ngay khi những con bún sống đang chảy xuống nồi nước sôi để thành bún chín, chỉ cần đưa cái khuôn đầy bột lên cao; muốn có con bún to thì hạ khuôn xuống thấp. Bún nhỏ là bún kim để làm bún khô hay bún Tàu dùng nấu canh và bún to hơn là bún thô dùng để xào trộn thức ăn trong những dịp giỗ, Tết. Bún con và bún lá thường được cho là ngon hơn có lẽ vì được sản xuất đầu nước nên láng lẩy và tươi tắn hơn: “Bún đầu nước thì ngon, con đầu nước thì dại (?)”.

Ngoài cơm và khoai sắn, có thể nói rằng, bún nói chung là món ăn truyền thống được phổ biến rộng rãi nhất đối với người Việt Nam ở trong nước cũng như khắp năm châu. Các loại bún truyền thống miền Bắc thì có bún riêu, bún thang, bún mộc, bún ốc.... Bún từ Đàng Ngoài đã theo bước chân Nam tiến đi vào Đàng Trong, rồi chọn đất Thuận Hóa làm nơi nghỉ bước và đâm chồi nẩy lộc thành bún Huế. Bún Huế gồm nhiều loại, mỗi loại có một lịch sử và tính chất độc đáo khác nhau: Bún nước mắm, bún mắm nêm, bún giấm nuốc, bún riêu, bún xáo, bún măng, bún thịt nướng, bún chả tôm, bún bò, bún giò... và bún bò giò heo. Bún bò Huế, tức là bún bò giò heo được ưa chuộng và phổ biến nhất.

Theo thời gian và không gian, bún bò Huế có lúc và có nơi chỉ còn là một cái tên nhưng phẩm chất, đặc tính, mùi vị... đã hoàn toàn biến đổi. Nhiều người vẫn tẩn mẩn tự hỏi, không biết tô bún bò Huế thời vua Gia Long lên ngôi năm 1802 và tô bún thời vua Bảo Đại thoái trào năm 1954 có gì khác nhau trong cung đình và ngoài phố chợ. Có điều rõ ràng là khách ăn bún Huế sẽ cảm thấy tô bún An Hoà khác hẳn tô bún An Cựu, nơi nầy có thêm lát chả, nơi kia có thêm miếng huyết, nơi nọ có chút rau thơm và chuối cây xắt mỏng lơ thơ. Càng đi xa, tô bún ở Đà Nẵng không giống tô bún Sài Gòn; tô bún Huế Ca-li khác xa tô bún Huế Texas .

Trước 1975, tôi có một người ông bà con, quê ở làng Lương Quán, Nguyệt Biều. Mọi người kêu ông là “Ôn Tứ”, có lẽ vì ông làm quan tứ phẩm của triều đình. Cứ một năm vài ba lần, ông sai tôi chở qua cung An Định để vấn an “Đức Từ”, đó là bà Từ Cung, thân mẫu của cựu hoàng Bảo Đại. “Ôn Tứ” tuổi trên 70 mà vẫn còn đẹp lão như một tiên ông với da dẻ hồng hào và tóc trắng như mây, nhưng hễ cứ mỗi lần tôi khen ông là ông lại nói với giọng nửa như tự hào, nửa như ăn năn:
- Ôn sống thọ đây là tại trời đày vì tội phạm thượng, dám ăn đồ ăn của vua!

Ai cũng biết thuở trước, ông là người hầu cận thân tín của vua Bảo Đại từ Việt Nam qua đến Pháp.. Tôi nghe lạ, hỏi ông, ông giải thích:
- Ngài Ngự làm vua, nhưng là người Tây học. Ngài xử sự công bằng và lịch sự với tất cả mọi người. Hồi còn ở trong Đại Nội, thường có các cận thần hay hoàng thân quốc thích nấu đủ món sơn hào hải vị dâng lên Ngài ăn khuya. Ngài nhận, nhưng sau đó sợ bị mập nên Ngài cứ đưa hết cho ôn ăn. Con coi, ôn ăn hoài cao lương mỹ vị của hoàng đế, “tội to” như rứa mà Trời không phạt răng được!

Trong những lần ngồi đợi ông vấn an đức Từ Cung, trong cái mát lạnh thâm u của cung An Định, tôi có dịp nghe các cuộc mạn đàm của giới thân cận cung đình về các món ăn Huế mà giới quý tộc quan tâm. Bún bò Huế vẫn thường được nhắc đến nhiều nhất. Đặc biệt là cuộc thi nấu các thức ăn đem ra đấu xảo tại chợ Tết Gia Lạc có từ thời Minh Mạng, do Định Viễn Công Nguyễn Phước Bình, con thứ tư của vua Gia Long lập ra. Chợ Gia Lạc nằm giữa chợ Mai và chợ Nam Phổ ngày nay và cũng là vùng đất có Tùng Thiện Vương và Tuy LýVương, hai vị hoàng thân nghệ sĩ đã vang bóng một thời.

Lúc đầu chợ chỉ mở ra cho các người trong thân nhân phủ đệ, sau thấy đông vui hấp dẫn, dân thường trong vùng lân cận như Dương Nổ, Nam Phổ, Thế Lại, Ngọc Anh... tìm đến và cũng được các ông hoàng bà chúa cho vào tham gia buôn bán và tổ chức các trò chơi. Hàng năm đến ngày 23 tháng Chạp, chợ Mai đông buổi sáng và chợ Nam Phổ đông buổi chiều để nhường chỗ cho chợ Gia Lạc tưng bừng vui hội Tết. Đông vui và nhộn nhịp nhất là trong ba ngày mồng một, mồng hai và mồng ba Tết Nguyên Đán. Đây là phiên chợ của hàng con vua cháu chúa, nhưng đồng thời cũng mở rộng ra cho bàng dân thiên hạ đến vui Xuân.

Theo tương truyền, trong một năm, món bún bò giò heo của Mệ Lựu đã chiếm giải nhất và được phê là “Thập toàn. Ngũ đắc”. Thập toàn là mười diều hoàn thiện của một món ăn ngon, đại khái như: ngọt ngào, thơm tho, đậm đà, bổ dưỡng, tinh khiết, bắt mắt, khéo chọn, khéo tay, khéo nấu, khéo bày, bún bò Huế còn được đánh giá cao là vì tính chất bình dân và p hổ thông trong bá tính: Mọi người ai cũng biết được, ai cũng ăn được, ai cũng nấu được, ai cũng tìm được vật liệu ngay tại địa phương, ai cũng có thể có dịp mua được (ngũ đắc). Phải chăng vì bún bò giò heo cũng mang tính truyền thống dân gian như bánh chưng, bánh dày thuở trước.

Nếu gặp một người Huế nào đó ở vào lứa tuổi trung niên hoặc già hơn mà hỏi thăm thế nào mới thật là bún bò Huế và bún bò nơi mô ở Huế là ngon nhất, chắc chắn sẽ có hơn chín mươi phần trăm trả lời là, "bún bò Mụ Rớt".

“Bún bò Mụ Rớt có nêm sâm nhung quế phụ vô hay răng mà ngon dữ rứa?”. Một lần nào đó đã có người tò mò lên tiếng. Rồi cũng có người đáp lại, “Có chi mô, mụ Rớt cũng ra chợ Đông Ba mua rau, mua thịt như mình nhưng mụ nấu ngon vì có hoa tay”. Hoa tay? Hoa tay của ông đồ Vũ Đình Liên là để thảo những nét chữ như rồng bay, phượng múa, nhưng hoa tay của mụ Rớt là để nấu những tô bún bò thanh nhã, ngọt ngào “ăn ngậm mà nghe”.
Chừ ri hỉ....! Cứ tưởng tượng mình đang ở Huế.

Vừa thức dậy sau giấc ngủ trưa, một buổi trưa không biết ở thời nào, một buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao, có cu gáy và bướm vàng nữa chứ... Và, có tiếng ve đất cuối mùa kêu sau vườn nhưng nghe như xa lắc. Nắng xế cuối mùa của Huế thường phai như màu tóc muối tiêu. Rồi có tiếng xe đạp của ai đó phanh lại trước sân, ba bốn đứa bạn thân rủ nhau đi ăn bún.

Con đường Chi Lăng dẫn về Gia Hội chen giữa hai hàng phố cũ với những căn nhà xưa kiểu Tàu pha một căn hai chái, cột mệ cột con đề huề trông thâm nghiêm nhưng thấp bé một cách tội tình. Trước khi rẽ qua đuờng Ngự Viên đi ngang "mả ông trạng" sau lưng chùa Diệu Đế, hãy ghé lại một căn nhà dãy phố bên phải: Đó là tiệm bún bò Mụ Rớt. Huế làm ăn theo lối "hữu xạ tự nhiên hương", không bảng hiệu, không quảng cáo mà chỉ cần nghe tiếng tìm vào.

Khách vô tiệm tự nhiên và lặng lẽ như ghé lại bến đò. Cứ tìm bàn nào trống, ngồi xuống trên chiếc ghế đẩu không có chỗ dựa lưng, ngó một loáng bâng quơ người quen và người lạ, sẽ có người hỏi:
- Mấy o, mấy cậu thời bún chi?
Khách chỉ có lựa chọn giữa bún khô và bún nước:
- Dạ, cho mấy tô bún nước
Lát sau, mấy tô bún bò giò heo bốc khói, mùi thơm tỏa ra dìu dịu, được bưng ra đặt trên bàn. Bún được nấu nướng từ sau bức tường của dãy nhà ngang trông vào có vẻ phòng the hơn là bếp núc.

Tô bún bò Huế mới thoạt nhìn, có vẻ đạm bạc và thanh lịch như chiếc áo dài phin trắng nõn nà. Tô bún chỉ lớn hơn bàn tay búp măng xoè ra một tí. Nước bún trong để lộ những tép bún trắng nằm sóng soãi vươn lên miệng tô. Nước bún không mỡ màng, không bị vẩn đục vì gia vị. Vài loáng ớt màu đỏ nhạt, quyện với dầu sả nổi đốm sao trên mặt tô không che được miếng giò heo búp, mỏng bằng hai phần lóng tay. Miếng giò heo trắng ngả màu vàng với lớp da mỏng, ôm khoanh thịt nạc và mảnh xương tròn ở giữa như nhụy hoa nằm bắt mắt và mời gọi, nửa chìm nửa hở trong tô bún. Che mái cho tô bún là ba bốn lát thịt bò bắp xắt mỏng, những lát bò bắp với thớ thịt chắc nịch nâu đỏ và những đường vân vàng nhạt của nạm, gầu, gân, sách.

Trên bàn đã có sẵn đũa tre, muỗng sành, nước mắm, ớt tương và rau hành chanh múi. Một dĩa nhỏ hành củ trắng phau và hành lá, rau thơm xanh mưót điểm thêm ngò ta xắt mỏng để rắc lên mặt tô bún cho thêm nồng nàn hương vị. Rau hành của bún không phải là rau sống cuả phở, rau chỉ đóng vai trò “nước hoa” cho tô bún. Trên một góc dĩa là ớt tươi xắt lát. Cái cay của ướt tươi là đậm đà, mọng nước, đủ sức khống chế những cao thủ ớt đã nếm đủ vị giang hồ mà vẫn còn thấy nhạt. Cạnh đó là dĩa ớt tương nhỏ xíu màu huyết dụ; ớt tương của bún bò Mụ Rớt cũng được liệt vào hàng "gia vị bún bò bắc đẩu", nhìn thì có cái vẻ mềm như nhung với màu đỏ sẫm, điểm những hột ớt vàng hoe nhưng nếm vào mới biết thế nào là cái “hiền” của Huế.

Gắp một tí ớt tương đầu múi đũa bỏ vào tô là ớt từ từ bung ra như nhụy hoa trên mặt nước bún. Hoa hồng thường có gai, nên nhụy hoa bún cũng làm cho biết bao người cay giọt ngắn, giọt dài!
Cung cách nêm tô bún trước khi ăn cũng thể hiện phần nào phong thái của người ăn. Vẻ e dè chờ đợi của khách mới, dáng khoan thai của giới nhàn du, sự xông xáo của người đói bụng, cách lịch lãm của kẻ từng quen... là những biểu hiện thường tình trước tô bún.

Khi đã nêm xong, húp một muỗng nước bún khai vị để cảm nhận được cái chất ngọt thanh pha đủ mùi gia vị. Mùi sả, mùi ruốc, mùi xương hầm, mùi thịt luộc, mùi chanh, mùi rau, mùi tiêu hành nước mắm... đã biến chất, đã quyện vào nhau tạo thành mùi bún bò có sức hấp dẫn lạ lùng riêng của nó.

Miếng giò heo thanh nhã trong tô bún với lớp da mỏng có bìa da úp quanh miếng thịt nạc như đài hoa chưa nở nên thường gọi là giò “búp”. Cắn miếng giò, những sợi thịt trắng vừa béo, vừa ngọt vẫn còn thơm mùi thịt tươi mới chín nhẹ nhàng bốc hơi trên hai cánh mũi. Gắp lát thịt bò bắp. Lát thịt bò mỏng với những đường gân, sứa thịt và viền mỡ dòn tan giữa hai kẻ răng và vị ngọt béo miên man trên đầu lưỡi. Tô bún bò Huế vơi dần nửa như thách thức, nửa như mời gọi khách rằng, chưa cạn hết tô chưa gác đũa.

Tô bún bò Mụ Rớt được xem là đặc trưng cho tô bún Huế là vì nó mang những nét thanh đạm và đơn giản. Có thể nói cái thanh của bún Huế ví như những nét đan thanh của tà áo trắng, tà áo dài mỏng manh cửa đóng then gài ngỡ như là tử cấm thành của phái đẹp thần kinh, nhưng lại kín đáo phô bày trọn vẹn những nét đẹp trên thân thể của người mặc. Người mặc áo Kimono của Nhật chỉ cần một khuôn mặt đẹp, nhưng người mặc áo dài Việt Nam khó mà che dấu được những nét mỹ miều hay thô thiển của thân hình.. Cũng tương tự như vậy, một tay nấu bún “hạng lông” có thể nấu một tô bún thập cẩm với tấp nập thịt thà rau cải rềnh rang như chiếc áo Kimono, nhưng lại khó có thể nấu một tô “bún-bò-áo-trắng” kiểu Huế thoạt nhìn tưởng như là quá đơn giản mà ẩn dấu lắm công phu.

Linh hồn của tô bún bò Huế là nước bún. Nước bún là nước được hầm từ xương heo, xương bò, gà tươi, và có khi là cây, củ... Phần khó nhất trong việc nấu nước bún là giữ cho nước trong, ngọt thanh, không mỡ màng, không lềnh bềnh gia vị. Những “trường phái” bún bò khác nhau ở Huế thường dấu bí quyết nấu nước bún vừa trong vừa ngọt, nhưng tất cả đều có điểm cơ bản khá giống nhau là cách chọn xương hầm, cách luộc tái rồi đổ nước đầu tiên, cách vớt và lọai bỏ bọt thải đúng lúc, đúng điệu, thường là yếu tố quyết định trình độ cao thấp của “tay nghề”.

Bún sợi thật sự là bún tươi, trắng ngà, có độ dẻo và độ lớn vừa phải.
Thịt heo trong tô bún chỉ đơn giản một lát giò có đủ da, đủ nạc và xương. Giò luộc vừa chín, không quá lửa làm cong queo, mềm nhũn, thoang thoảng gia vị vừa ăn; thơm nhưng không mất mùi thịt heo nguyên thủy. Thịt bò trong tô bún là bò bắp luộc vừa chín, xắt lát mỏng, xào nhẹ lại với đồ màu và tránh tình trạng quá lửa làm “bò teo, heo nở”.

Gia vị chủ lực của bún bò Huế là sả, ruốc và ớt, nước mắm. Tinh dầu của cây sả có mùi thơm rất nồng, đủ mạnh để làm trung hòa mùi ruốc và giúp cho mùi thịt trộn tiêu hành nước mắm trở nên dịu và ngào ngạt hơn. Dầu sả nhẹ hơn dầu mỡ nên làm cho nước bún nổi sao óng ánh, tránh được những váng mỡ nặng nề làm cho người ăn ái ngại. Một cây sả tươi cần chọn đoạn giữa vừa thơm, vừa phong phú tinh dầu. Đừng quên sả gốc nồng và chát, sả ngọn ít thơm và dễ làm cho nước bún nhiễm màu xanh của lá.

Trong nồi bún, nếu sả quyết định cho hương thì ruốc quyết định cho vị. Ruốc phải đánh loãng và thải hết chất bã. Ruốc nêm lúc nước còn lạnh để khỏi nặng mùi. Ruốc nêm đúng phân lượng sẽ làm cho nước bún có vị ngọt đậm đà và mùi thơm phảng phất chất mắm muối quen thuộc của đồ ăn Việt Nam. Ruốc nêm thiếu, nước bún sẽ “ỏn”, nghĩa là lạt lẽo, kém vị, thiếu mùi như nước ốc. Ruốc nêm thừa, nước bún sẽ “hăng”, nghĩa là mùi vị nặng nề, không tỏa ngát quanh tô bún mà có vẻ như chìm lỉm trong nồi nước bún.

Bên cạnh kỹ thuật và kinh nghiệm của người nấu, chất liệu cũng đóng một vai trò quan trọng cho hương vị của tô bún Huế. Chẳng hạn như thịt heo nấu bún Huế thường lấy từ thịt heo cỏ. Đó là giống heo nhỏ nuôi bằng rau, chuối nấu với cám gạo cốt để vừa lấy phân, vừa lấy thịt. Heo càng lớn càng dài ra và thịt rắn lại chứ không phát triển “sồ sề” như giống heo mẹo nuôi trong kỹ nghệ lấy thịt sau nầy. Giò heo do đó vừa chắc, vừa thơm, vừa ít mỡ. Giò heo lý tưởng cho tô bún là giò sau: “Nấu giò sau, cho nhau giò trước”.

Ngoài ra, rau hành, gia vị... thường được các bà Huế nêm theo kiểu “luyện công” nên mọi thứ đều được tính toán chi li vừa đủ phân lượng cần thiết. Có dịp nhìn một bà Mỹ vào bếp với dáng kích động như muốn nhảy “Disco” với soong chảo, một bà Nam nếm đồ ăn trên lò, miệng chưa tắt nụ cười vui sau câu cải lương mùi mẫn.... mới thấy được hình ảnh tay cầm đũa, mắt đăm đăm, môi chút chíp nêm đi nếm lại như đang “truyền tâm ấn” của một bà Huế trước nồi bún đang sôi là “thục nữ thần kinh”. Chính yếu tố địa phương, hoàn cảnh và tâm lý đã làm cho tô bún bò Huế trở thành ngon và độc đáo hơn vì nó được chuẩn bị, phục vụ và thưởng thức trong mức độ vừa đủ về lượng cũng như về phẩm.

Sự dễ dãi về hoàn cảnh sinh hoạt và phong phú về điều kiện vật chất có vẻ như có một tác dụng nghịch chiều cho tiến trình tạo nên cái vẻ thanh nhã truyền thống của tô bún bò Huế. Bún bò Huế càng tiến về Nam càng được thêm thắt như tà áo trắng biến thành áo gấm với phượng vẽ rồng thêu. Bún Huế chỉ cần vượt đèo Hải Vân vào Đà Nẵng là đã đổi khác:
Tô lớn hơn, mỡ màng và thịt, gân, rau hành nhiều hơn. Bún Huế tiến vào Sài Gòn thành tô “phở bún” xe lửa tàu bay với nước béo, rau sống, giá sống, thịt chả ê hề. Chính bún bò Mụ Rớt Huế vào Nam cũng đã chuyển mình thành “bún bò Mụ Rớt Nam Bộ”. Bún bò Huế càng được chiếu cố rộng rãi chừng nào, sự “sáng tạo” và biến thể càng nẩy mầm trăm hoa dua nở chừng đó.

Đến nỗi, một người thích “khảo” về các món ăn miền Trung gần đây như ông Đinh Miên đã phải lên tiếng “xóa óa” khi nhắc về bún bò Huế tại Mỹ trong bài “Cơm Việt, Quê Người”:
“Đi đâu cũng nghe bún bò Huế chính gốc mà không biết gốc gì, nên gốc gì cũng đặng!” (Việt IX - 95).
Ông Đinh Miên thuộc về trường phái “chịu chơi” khi luận về bún Huế. Ông cởi mở đón nhận sự chuyển mình của tô bún với vẻ cười cợt hồn nhiên như người đã biết là không thể tắm hai lần trên cùng một giòng sông.

Cũng có người muốn “ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng” lên tiếng cho rằng, tại sao những món ăn truyền thống của thế giới như Pizza của Ý, Kabob của Ba Tư, Taco của Mễ, Kentucky Fried Chicken của Mỹ, Mì Triều Châu của Tàu... đi đâu cũng nghe cùng một hương vị, mà Bún Bò Huế lại có người nấu Sở kẻ nêm Tần như vậy, sợ một ngày kia “mất giống” tìm đâu!? Có lẽ không ai trả lời được câu hỏi đó vì món ăn là một phần của văn hóa mà gốc của văn hóa là con người. Khi đất nước và con người còn đó thì ngại gì tô bún đổi thay.

Tuổi già của Huế thích lui về sống ẩn dật với quê hương, gần gũi với bà con làng xóm và mồ mã tổ tiên, nhưng tuổi trẻ lại thích bay xa tới những phương trời mơ ước. Niềm ước mơ của một đứa trẻ lớn lên sau lũy tre làng như tôi là làm sao được lên Huế học. Thành phố Huế cách làng tôi chưa đầy một giờ đi xe đạp nhưng đối với tôi thời nhỏ nó vừa thực vừa mộng như một vùng đất hứa. Có những buổi chiều đứng đầu ngõ nhìn những người lên Huế sắm hàng với các món đồ gói trong giấy, trong hộp đầy màu sắc gọi là “đi Dinh mới về”, tôi ước chi mình sẽ được lên Dinh

Tuy không có quy định thành văn nhưng con đường duy nhất để được lên Dinh ăn học đối với tuổi trẻ ở làng như tôi là phải thi đậu “Càng Cua” (concours) trước đã, đó là kỳ thi tuyển học sinh vào lớp đệ thất trường công mà trong toàn tỉnh Thừa Thiên chỉ có thành phố Huế mới có. Mẹ tôi thường nhắn gởi: “ Chuyến ni mà con thi đậu "càng cua", cực mấy mạ cũng gắng lo cho con lên Dinh học”.

Mẹ tôi dắt tôi lên Huế hai ngày trước khi thi “càng cua”, đi qua đi lại trước trường Hàm Nghi (ngày xưa là Quốc Tử Giám) nhiều lần cho quen đường đi nước bước. Tôi ở lại nhà chị Quyến tôi nơi đường Ô Hồ. Buổi sáng ngủ dậy, chị kêu gánh bún vào ăn điểm tâm.. Gánh bún õng ẹo trên đôi vai o gánh bún, có khói và hơi bốc nhè nhẹ xung quanh như một đầu máy xe lửa xuống đèo. Nghe chị đặt hàng, tôi có cảm giác hơi là lạ:
- O múc cho tô “trung”, bún vừa, nước xắp xắp thôi. Cho giò nạc búp, thêm cái ngoéo. Đổi huyết lấy bò bắp xắt vô. Khoát bớt ớt màu, bỏ hành rau răm rươi rươi thôi, ớt tương nước mắm bỏ riêng...

Người bán bún chừng như đã quá quen thuộc với lối đặt hàng rắc rối đó nên làm thinh múc bún. Nồi bún nóng thân tròn, miệng uốn trông như chiếc lư đồng cổ không nắp không chân, đặt trên lò lửa riu riu đỏ. Tay o cầm cái vá cán dài, quây một vòng trong nồi bún với dáng tay nhẹ nhàng và điệu nghệ như cô vũ nữ Thái múa điệu cánh sen. Cái vá dừng ở đâu trong nồi nước bún là “bắt” được ngay miếng thịt, miếng giò đang cần, chính xác như ra-đa tìm thủy lôi.

Một lát sau o mới hỏi:
- Ai ăn rứa?
Chị tôi trả lời một cách hãnh diện:
- Thằng em tôi dưới làng lên ở lại thi “càng cua”.
Tự nhiên o bán bún coi bộ quan tâm:
- Nì, nói chuyện vô duyên chơ học trò đi thi không nên ăn giò búp: búp hoài không nở thì mần ăn chi nữa. Để tui múc cho một cặp giò ngoéo: ngoéo trước, ngoéo sau thì rớt đi mô được, thi đậu chắc nụi!
Chị tôi coi bộ cảm động ra mặt vì gặp được “Thầy”... bún, nên nhiệt liệt ủng hộ ngay:
- May có o nhắc chớ không thì khổ em tui rồi. Rứa! Múc ngoéo vô đi o!
Thật tôi không ngờ bún Huế “linh” như vậy, nên hôm đó ăn tô bún Huế mà cảm thấy trân trọng và ngất ngây như uống rượu thánh.

Về làng, tôi thường ăn bún với nước mắm ớt.. Mẹ tôi có mấy lu ruốc bự bành ky để ở nhà dưới, nước mắm nhĩ trong vắt nằm một lớp trên mặt. Đem lúa đổi lấy bún vắt hay bún lá, rồi múc nước mắm nhĩ từ trong lu ruốc, ra vườn hái ớt xé vào. Bún tươi chấm với nước mắm nhĩ pha thêm ớt trái mùa Xuân ăn ngon “nhức răng”. Thêm vào đó, một năm đôi ba lần được ăn bún với nước xáo lòng gà, thịt bò nên chú bé quê trong tôi cũng đã bằng lòng lắm với cuộc đời đầy đãi ngộ nầy rồi. Nay được ăn tô bún Huế với những thịt thà thơm phức, với cách nấu bún công phu, cách múc bún điệu nghệ... làm cho tôi cảm thấy được “lây” cái văn minh sang cả của người thành phố.

Ngày đi thi, tôi dậy sớm trước khi gà gáy lại, hồi hộp chờ trời sáng để tới trường thi, nhưng trong lòng cũng cảm thấy thinh thích khi nghĩ đến tô bún Huế với cặp giò ngoéo có lớp da mềm mềm bao quanh những thớ gân dòn tan như ăn ổi đỏ ở làng. Hình như mới có hai buổi sáng trôi qua mà tôi nghe như đã bị phố phường cám dỗ. Buổi sớm tôi nghe mẹ tôi bàn bạc to nhỏ với chị tôi, rồi tiếp theo đó có người gánh gánh xôi vào trước hiên. Nhìn dĩa xôi đậu xanh chấm muối mè bày ra trước mặt, tôi bắt đầu hoang mang. Mẹ tôi hối:
- Ráng ăn xôi đậu muối mè đi con!
Khi tôi ngao ngán ngáp dài kêu mệt quá và muốn ăn bún chứ xôi đậu, muối mè khô khan quá nuốt không vô, mẹ tôi dịu dàng an ủi:
- Con thi xong rồi, ưng ăn bún cả gánh mạ cũng cho. Con di thi “càng cua” mà ăn bún vô trơn, nói trời không nghe lỗ miệng, chớ nó truột di thì thi hỏng mất!
Lúc trước mấy cậu con thi chi hỏng nấy là vì không nghe lời mệ ngoại, cứ dè ngày thi cử mà ăn bún không kiêng cử nên thi trợt tuốt luốt, phải xếp sách vở về quê đi cày. Chừ con gắng ăn xôi đậu, xôi muối mè dính mô chắc nấy, trời mới cho con đậu.

Tôi rướn cổ nuốt cho hết dĩa xôi mè vì thương mẹ hơn là sợ thi trượt. Tới ngày treo bảng, nghe loa đọc tên nhưng tôi không tin là mình đậu “càng cua” thứ nhì trường Hàm Nghi trong số hơn một nghìn thi sinh dự tuyển và có hai trăm trúng tuyển năm đó.

Suốt một đời, tôi không làm sao quên được hình ảnh mẹ tôi với hai hàng nước mắt sung sướng chảy dài trên đôi má phong trần vì lặn lội gieo neo nuôi con. Mẹ tôi nói như đã nắm được bí mật cuộc đời:
- Chộ chưa! Con nghe lời mạ, ăn xôi đậu nên mới thi đậu. Còn thằng Tý xóm Bàu, thằng Rô xóm Cụt, Thằng Lúi lò rèn to béo xắp hai con, nghe nói mỗi đứa ăn hai tô bún để đi thi nên trượt tuốt luốt..
Tôi muốn nói cho mẹ tôi biết bọn thằng Tý, thằng Rô, thằng Lúi... suốt cả mùa Xuân trốn học, thu sách vở trong bụi tre lá ngà đầu làng đi chơi; trong khi tôi học thuộc cháo sách Sử Ký của Trần Đinh, giải hết 1000 bài toán đố của Một Nhóm Giáo Viên, đọc nhuyễn 50 Bài Luận Mẫu và Tâm Hồn Cao Thượng của Hà Mai Anh... Thế nhưng nghỉ sao tôi lại thôi, vì mẹ cũng có một khung trời riêng của mẹ mà tôi chỉ dám núp sau áo mẹ để lặng im chiêm ngưỡng chứ không dám thả cánh chim lý luận làm huyên náo khung trời đó và làm mẹ buồn lòng.

Từ đó về sau nầy, tôi thường cố “cữ” ăn bún mỗi lần có thi cử. Ngay cả hơn 30 năm sau, khi tóc đã điểm bạc trên bước đường lưu lạc ở quê người, có những lần đi thi chuyên môn, đi phỏng vấn việc làm, đi thi tốt nghiệp trong trường đại học Mỹ, tôi vẫn “kiêng” ăn bún nhưng chỉ tìm cách né tránh âm thầm chứ không dám nói ra vì sợ bị chọc quê. Thật ra, mỗi lần đụng đến thi cử là tôi lại nhớ mẹ đến quặn lòng, nên tôi cử ăn bún để được cái cảm giác ấm áp thiêng liêng như hôm đó mình đang có mẹ thật gần.

Đến khi lên Huế học, những huyền thoại về bún bò Huế càng có vẻ mọc cành mọc lá sum sê hơn. Thế giới học trò cũng nhỏ bé và xinh xinh như thành phố. Phía sau trường Hàm Nghi của tôi là Viện Bảo Tàng và nhà thờ Nguyễn Phước Tộc hay là Tôn Nhân Phủ.. Bên kia đường là cửa Hiển Nhơn vào Đại Nội. Kế đó, có hai trường văn nghệ nhất Huế, đó là trường Quốc Gia Âm Nhạc và Cao Đẳng Mỹ Thuật mà lũ học sinh nghịch ngợm của chúng tôi thường chọc mấy anh chị sinh viên bằng cách gọi là “Trường Kèn” và “Trường Cọ”.

Sinh viên hai trường Kèn Cọ thường la cà ở quán cà phê Tôn, nơi đó, thật ra chỉ là một chiếc xe kiểu xe sinh tố đặt mé trái trước Tôn Nhân Phủ do vợ chồng bác Tôn đứng bán bún bò và cà phê. Giới nghệ sĩ lang thang thường bàn luận một cách công khai rằng, ngày nào vợ chồng bác Tôn không cãi nhau là ngày đó bún bò không ngon vì thiếu đi cái “tinh thần hào sảng” của cặp vợ chồng bác Tôn khi nấu bún.

Giới văn nghệ sĩ cà phê Tôn còn đi xa hơn khi kháo nhau rằng nếu lỡ một mai kia, lịch sử thành thơ đưa họ lên làm lãnh tụ, thì họ sẽ đặt tên con đưòng từ Vỹ Dạ lên Ga Huế là "Đường Cơm Hến" và đường từ cầu An Cựu lên cầu Trường Tiền là "Đại Lộ Bún Bò" vì mỗi buổi sáng tinh sương, dọc trên con đường nầy có cả đoàn bún gánh phát xuất từ An Cựu tỏa ra khắp thành phố Huế. Khói xanh đun nồi bún bay phơ phất trên đường như một sự mời gọi êm đềm: Bún bò An Cựu, cơm hến Đò Cồn, trứng lộn Chợ Dinh, bánh canh Nam Phổ...

Cũng may hay cũng buồn, lịch sử không phải là thơ nên tuy Huế có những con đường tình cảm mang tên kỷ niệm và giai nhân bất thành văn như đường Hàng Me, đường Áo Trắng, nhưng vẫn chưa có tên đại lộ Bún Bò.
Bản thân tôi từ một vùng quê ruộng đồng lên tỉnh học, sau mấy năm học đòi văn hóa Huế, cũng bị nhiễm bún bò rất nặng.. Tôi đã ưu tư nhiều về sự hiện diện của bún bò giò heo kể từ khi làm quen với một cô hàng xóm nhân dịp cô đi xe đạp, vạt áo dài tung bay phất phới và cuốn theo chiều gió mà quấn vào trong giây "sên", trong "ổ líp".

Tôi bèn ra tay cứu khổn phò nguy gỡ áo em ra và không quên bôi thêm dầu sên lên tay lên mặt cho ra vẻ lẫm liệt, can trường. Tên cô là Mộng Hoàng, tất nhiên có cái họ đi trước rất chi là thế gia vọng tộc. Chỉ mới cái tên thôi cũng đủ biến tôi thành Trương Chi bên cạnh Mỵ Nương đi xe đạp mất rồi. ễ làng, tôi đi từ xóm trong ra xóm ngoài để sưu tầm những tên giai nhân đẹp nhất thì cũng chỉ có những Nguyễn Thị Gái, Trần Thị Chắt, Lê Thị Dẹp... đào đâu ra có Mộng, có Hoàng.

Những buổi sáng, tôi và Hoàng vẫn đạp xe đạp song song chung đường từ Thành Nội, qua cầu Trường Tiền, rồi Hoàng vào Đồng Khánh và tôi vào Quốc Học. Đôi ba lần Hoàng quay sang phía tôi cười, một phiến ớt màu bún bò tí ti đỏ chói nằm trong góc chiếc răng khểnh trắng nõn nà của Hoàng. Tự nhiên tôi cảm thấy hơi mất đi cái cảm giác thanh thoát khi nhìn sự hiện diện vô duyên của ớt màu nằm trên chiếc răng khểnh duyên dáng đã làm tôi xao xuyến bao lần. Tôi lên tiếng, nhẹ nhàng như nắng, sợ làm vỡ những giọt sương tình cảm long lanh. Rồi cả hai đứa dừng lại, đứng khuất sau gốc cây long não, tôi xé mảnh giấy trắng nhất trong tập vở học trò, vo lại thành cây tăm và nín thở khêu chút ớt màu bún bò vô tình nằm chênh vênh không đúng chỗ. Hai đứa nói nhỏ như ngại hàng long não đứng nghe..

Hoàng vùng vằng sợ tôi nhìn sâu hơn đáy mắt:
- Ngó dữ chưa tề, dị chết!
Tôi thanh minh như Vương Tử Trực:
- Coi tề, không ngó chộ mô mà khêu!
Khi lên xe đạp đi tiếp, Hoàng phàn nàn, cái phàn nàn mà tôi cho rằng đáng lẽ ra là một sự biết ơn:
- Me phiền dễ sợ! Sáng mô cũng bắt Hoàng ăn bún bò ớn phát sợ luôn.

Cái "ớn phát sợ" của Hoàng lại là cái ước mơ ngoài tầm tay của đám học trò nghèo như tôi. Cứ tưởng tượng mỗi buổi sáng, khi trời Huế còn lành lạnh mà được ăn một tô bún bò giò heo, có váng mỡ vàng mơ ngã hồng trên mặt, nêm thêm một "múi đũa" ớt tương màu huyết dụ chắc sẽ sáng mắt sáng lòng mà học một nhớ mười. So với một chén cháo gạo với muối trắng của tôi hay một chén cơm chan chút nước mắm ớt của tụi bạn cùng hoàn cảnh ăn điểm tâm trước khi đi học, tự nhiên một cảm giác hơi buồn buồn pha chút tủi thân lặng lẽ dâng lên trong lòng. Bún bò tự nó không có giai cấp, nhưng giai cấp tự nó có bún bò: Phận nghèo bấm bụng nằm co. Giàu thời nem chả, bún bò giò heo!
Tuổi trẻ của Huế êm đềm và dễ hòa diệu sống như giòng sông Hương. Tôi đã quên rất nhanh hình ảnh tô bún bò của Hoàng và chén cháo gạo của tôi.

Hai đứa chưa bao giờ dám nói thương nhau mà chỉ lửng lơ nói chuyện đã cùng "thương con đường đi học".. Mỗi cô gái Huế đều có một bà chúa trong hồn và mỗi cậu con trai Huế đều có một ông hoàng trong bụng. Bà chúa thì thích sang mà ông hoàng thì thích ngọt, cho nên tôi đã nhẹ dạ nghe Hoàng dỗ ngọt mà hẹn hò lần đầu lên chùa Thiên Mụ và về ăn bún bò Kim Long.

Chúng tôi đã phạm vào hai điều tối kỵ làm tan vỡ bao nhiêu mối tình đầu đẹp như mơ của Huế: Đó là hẹn hò lần đầu không được lên chùa Thiên Mụ và không được ăn bún. Đồi Linh Mụ là đất thần kinh, nơi để chiêm bái chứ không phải là nơi tính chuyện ân tình hò hẹn.. Tình cảm trai gái chớm mầm trên đất thánh thì sẽ không bén rễ trong tim người. Còn ăn bún là trơn tru, không níu kéo như gừng cay muối mặn, nên cuộc tình rồi cũng theo bún mà trôi đi! Rất có thể bà Linh Mụ đã nhìn thấy tôi và Hoàng hò hẹn, cho nên mới "xui" về Kim Long ăn bún. Bởi vậy, nên tới Hè, Hoàng giã từ Đồng Khánh, chuyển qua Jeanne d'Arc để chuẩn bị đi Tây.

Kỷ niệm chia tay cũng êm đềm mà nhức buốt như những cơn mưa phùn tháng Giêng của Huế. Hoàng gởi cho tôi cuốn sổ lưu bút có giấy pơ-luya màu xanh, màu trắng, màu hồng; có thắt nơ tím với câu thơ tiếng Tây quá quen thuộc với tuổi học trò của Huế ghi nắn nót ở trang đầu: "Partir, c'est mourir un peu!... Ra đi là chết trong lòng một ít. Biết nói sao bây giờ?!". Tôi là học trò ban B (Toán - Lý Hóa toàn ròn) nên trong đầu lúc nào cũng lùng bùng ròng những đạo hàm và ẩn số của thầy Trần Tuệ và thầy Hồng Giũ Lưu. Huế lại là vùng đất ưa hò vay trả.

Đào đâu cho ra chút văn chương man mác nòi tình mà đáp lại cho Hoàng đây. Tôi bỏ cả việc đi trại Hè để cố đào cho ra dăm câu thơ nếu không “ác liệt” thì ít ra cũng có vẻ môn đăng hộ đối với Hoàng. Bên tê dẫn thơ Tây thì bên ni phải trích thơ Mỹ. Tôi vô thư viện, tìm mục thơ tình lãng mạn để kiếm vài câu làm thuốc. Thơ tình chết tiệt rủ nhau trốn đâu mất cả. Bí quá, bỗng vớ được vài câu thơ đề tựa cuốn sách của Helen Steiner Rice, tôi thấy như mở cờ trong bụng: “Somebody loves you than you know. And will always be with you wherever you go!” (Ai nào thấu hết tình ai.. Chân mây góc biển thương hoài ngàn năm). Và, để phụ đề Việt ngữ tôi chọn hai câu thơ của Hàn Mặc Tử, đọc đi đọc lại đắc ý nổi da gà: “Người đi một nửa hồn tôi mất, Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ!”.

Kèm với thơ thẩn là cái lược bằng gỗ trầm hương, vật kỷ niệm của mẹ, tôi xin và tặng lại cho Hoàng mà bỗng tự cảm thấy mình sâu sắc như một người tình trong chuyện thần thoại;Năm 1992 về lại con đường cũ, đọc thơ Xuân Hoàng mà nhớ bâng khuâng đốm ớt bún bò và nét cười răng khểnh:
Con đường xưa vẫn dáng dấp diệu kỳ...
Tôi đi trên đường Lê Lợi dọc sông Hương

Nắng trong suốt lọc qua hai hàng long não

Đất nước đổi thay qua bao mùa giông bão


Hơn mười năm, tôi mới có dịp trở lại chen chân trên đường phố Huế vào một buổi chiều 29 Tết. Đi trong nắng cuối Đông dìu dịu thương quen của Huế mà cứ ngỡ như mình mới xa Huế hôm qua. Nghĩ đến mai xa Huế tự nhiên tôi có cảm gíác như mình là kẻ phụ tình với Huế. Huế vẫn lặng lẽ chờ đợi như người tình trăm năm mà tôi thì cứ dứt áo ra đi lang bạt kỳ hồ.

Rồi quả đất cũng tròn và thế giới nầy cũng nhỏ nên “những kẻ phụ tình với Huế” vẫn có lúc gặp nhau ở quê người như một sự tình cờ của định mệnh. Hơn 30 năm sau, rất tình cờ, tôi gặp lại Mộng Hoàng ở Little Sàigòn, Quận Cam Ca-li. Tôi nhận ra Hoàng, bà chủ tiệm ăn có tên vừa Tây vừa Huế, nhờ chiếc răng khểnh "thương bắt chết" vẫn tô điểm cho nụ cười duyên dáng ngày xưa. Tất nhiên, tôi từ phương xa ghé vào đây cũng vì món "bún bò Huế chính gốc". Nhắc chuyện cũ, cả hai đứa cùng cười ngặt nghẽo. Giọng Hoàng tuy phảng phất một chút âm vang trời Tây nhưng vẫn chưa phai màu Huế:
- Thời nớ, răng tụi mình dễ thương dễ sợ hí!
Tôi cười cười nhắc lại:
-Sau nớ, còn ai khêu ớt trên răng cho Hoàng nữa không?
Mắt Hoàng bỗng thoáng một chút trầm tư "nhắc làm chi sương khói thuở xa xăm" và ánh lên màu kỷ niệm:
- Lạ chưa tề. Nhắc chi nữa, dị chết!

Tôi nhìn Hoàng. Mắt bâng quơ đậu trên vài ba sợi tóc loà xòa điểm bạc. Hoàng biết và ngúng nguẩy che đi. Hoàng nói thật bất ngờ, giọng trang đài như đọc câu thơ tình thời cổ:
- Chải lược trầm hương nên sớm thành tóc bạc!
Tôi hiểu Hoàng nói gì nhưng phản ứng như anh học trò cả ngố:
- Thơ của ai rứa Hoàng?
Hoàng trả lời “mần đày”:
-Thơ ai? Thơ ông cai bến đò!
Đàn bà Huế mà đã “mần đày” thì Tần Thủy Hoàng cũng phải biết rằng mình đã lỡ vô tình, cần lẳng lặng chui vào ổ rơm nằm ngủ qua đêm.

Rứa đó! Dân Huế suốt đời vẫn là những đứa trẻ thơ mỗi lần nhớ Huế, nhớ những kỷ niệm đã thiu thiu ngủ trong ký ức và trên quê mẹ của mình.
Xa quê, rủ nhau ăn một tô bún bò Huế nấu bằng heo Mỹ, bò Anh, ruốc Tàu, bún Nhật.... Miếng ăn có thể khác nhau vì ngon hay dở, nhưng nỗi nhớ quê nhà thì vẫn hiu hắt giống nhau trong cùng thẳm của mỗi tấm lòng. Bún bò Huế đã vượt sông Mỹ Chánh ra Bắc, vượt đèo Hải Vân vô Nam, vượt trùng dương sang Âu tới Mỹ.

Giữa những phố phường xa lạ quê người, đọc trên một tấm biển của một tiệm ăn nào đó có ghi “Bún Bò Huế”, người Việt tha hương nào mà khỏi thấy lòng mình ấm lại. Bún Bò Huế không còn là riêng của Huế mà hương sả nồng, vị ớt cay, mùi ruốc mặn đã thấm vào mạch đất quê hương và lòng dân tộc Việt đầy yêu thương nhưng cũng lắm đoạn trường chưa có ngày sum họp.

TKĐ

Thứ Sáu, 21 tháng 1, 2011

ĐỂ GỬI XA XÔI - HOÀNG LỘC


dù có cánh cũng biển trời gió sóng
tôi làm sao có thể kịp bên người
thành phố buồn và cây lá không vui
tôi đi suốt một mình tôi, với nắng

người cứ phải đời người ta, rất bận
cả trang thơ cũng coi bộ lơ là ?
hẹn bao giờ, lời hẹn đã phôi pha ?
để tôi nghĩ tôi quá chừng tuyệt vọng

ngày cứ tắt và trời thêm buốt lạnh
ngồi thâu canh mới biết chuyện đêm dài
một tấm lòng chỉ gửi một xa xôi
người có phải là em không, có phải ?

HL
12-2010

Thứ Năm, 20 tháng 1, 2011

CAO HUY KHANH - VIỆT NAM HỒ SƠ HẬU CHIẾN 1975-2011(KỲ 55)


NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ

551 - Lê Văn Cong
ANH EM CONG, QUẸO
Người khuyết tật sinh 1984 tại Bình Thuận. Sống ở TPHCM (2011).
Ngay từ thủa lọt lòng đã mắc phải di chứng CĐDC nên thân thể gần như bại liệt luôn chịu đựng những cơn đau dữ dội khiến mỗi lần như vậy cả thân người oằn xuống rồi cong lên như con tôm vì đau đớn nhức xương rát thịt chịu không thấu. Bởi vậy mẹ mới đặt tên là… Cong!
Còn ngươì anh sinh trước 2 năm thì tựa người không xương, tay chân vừa ngắn củn cởn vừa mềm oặt có thể cầm lên… bẻ lui bẻ tới như cao su vậy. Từ đó cũng được mẹ đặt tên là Lê Văn… Quẹo!
May sao được cơ sở từ thiện giúp gia đình nuôi nấng, dần dà cho học thêm nghề âm nhạc – đàn địch, thổi sáo… -- vừa để giải khuây vừa mong sau này có thể lấy làm kế sinh nhai qua ngày.
Đến khi trưởng thành nhờ có nghề nhạc 2 anh em mới được giới thiệu về Cơ sở khuyết tật An Phú ở TPHCM sinh hoạt trong đội văn nghệ nơi đây. Rồi qua năm 2008 từ đó hình thành “Đội Văn nghệ Da cam” ngồi xe lăn đi trình diễn khắp nơi từ TPHCM đến các tỉnh lân cận vừa phục vụ vừa có thêm thu nhập chút ít.
Chừng đó cũng lấy làm mãn nguyện rồi như người anh tự hào: “Chúng tôi sống phải dựa vào quá nhiều người, từ ăn uống tắm rửa đến cả đi vệ sinh. Nhưng chúng tôi khong phải vô dụng vì đã mang lời hát, tiếng đàn rộn ràng, vui vẻ đến cho nhiều người.

552 - Lưu Quang Vũ
TƯỢNG ĐÀI KỊCH HẬU CHIẾN CHẾT BI THẢM
Nhà thơ, nhà viết kịch sinh 1948 tại Vĩnh Phú – Mất 1988 ở Hà Nội (41 tuổi).
Xuất thân từ gia đình văn nghệ sĩ kháng chiến chống Pháp (bố gốc Đà Nẵng tập kết), năm 1965 tình nguyện vào bộ đội lúc mới 17 tuổi chưa đủ tuổi phải nhờ ông chú xin giùm mới được chấp nhận!
Làm lính phòng không sửa chữa máy móc trên trận địa bảo vệ bầu trời Hà Nội chống máy bay Mỹ. Được suất đi Liên Xô học 5 năm vẫn từ chối để ở lại hòa mình vào cuộc chiến đấu chung. Bắt đầu làm thơ.
Chứng kiến bao thảm cảnh chiến tranh ngay tại thủ đô dưới làn mưa bom Mỹ -- “Thành phố vừa trải qua/ Những trận bom hủy diệt/ Lòng cha giờ giập nát/ Những xác người máu loang…” -- nên ngày 30.4 giải phóng miền Nam lập lại hòa bình thống nhất đã có ý thức rất rõ ràng nhạy bén về một thời Hậu chiến đang đến với biết bao bộn bề khó khăn trăn trở qua một loạt bài thơ ấn tượng sâu sắc, sáng suốt. Qua đó thể hiện niềm tin con người VN sẽ dũng cảm đứng dậy vươn lên từ đống tro tàn khói lửa để làm lại tất cả, từ đó le lói niềm hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn.
Từ mô tả tình cảnh sau chiến tranh:
“Cuộc chiến tranh thế là đã đi qua
Cỏ trên đường bắt đầu xanh lại
Bao xác xe bên đường cháy rụi
Những người tản cư nườm nượp trở về nhà…
……………………………………….
Bây giờ lại bắt đầu những khó khăn của thời hậu chiến
Chưa ai dựng nhà trên bãi nền đổ nát
Nơi máu đổ quá nhiều
Chưa ai dám trồng hoa
Chưa ai yêu thương bên huyệt mộ căm thù….”
Đến niềm tin vào con người, vào tình thương yêu loài người, vào thế hệ tiếp nối sẽ chung sức dựng xây lại tất cả:
“ Đứng bên thềm em lặng lẽ nhìn con
Chúng sẽ nối lại chiếc vòng sẽ đi hết con đường
Bằng hy vọng của em trên mặt đất.”
(Tháng 5)
Hoặc:
“Bài học của chiến tranh, thật lạ lùng sao
Lại là sắc trời xanh đơn giản ấy
Giờ chẳng khó nào làm ta sợ hãi
Tình yêu của em đã dẫn lối anh về.”

(Tháng 5.1975)
Và bản thân sẵn sàng tham gia góp một tay vào công trình đó với tràn ngập lòng yêu quê hương đất nước:
“Ước chi được hóa thành ngọn gió
Để ôm trọn vẹn nước non này
Để thổi ấm những đỉnh đèo buốt giá
Để mát rượi những mái nhà nắng lửa
Để luôn luôn được trở lại với đời.”
Ấy là khí thế của tuổi trẻ thời này tràn đầy niềm lạc quan cách mạng lý tưởng chủ nghĩa, hoàn toàn trong sáng vô vụ lợi quên mình cống hiến cho đất nước, dân tộc với ước mơ “trở thành người tốt và có ích”, “làm được những việc có ích”.
Tất cả niềm tin yêu con người, cuộc đời hướng về triển vọng một xã hội mới, cuộc sống mới tươi đẹp đó sau 75 khi chuyển qua làm tạp chí Sân khấu bắc cầu vào thế giới sân khấu bắt tay vào viết kịch (đã có sẵn gien từ bố là nhà thơ cũng là soạn giả kịch) như cá gặp nước. Từ đó đã viết nên hàng loạt vở kịch thành công rực rỡ, ăn khách gây tiếng vang cả nước.
Với nội dung, đề tài xoay quanh xã hội thời hậu chiến bắt đúng mạch thời đại cổ vũ tuổi trẻ nhiệt huyết đấu tranh xây dựng cuộc sống mới, tình người, tình bạn, tình yêu hoàn hảo tốt đẹp. Nhưng trong bối cảnh xã hội VN hậu chiến đầy phức tạp trăn trở khác với thời chiến tranh với nhiều vấn nạn đòi hỏi thay đổi triệt để cả hệ thống lẫn tư duy không thể tránh khỏi cuộc chiến chống lề thói quan liêu bao cấp tiêu cực của xã hội miền Bắc trước kia nay không còn phù hợp nữa.
Vì vậy có một số vở kịch ban đầu đã bị giới bảo thủ giáo điều “đánh” nhưng trong thời điểm những năm 80 “Đêm trước Đổi mới” nên vẫn được dư luận quần chúng hết sức ủng hộ thừa thắng xông lên: “Mình cứ viết thật nhiều, họ “đánh” chưa xong vở này thì mình ra vở khác rồi, họ chả kịp đánh tiếp nữa đâu!”
Từ đó đã lập vô số kỷ lục bất hủ trong lịch sử kịch nghệ VN sau này khó ai theo kịp: Viết gần 60 vở kịch trong vòng 8 năm với mức trung bình 7 vở/năm, có khi viết cùng lúc 4 vở. Đó là Sống mãi tuổi 17 - Tôi và chúng ta - Lời thề thứ chín - Tin ở hoa hồng - Lời nói dối cuối cùng - Ông không phải là bố tôi - Nàng Sita - Hoa cúc xanh trong đầm lầy – Bệnh sĩ - Cô gái đội mũ nồi xanh – Vụ án 2.000 ngày – Nguồn sáng trong đời – Khoảng khắc và vô tận - Hồn Trương Ba da hàng thịt (gần đây được đưa lên phim truyện nhựa)….
Là tác giả đoạt nhiều huy chương nhất trong một hội diễn với 10 huy chương gồm 8 Vàng, 2 Bạc trong Hội diễn Sân khấu toàn quốc 1985; tác giả có vở diễn được nhiều đoàn dàn dựng nhất với khoảng 150 đoàn trong cả nước, trung bình hàng đêm có chừng 20 đoàn diễn, có nơi một đêm đến 6 đoàn diễn 6 vở khác nhau (TP HCM,1988), có đêm hơn 40 đoàn cả nước diễn kịch của mình, có đợt Đoàn Kịch Hà Nội diễn lên tục 180 suất vở “Tôi và chúng ta” tại Nhà hát lớn TPHCM. Nhiều vở được chuyển thể qua các loại hình sân khấu khác. Có nhà nghiên cứu ngồi tổng kết 3/4 số Nghệ sĩ Nhân dân và Nghệ sĩ Ưu tú hiện nay đều nhờ “bệ phóng” kịch Lưu Quang Vũ!
Ngoài kịch, còn tiếp tục làm thơ, viết truyện ngắn với 3 tác phẩm đã xuất bản.
Đang lúc đạt đỉnh cao tài năng thì cuối tháng 8.1988 cùng vợ và con (vợ sau là nhà thơ nữ có tiếng Xuân Quỳnh, con trai 13 tuổi cũng được phát hiện có năng khiếu làm thơ và vẽ đã in một tập thơ kèm tự minh họa) sau một chuyến đi làm việc với đoàn kịch trên đường ngồi ô tô bạn lái từ Hải Phòng về Hà Nội đã gặp tai nạn thảm khốc bị xe phía sau đâm tới đã làm cả gia đình 3 người thiệt mạng! Vợ và con văng ra ngoài chết ngay tại chỗ, bản thân chấn thương nặng được bạn vác lên vai chạy đến bệnh viện gần đó thì tắt thở (còn để lại một người con trai duy nhất đời vợ đầu).
Uy tín, ảnh hưởng nghệ thuật lớn tới mức sau đó có lời đồn đại ca nhà chết do bọn tiêu cực bị kịch anh phê phán… thủ tiêu!
Quá bi thảm, quá tiếc nuối cho một thiên tài kịch nghệ tài hoa mệnh bạc khi mà bao mơ ước, sáng tác vẫn còn hứa hẹn rất nhiều chưa kịp hoàn thành khiến “thấy mình vẫn chưa làm được bao nhiêu “ (1987).
Và điều lạ lùng nữa như một “cái chết được báo trước” khi bản thảo vở kịch cuối cùng hoàn thành mang tên “Điều không thể mất”, còn bản thảo dở dang lại có tựa đề tiền định “Chim sâm cầm đã chết” - sâm cầm, loài chim quý hiếm.
Cũng như những câu thơ “điềm báo” làm trước đó vài tháng:
“Ta chỉ mới bắt đầu những ngày đẹp nhất
Vở kịch lớn, bài thơ hay nhất
Dành cho em, chưa kịp viết tặng em
Tấm màn nhung đỏ thắm
Mới bắt đầu kéo lên…”
(Thư viết cho Quỳnh trên máy bay)

553 - Phạm Phước Đại
ĐỘI LỄ TANG TỰ NGUYỆN
Nông dân sinh 1926 tại Bình Thuận. Sống ở Bình Thuận (2011).
Trong chiến tranh chống Mỹ là tiểu đội trưởng du kích từng bị địch bắt giam tra tấn. Ngoài ra còn tham gia ban phụ trách miếu thần Long Hương trong huyện Tuy Phong vốn có tập tục nhận chôn xác người vô thừa nhận kể từ nạn đói năm 1945.
Sau 75 trở về làm dân thường ngoài việc làm lụng nuôi gia dình, khi rảnh rỗi tìm cách khôi phục hoạt động của hội miếu thần Long Hương trước kia. Từ cơ sở đó năm 1981 xin lập Hội Phước Thiện để cáng đáng công việc từ thiện này.
Trong hơn 30 năm qua đã phát triển, đẩy mạnh họat động của hội đặc biệt qua đội phục vụ lễ tang với khoảng 60 thành viên tự nguyện sẵn sàng lo liệu mọi công đoạn đưa tang hoàn toàn miễn phí. Đối với người chết vô gia cư vô thừa nhận vẫn cử hành lễ tang đúng nghi thức đàng hoàng, sau đó đưa vào thờ trong miếu do hội chủ quản và hàng năm đều có làm lễ cúng giỗ trang trọng.
Hơn 50 năm làm việc “phúc đức” như vậy dù gia cảnh vào hàng nghèo khó một vợ 5 con. Chỉ vì tâm nguyện: “Bởi mình nghèo nên phải thương nhau, việc có nghĩa có tình mà không làm thì làm việc chi… Người chết có chỗ an thân thì người sống mới thật sự bình yên, thanh thản tâm hồn.”

554 - Tạ Văn Năm
TỪ BẮT VƯỢT BIÊN THÀNH TỔ CHỨC VƯỢT BIÊN!
Thường dân sinh 1932 tại Cà Mau. Sống ở Cà Mau (2007).
Tham gia kháng chiến chống Mỹ ở địa phương, sau 75 được cử giữ chức Phó phòng Thủy sản huyện Ngọc Hiển.
Năm 1982 được phân công vào tổ “đặc nhiệm” của huyện – gồm quân đội, công an, huyện ủy… - theo dõi bắt các vụ vượt biên trái phép vốn đang “thịnh hành” thời này.
Kết quả thế nào không biết nhưng đùng một cái đến tháng 8 năm đó thì bị… công an bắt giam với tội danh “Đưa rước người vượt biên”, từ cán bộ chống vượt biên thành kẻ đầu têu… vượt biên! Nhưng công an lại không hề lập án truy tố hay ra tòa mà cứ giam như vậy suốt 36 tháng (cả Viện Kiểm sát huyện cũng không biết) rồi… thả ra “không nói năng gì”!
Thế là bắt đầu hành trình gian khổ hơn 20 năm ôm đơn đi kiện kêu oan tứ phương chuyện mình chẳng có tội gì mà lại bị cầm tù khơi khơi, đến khi về mất hết mọi quyền lợi, chức vụ, công ăn việc làm. Kêu oan rằng nguyên nhân sâu xa của vụ này là do trong quá trình bắt vượt biên, tổ “đặc nhiệm” đã thu giữ một số lượng vàng và tiền của dân vượt biên nhưng sau đó không báo cáo lại tổ chức. Bản thân mình có biết nên những cán bộ cấp lãnh đạo thoái hóa “lạm giữ” số tài sản này bỏ túi riêng sợ bị tố cáo mới tìm cách ém nhẹm, bịt đầu mối như thế đối với mình.
Nhưng vào thời đó việc kiện cáo kiểu đó không đi đến đâu vì luật pháp lỏng lẻo trong khi các “thủ phạm” đều nắm quyền cao chức trọng tại chỗ dễ dầu gì khui ra đánh bật gốc được.
Mãi đến năm 2001 huyện ủy mới nơi này mới có văn bản minh oan cho là “không có tội”, thừa nhận việc làm trước đây của công an là sai nhưng không hề đá động đến chuyện xin lỗi, phục hồi danh dự công khai hay bồi thường gì cả. Qua năm 2004 cả Bí thư Tỉnh ủy cũng hứa giải quyết rồi… cho qua luôn.
Bởi cũng rất khó cho việc lật lại hồ sơ vụ án đã quá lâu qua thời hạn “hồi tố” nhất là khi các nhân chứng lẫn kẻ phạm tội giấu mặt nào đó nay hoặc đã về hưu hoặc… chết hết rồi!

555 - Tạ Vĩnh Cư
BỘ ĐỘI BỊ “NHẦM” LÀ… CIA!
Thường dân sinh 1928 tại Cà Mau. Sống ở Cà Mau (2000).
Bộ đội đánh Pháp ở Cà Mau, đến 1954 tập kết ra Bắc để lại vợ cũng là Việt cộng hoạt động nằm vùng chống Mỹ.
Năm 1962 vào Nam trở lại làm tiểu đoàn phó rồi Trưởng ban Tác chiến Tỉnh đội Cà Mau nổi tiếng đánh giặc giỏi. Gặp lại vợ sinh được một con trai.
Nhưng cuối năm 1967 trong khi chuẩn bị cho trận chiến Mậu Thân 1968, do tính tình bộc trực thẳng thắn đã có quan điểm mâu thuẫn chống đối cấp trên nên bị bắt giam giao nhiệm vụ đánh Mậu Thân lại cho người khác. Kết quả trận này không khả quan, lực lượng bị thiệt hại nhiều nên mình lại bị cấp trên tìm cách đổ tội cho là làm… tay trong của CIA để lộ tin tức mới dẫn đến tổn thất vừa qua! Do đó từ “tù nội bộ” bị chuyển qua “tù địch”!
Qua năm 1969 bỗng nhiên Mỹ đem trực thăng và tàu chiến đánh vào trại giam nói là “giải thoát” cho nhân viên CIA bị bắt – chính là mình! - rồi đưa về Sài Gòn xác minh thấy không phải CIA bèn quay qua chiêu hồi theo chúng. Kiên quyết từ chối nên bị đẩy xuống giam ở Cần Thơ một thời gian, cuối cùng chuyển ra nhà tù Phú Quốc.
Năm 1973 được thả trong cuộc trao đổi tù bình 2 phía. Không thể tìm về đơn vị bộ đội cũ vì vẫn còn mang “án treo” CIA chưa biết thực hư thế nào nên đành theo về quê sống với vợ lúc này cũng xem như bị liên lụy ngưng công tác phải làm nghề thiến heo nuôi con.
Tiếp tục sống như thế sau ngày hòa bình, trong cảnh… nửa cách mạng nửa CIA! Nhưng khi tình hình đã ổn định thì cách mạng không “quên” đâu nên năm 1977 lại bị chính quyền mới… bắt giam lần nữa để sưu tra cho ra sự cố bị tố CIA nằm vùng trước kia. Tuy nhiên kết quả sưu tra không tra ra gì cả nên năm 1982 đành thả ra song cẩn thận viết giấy gọi là “tạm tha” để tránh đương sự kiện cáo cựu bộ đội bị ở tù vô cớ bởi… phe ta!
Nhưng tuổi già sức yếâu kèm bệnh tật đủ thứ qua nhà tù 2 chế độ “bỏ tù lẫn nhau” – bệnh tê thấp làm phù thủng cả người rồi tai biến mạch máu não nằm liệt mấy năm – thì hơi tàn nào nữa mà đi kiện cáo? Chỉ có đơn vị bộ đội cũ thương tình cấp cho giấy chứng nhận bộ đội phục viên để khỏi bị ai gây phiền hà.
Còn nghi án CIA xưa kia thì mãi mãi là một bí mật lịch sử đành mang xuống tuyền đài thôi. Chắc chắn là bị cấp trên vu oan nhưng còn chuyện Mỹ giải cứu thì lý do tại sao, do Mỹ cũng tưởng thật hay cố tình tiếp tay dựng lên với ý đồ lung lạc chia rẽ nội bộ cách mạng đồng thời khai thác thông tin từ một tay CIA “giả”?

556 - Tam Lang
THẦN TƯỢNG BÓNG ĐÁ 2 CHẾ ĐỘ
Cầu thủ, huấn luyện viên bóng đá về hưu tên thật Phạm Hùynh Tam Lang sinh 1942 tại Gò Công. Sống ở TPHCM (2011).
Trước 75 là cầu thủ bóng đá đội Cảnh sát quốc gia chế độ cũ nổi tiếng là một “trung vệ thép” từng mang băng đội trưởng Đội tuyển VNCH đoạt giải quốc tế danh giá nhất thời này là Cúp Merdeka của Malaysia năm 1966, đuợc đưa vào Đội tuyển Châu Á. Lại có phong cách đạo đức mẫu mực, nghiêm túc mà vẫn mang dáng dấp nghệ sĩ tài hoa đẹp trai nên sau chiến tích đó đã thành hôn với nữ nghệ sĩ cải lương thanh sắc vẹn toàn nhấùt lúc đó là “Cải lương chi bảo” Bạch Tuyết (ly dị năm 1974).
Gắn lon trung sĩ “lính kiểng” cảnh sát đá banh nên sau 75 chỉ đi cải tạo… 3 ngày rồi được cho về tiếp tục đá bóng ở đội Cảng Sài Gòn. Đáng ngạc nhiên hơn nữa là cầu thủ “tại chỗ” duy nhất năm 1981 được cử đi học khóa huấn luyện viên ở CHDC Đức, sau đó về dẫn dắt đội CSG suốt 28 năm giành 4 chức VĐQG và có lúc được cử lên làm Trợ lý HLV Đội tuyển VN.
Thì ra nhờ lý lịch có cha là… liệt sĩ thời chống Pháp, hy sinh trong tù mất xác năm 1945, một mình mẹ ở vậy nuôi con trai duy nhất. Vì vậy sau này khi có người đề nghị giúp vượt biên đã từ chối vì lý do phải ở lại lo chăm sóc mẹ già.
Sau khi về hưu, đội CSG từng là niềm tự hào truyền thống của bóng đá TPHCM dần dà xuống dốc cuối cùng đi tới chỗ giải thể luôn vào năm 2009. Vì thế phần mình vẫn đau đáu lo âu cho nền bóng đá TP nên có dịp là vẫn muốn đóng góp giúp vực dậy làng bóng vang bóng một thời này từng đứng đầu toàn quốc nay đã rơi tự do xuống nhóm chót bảng cả nước.

557 - Tăng Bồn
“NGƯỜI ĂN XIN GIÀU CÓ NHẤT”
Bộ đội về hưu sinh 1930 tại Quảng Nam. Sống ở Quảng Nam (2009).
Về hưu về lại quê nhà xã Đại Hồng sinh sống.
Không ngờ xã này lại là tâm điểm của CĐDC, trở thành là “thung lũng da cam” của tỉnh với số nạn nhân trẻ em nhiều nhất cấp xã với khoảng 200 em di chứng đến thế hệ thứ ba. Vì thế với cương vị Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ đã cùng với một người bạn già đồng đội cũ suốt hơn 20 năm nay miệt mài cần mẫn làm công việc đạp xe đạp đi… “ăn xin” tiền khắp nơi về giúp đỡ các gia đình có con bị nhiễm CĐDC trong xã.
Xin cơ quan đơn vị lẫn cá nhân cả trong nước và Việt kiều chủ yếu là dân đồng hương xứ Quảng: “Cả đời tôi tình nguyện đi xin tiền xin gạo cho các cháu, tôi đi ăn xin là để giúp người nên có gì mà lấy làm xấu hổ…” Ban đầu chỉ đi xin quanh quẩn trong dịa phương, sau dần cũng “cạn vốn” nên mở rộng ra đến thị xã Tam Kỳ rồi đến TP Đà Nẵng nữa, có khi còn ra tới Hà Nội và vào tận TPHCM.
Vợ mất một năm rồi vẫn tiếp tục lên lưng ngựa sắt bôn ba đường trường với niềm vui tự hào là “người ăn xin giàu có nhất xin cả tiền triệu để đổi lấy cả trăm nụ cười” từ bao đồng bào bất hạnh của mình.

558 - Thái Bá Lợi
NHÀ VĂN VÀO CHÙA
Nhà văn sinh 1945 tại Nghệ An. Sống ở Đà Nẵng (2011).
Trong chiến tranh chống Mỹ là bộ đội quân y sĩ giải phẫu tiền phương trên chiến trường Bình Trị Thiên và Quảng Nam – Đà Nẵng. Thuộc thế hệ nhà văn trẻ nhất trước khi kết thúc cuộc chiến với nhiều dấu hiệu phát triển tài năng mới mẻ.
Sau 75 trụ lại Đà Nẵng trở thành nhà văn chuyên nghiệp viết về đề tài chiến tranh đã trải qua như một sứ mệnh bởi “Quên đi quá khứ là thấy mình có lỗi”. Từ đó cho ra đời một loạt tác phẩm truyện vừa, tiểu thuyết – “Hai người trở lại trung đoàn”, Những người ở trong rừng ra”, “Họ sống cùng thời với những ai”, Bán đảo”, “Trùng tu”…, có tác phẩm đoạt giải Hội Nhà văn VN - vẫn với nội dung chiến tranh nhưng được phản ánh bằng một cái nhìn khác có chiều sâu tư tưởng chủ yếu khắc họa về những số phận con người bị cuốn vào cơn lốc máu lửa. Và đặc biệt bằng một văn phong, bút pháp mang dáng dấp hiện đại ngắn gọn, thâm trầm gợi mở từ đó nhiều suy nghĩ, vấn đề triết lý.
Đang lúc thăng hoa văn chương như vậy đột ngột… bỏ vào chùa đi tu bắt đầu từ một sự cố “khó nói” trong gia đình!
Một thời gian sau rời chùa trở về đời sống bình thường tiếp tục viết nhưng từ đây có thể thấy rõ dấu ấn của tinh thần Phật giáo trong tác phẩm: “Dù viết về cái xấu hay cái tốt, về người lớn hay trẻ em, về quá khứ hiện tại hay tương lai cuối cùng vẫn là đề cao giá trị tinh thần vốn có của con người.”
Kể cả khi viết tác phẩm mới nhất, tiểu thuyết lịch sử “Minh sư” in năm 2010 kể chuyện về chúa Nguyễn sùng mộ đạo Phật: Để hoàn thành nó, đã vào chùa Vũng Tàu ở luôn mấy tháng trời. Còn năm trước thì cũng vào chùa cùng dự cả khóa an cư kiết hạ kéo dài 3 tháng dành cho nhà sư!

559 - Thái Tuấn
KHÔNG GÌ HƠN QUÊ HƯƠNG
Họa sĩ tên thật Nguyễn Xuân Công sinh 1918 tại Hà Nội – Mất 2007 ở TPHCM (90 tuổi).
Từng học trường Mỹ thuật Đông Dương cùng khóa 1 với Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí, Bùi Xuân Phái nhưng là dân Công giáo nên năm 1954 di cư vào Sài Gòn mới bắt đầu cầm cọ và viết lý luận phê bình trong nhóm Sáng Tạo tập trung văn nghệ sĩ miền Bắc bỏ đi với ý hướng xây dựng một nền VHNT mới cho miền Nam tách rời độc lập với miền Bắc cộng sản.
Trở thành họa sĩ và nhà lý lụân phê bình hội họa hàng đầu của miền Nam, riêng về viết lý luận phê bình hội họa là vì “không ai viết”, viết ít nhưng sâu sắc, tính tri thức và tư tưởng cao (đã tái bản hai cuốn “Câu chuyện hội họa” và “Tuyển tập tranh và tiểu luận”).
Với quan điểm hội họa thuần túy, hội họa thuần khiết hướng đến lý tuởng tinh thần thanh cao tối thượng; một thứ hội họa vĩnh cửu, phi thời gian, không cần sự tiến bộ, không lệ thuộc thị hiếu, không quan tâm tương lai. Mặt khác, mang tính dân tộc đậm đà qua phong cách – gần với Dương Bích Liên - qua mẫu đề tài ưa thích thường xuyên nhất là hình ảnh người phụ nữ Thanh Hoá xưa mang áo dài – hình ảnh người vợ – toát lên vẻ giản dị, trong sáng, thánh thiện.
Chuyên vẽ sơn dầu theo phong cách kết hợp kỹ thuật tranh thủy mặc như một thủ pháp Việt Nam hóa. Qua nét họa đơn giản nhẹ nhàng, dịu dàng, màu sắc “mềm” chú trọng để mở những khoảng trống vời vợi mông lung trên tranh cho trí tưởng tượng người xem bay bổng vượt không gian thời gian.
Trong đời sống riêng rất có tư cách, nghiêm túc, đứng đắn, khiêm tốn, tránh xa chính trị, không hề chạy theo thời thượng hoặc vinh danh thế sự. Nên nghèo.
Năm 1984 theo gia đình qua định cư Pháp. Đến 2005 sau khi vợ mất đã trở về nước, ban đầu chỉ định thăm con trai còn ở lại nhưng sau đó quyết định ở luôn (trả lại vé máy bay khứ hồi về Pháp): “Không nơi nào đẹp và nhiều kỷ niệm bằng quê nhà dù vẫn đôi lúc còn nhiều chuyện bực bội, phiền phức.”
Về để tìm lại niềm vui cuộc đời nghệ sĩ như ngày xưa tuy nay mang căn bệnh thanh quản mãn tính làm giọng khò khè khó nghe. Chiều chiều ngồi vỉa hè uống cà phê cóc nhìn người người qua lại, nhìn cuộc đời đi diễu hành trước mặt, ngước lên nhìn bầu trời mây trắng mây xanh – như trong tranh - trôi qua trên đầu. Và vẽ.
Đúng vậy, đã tìm lại niềm đam mê vẽ (ở Pháp, có khi qua Mỹ cũng có vẽ nhưng ít thôi và vẫn quanh quẩn đối tượng người phụ nữ VN kia) dù phải sống trong hoàn cảnh vô cùng thiếu thốn nơi căn nhà cũ đã giao cho con trai, trong một căn phòng bé xíu 6m2 được sắp xếp thành “xưởng vẽ”, trong một ngõ hẻm ngoằn nghèo chật hẹp mà xe gắn máy cũng khó vào. Nhưng vẫn miệt mài vẽ.
Cứ như thế trong một năm vẽ xong 12 bức. Vẽ nhiều và nhanh trước kia chưa từng vì “chưa hài lòng với chính mình”, có đưa ra triển lãm năm 2006 gồm 13 bức chỉ có một vẽ ở Pháp khổ nhỏ nhất -- cuộc triển lãm cuối cùng.
Sau đó bệnh già nằm liệt ba tháng rồi ra đi. Thanh thản như một người đã ngộ chất Thiền lạ thay sau này lại thấm sâu vào tâm hồn một người theo đạo: “Vẽ đủ rồi, sống đủ rồi, viết đủ rồi.”

560 - Thanh Campbell
BABYLIFT TÌM LẠI GIA ĐÌNH
Việt kiều Canada tên cũ Nguyễn Ngọc Minh Thanh sinh 1974 tại Long An. Sống ở Canada (2011).
Mới một tuổi thì do hoàn cảnh chiến sự căng thẳng được cha mẹ (cha là nhà giáo) đem gửi cùng 2 anh vào cô nhi viện ở Cần Giuộc – Long An nơi có người thân làm giám đốc nhờ nuôi giùm một thời gian ngắn chờ tình hình yên ổn sẽ đón về lại.
Không ngờ mình là em út đứa nhỏ nhất bị “cầm nhầm” đưa lên Sài Gòn theo chiến dịch Babylift do chính phủ Mỹ tổ chức đưa khoảng hơn 2.000 trẻ mồ côi VN qua Mỹ và một số nước khác (Canada, Uùc, Châu Au) vào thời điểm tháng 4.1975 trước ngày Sài Gòn thất thủ. Chiến tranh chấm dứt, cha mẹ đến cô nhi viện đón con về mới hay tin động trời đó, chỉ còn lại 2 đứa con trai lớn hơn mới không bị đem đi. Cha mẹ cất công tìm kiếm kể cả sau này nhờ liên lạc tìm ở Mỹ đều không kết quả.
Phần mình được chia về Canada, sau đó được gia đình một mục sư tại đây nhận làm con nuôi, đặt lại tên theo họ mới Campbell. May mắn khi ra đi được gửi theo giấy khai sinh và cả chiếc vòng đeo tay có khắc tên mình sau này vẫn còn lưu giữ.
Lớn lên ra đời làm giám đốc bộ phận một tổ chức phi chính phủ, lấy vợ sinh 4 con.
Năm 2006 theo bạn bè cũ cùng chuyến bay Babylift năm xưa quay lại thăm quê mẹ được báo chí VN chụp ảnh đưa tin viết bài chi tiết. Và từ một bức ảnh chụp mình khá rõ mặt trên báo đó, người cha nhìn thấy giống mình quá mới nhờ tờ báo liên lạc hỏi giùm, cả người em trai (sinh sau) cũng gửi email qua trình bày câu chuyện, gửi thêm bản sao giấy khai sinh cũ còn giữ được để đối chiếu. Tất cả đều chứng thực đúng là người con, người anh Babylift lưu lạc từ cô nhi viện Cần Giuộc lúc mới một tuổi. Tiến hành xét nghiệm ADN so sánh ở Canada cũng đã xác nhận.
Sau kết quả thử ADN, cha con đã nói chuyện qua điện thoại liên lục địa hơn 2 tiếng đồng hồ (người con qua phiên dịch vì đã quên hết tiếng mẹ đẻ) kết thúc bằng lời nói bập bẹ mới tập của người con “Con thương ba lắm”.
Rồi cả bố nuôi và vợ con cùng theo mình về nước trong cuộc tái ngộ đoàn viên gia đình sau hơn 30 năm ly tán, chỉ tiếc người mẹ đã qua đời với lời trăng trối để lại chồng rằng bằng mọi giá phải tìm lại “tội nghiệp con tôi”.
Nay ước nguyện đó đã hoàn thành, chỉ có điều người cha còn áy náy sợ con hận mình đã bỏ rơi nó nhưng tất cả được giải tỏa hết vì với người con thì “Nay tôi đã có nhiều hơn bất kỳ ai, tôi có 2 gia đình, 2 ông bố và nhiều anh em. Tôi cảm thấy mình rất có phước rồi…”
(Còn tiếp)