Thứ Bảy, 31 tháng 3, 2012

CÓ THỂ - TRẦN DZẠ LỮ



Có thể em là Tần phi xưa
Để anh đứng đợi đã bao mùa
Ai vô trong Nội ôm niềm nhớ
Ai ở ngoài thành hứng gió mưa?

Có thể đêm trăng cũng bằng thừa
Khi tình đứt đoạn,xót xa đưa…
Anh ở bên ni sầu bấn loạn
Cấm Thành dấu ngọc đã buồn chưa?

Có thể anh là vua-ngu-ngơ
Qua thành hát dạo mấy câu thơ
Người đời đâu mấy ai tri kỷ
Chiều hỡi! Ai về nơi dấu xưa?

Có thể là em biết đợi chờ
Ngọc ngà trong tiếng nói như mơ
Đường bay số phận:Thiên tình lụy!
Nên vẫn đăm chiêu mãi đến chừ…

Có thể anh buồn như củi khô
Bên thành tắt nắng một thu xưa
Ai cùng chúa Thượng say men rượu
Để mộng anh phơi áo hải hồ?

Tần phi ! Tần phi còn bơ vơ
Một ngôi sao lẻ đến không ngờ
Đêm nay ta vẫn chôn chân nhớ
Em cấm cung rồi em biết chưa?

Trần Dzạ Lữ
( SàiGòn , tháng 3 năm 2012 )

Thứ Sáu, 30 tháng 3, 2012

CHẮP TAY DÒNG ĐỜI ( KỲ 10 ) - VÕ CHÂN CỬU




Những Xứ Đấu Bò




Miền Tây Nam bộ là vùng đất mới đã phổ biến đầu tiên chữ quốc ngữ bằng báo chí, tân văn…Lịch sử luôn kỳ vọng nó sản sinh những nhà sáng tác tầm cỡ…
Diễn tiến lịch sử, các sáng tác từ miền đất mới vẫn khó tạo được dấu ấn để đi sâu vào lòng mọi người như các tác phẩm truyền thống kết tinh từ “ngàn năm văn vật”. Kể từ lúc manh nha (với Tao đàn Chiêu Anh Các ra đời năm 1736, thời Mạc Thiên Tích nối nghiệp cha làm Tổng trấn Hà Tiên), đến những nổ lực của các nhà trí thức cổ vũ sử dụng chữ quốc ngữ như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của…, và các thế hệ nối tiếp, văn chương và thơ ca Nam bộ vẫn bị chê là…nôm na, bình dân. Ở đây chưa có nhiều áng văn đẹp nằm sâu trong lòng người. Nguyễn Đình Chiểu qua truyện thơ Lục Vân Tiên dù có những nổ lực nhằm hài hòa cách hành văn “bác học” với lối nói “bình dân”, thì vẫn có những kết cấu từ ngữ rất thô kệch, què quặt, như câu “Vợ Tiên là Trực chị dâu, Chị dâu em bậu có đâu lỗi nghi(”. Do vậy gần đây, khi có nhà phê bình văn học hải ngoại nổ lực chứng minh rằng bài thơ Nôm “Con cóc trong hang…” là một kiểu thơ “hiện đại”, người ta không khỏi cho rằng đó là sự cố tình giễu cợt. Thời kỳ 1954-1975, nhiều tác giả Nam bộ như Lê Xuyên, Dương Trữ La, Dương Hà…đã chiếm lĩnh trên các tủ sách tiểu thuyết (cho thuê), hoặc truyện dài nhiều kỳ (Feuilleton) trên trang trong các tờ nhật báo. Nhưng người đọc vẫn chưa thể xóa được ấn tượng Văn học Miền Nam thiên về lối “diễn tình”, chỉ phục vụ…giải trí.
Vấn đề này xin để lịch sử tiếp tục soi xét. Riêng trong cõi thơ, thì miền châu thổ giàu phù sa này đã sản sinh ra nhiều tác giả mở đường trong nền Văn Học Miền Nam (VHMN) 1954-1975.
Từ năm 1965, khi những cây bút mới ở Miền Trung như tôi bắt đầu đăng những sáng tác mang tính thơ ngây trên các trang văn nghệ ở các nhật báo Sài Gòn thì ở Miền Tây đã có những Văn Đoàn, Bút Đoàn khá mạnh. Tại Sóc Trăng, bấy giờ là tỉnh Ba Xuyên, từ năm 1962 nhóm học sinh Trung học với những Trần Phù Thế, Mây Viễn Xứ (sau ký Lâm Hảo Dũng), Lưu Vân…đã lập ra nhóm Cung Thương Miền Nam. Họ có tuổi sắp vào đời nên ngôn ngữ ngày càng sát với chiến cuộc xã hội. Sau 1965, khi Tạp chí Văn ra đời, các cây bút Miền Tây này liền có bài đăng. Lúc này, những cây bút nào xuất hiện trên Văn coi như được công nhận là “tác giả” !

Qua sông
Qua sông nước lớn trăm bề
Hồn như trải rộng lối về thênh thang
Nhớ đâu tình đã phai vàng
Cành chiêm bao bỗng treo ngang phận người

( Về lại đồng bằng)
Những câu lục bát trên đây của Lưu Vân như diễn tả hết đặc điểm của vùng đất. Chàng trai miền châu thổ không xa rời với khí hậu tinh thần chung của cả Miền Nam lúc chiến tranh bùng phát. Đến khi lên sống với Sài Gòn, qua bài thơ làm ngày 1-1-1968, ông đã kịp nhận ra:
khi nào ta đi xa rồi ta sẽ nhớ sàigòn
với đàn bò thành phố với trịnh công sơn
với nhạc du ca hát buồn thế nào,
giữa đám đông ồn ào, đàn bò xa lạ
cái gọi là chúng ta-trong đó-những con bò ngu đần-những con bò bơ vơ
cái gọi là chúng ta-là tập thể - có người già, người trẻ
là cổ thụ, dòng sông, là đồng lúa không người, là núi cao, là chỗ cúi đầu.
như lửa bốc ngầm-một sự cháy âm ỉ.
…….
khi nào ta đi xa rồi, biết còn nhớ sàigòn
với ngày đám đông-đêm giới nghiêm
vì ta là người-thật không phải người
vì ta là bò - là bò hay người
sao tiếng người thảm thương
như sự phản bội
như đàn bò - như sàigòn - như đấu trường.

ta sắp đi xa rồi, một con bò sắp đi xa rồi
sao buồn không muốn bước
sao đường không lối đi
ngày thênh thang
buồn ơi-buồn-buồn ơi
cái khoảng cách nào đã réo gọi hồn người
người đâu cần nghe- bò đâu cần nghe- bò ngu đần
người và b ò- bò và người- đó những điều thương.


Ta sắp đi xa rồi, một con bò sắp đi xa rồi
Sao buồn không muốn bước
Sao đường không lối đi
Ngày thênh thang.
Buồn ơi-buồn-buồn ơi
Cái khoảng cách nào đó réo gọi hồn người
Người đâu cần nghe - bò đâu cần nghe - bò ngu đần

Người và bò - bò và người - đó những điều thương.
(Sàigòn, xứ đấu bò)
Bài thơ in trên Tập san Văn vào thời điểm chiến sự Mậu Thân diễn ra trên các đường phố của Sài Gòn cũng như các thành phố cho thấy tâm trạng chán nghán của tuổi trẻ trước cuộc chiến nồi da xáo thịt. Tác giả cũng như bao lớp người trẻ không hiểu “bởi đâu, những đàn bò không có ý nghĩa cao siêu/ bởi đâu, những đàn bò húc nhau…”. Trước cuộc chiến tranh vô nghĩa, nhiều người cầm bút trẻ các nơi đã lựa chọn sự phản kháng qua trang giấy. Những “văn thơ phản kháng” ngày càng xuất hiện rộng rãi khắp nơi trên các báo chí công khai cũng như bí mật.

Miền “Nhân sinh”
Nha Trang, thành phố tuyệt đẹp bên bờ biển Miền Trung lúc này cũng trở thành một căn cứ quân sự lớn. Cảng Cam Ranh được quân đội Mỹ lập thêm sân bay phản lực. Căn cứ Dục Mỹ thành nơi đào tạo binh chủng biệt kích. Sau 1972, trường hạ sĩ quan Đồng Đế được nâng cấp để có thể mở các khóa đào tạo sĩ quan cấp tấp.
Xóm Chụtt là xứ thong dong
Cởi áo giăng mùng, nằm đợi ghe lên
Xóm chài nhỏ ở phía nam thành phố với câu ca dao diễn tả cảnh thanh bình khi những chuyến ghe bầu cập bến không còn nữa. Nơi đây nằm cạnh sân bay Nha Trang, đã thành trường đào tạo sĩ quan hải quân với vòng kẽm gai bao quanh. Nhà anh Nguyễn Văn Tản, một người yêu văn nghệ ở Chụtt vẫn rộng cửa đón tôi mỗi lần ghé đến Nha Trang. Anh Tản có cha vợ là Viện trưởng Viện Hải Dương học được mọi người nể trọng. Nhóm sáng tác mang tên Nhân Sinh tập hợp các cây bút trẻ như Nguyễn Sa Mạc, Nguyễn Âu Hồng, Trần Vạn Giã, Thế Vũ…biết có tôi về, vẫn thường kéo xuống nhà anh Tản bàn chuyện văn chương, đi ngoạn cảnh mà không sợ bị dòm ngó.
Thành phố Nha Trang có nhà sách Huy Hoàng khá lớn nằm trên đường phố chính Độc Lập (sau 1975, nhà sách này bị quốc hữu hóa, nhiều trí thức vốn là người của “cách mạng” từng được anh cưu mang tại đây có can thiệp nhưng không được). Chủ hiệu sách, ông Nguyễn Huy Hoàng là một Phật tử có lòng bao dung, sẵn sàng dung chứa những người làm văn nghệ đang thất cơ lỡ vận khắp mọi miền về tá túc. Từ năm 1971, ông cất thêm mấy nhà bằng gác gỗ sau lưng nhà sách làm nhà nuôi trẻ bụi đời. Nguyễn Sa Mạc sau khi đào ngũ về trở thành nhân viên nhà sách. Sau đó, Vũ Hữu Định, Nguyễn Miên Thảo, Phạm Tấn Hầu… trên đường xuôi ngược, trốn quân dịch, không tờ giấy lận lưng. Tấp vào đây, ai cũng được anh biến thành nhân viên nhà trẻ bụi đời. Tôi có giấy hoãn dịch, được anh dành cho một ghế xếp tại văn phòng trên gác để ở lại bàn chuyện văn chương. Nhà nuôi dạy trẻ bụi đời của anh Huy Hoàng trở thành nơi phổ biến kinh nghiệm qua mặt các trạm kiểm soát để những “trốn lính mà vẫn đi giang hồ”.Kinh nghiệm của Vũ Hữu Định : tìm hiểu trước tên tuổi người chỉ huy từng trạm. Lính chưa kịp kiểm tra thì Định đã nêu tên người chỉ huy ra, hỏi “ Hôm nay đại úy…có nhà không, nhắn là thi sĩ…gửi lời thăm”. Thế là anh đi trót lọt suốt từ Đà Nẵng tới Sài Gòn !
Làm nhân viên nhà sách, có số tiền dành dụm được từ lương nên cuối năm 1971, Nguyễn Sa Mạc (NSM - nay là Nguyễn Hoàng Thu) đứng ra chủ trương Tạp chí văn nghệ và nhà xuất bản Nhân Sinh. Anh vốn là thông dịch viên, từng theo các đoàn hành quân hỗn hợp tại Gia Nghĩa, Bảo Lộc trốn về. Số ra mắt, bìa Tạp chí được in Typo thẳng thóm, cuối trang ghi rõ chủ đề : “Nam Việt Nam và Mặt trận văn hóa của Thực dân mới” ! Phần ruột gần 100 trang được quay Ronéo theo cách “tự cào”(thủ công).
Văn nghệ Miền Nam lúc này, bên cạnh các tạp chí chính thống như Văn, Bách Khoa, Vấn Đề, Khởi Hành, Thời Tập, đã xuất hiện nhiều ấn phẩm của các “phong trào” đấu tranh thuộc các tổ chức tôn giáo, đảng phái. Nếu hám danh, người viết dễ bị lợi dụng làm bung xung cho phái này, phe nọ. Tất cả đều núp dưới chủ trương chống chiến tranh, chống độc tài. Chỉ qua vài đoạn văn, người đọc có thể nhận ra thâm ý của tác giả và nhóm chủ trương. Nhóm nhân sinh là của những người trẻ thật lòng. Họ miêu tả cảnh khổ của người trốn lính, của lao công đào binh…Cuộc chiến khốc liệt đã biến họ trở thành những “Tên Phiêu Bạt” (NSM), phải mang “Những Vòng Hoa Ngụy Tín” (Thế Vũ)…
“Nhân Sinh” số ra mắt được đăng quảng cáo đàng hoàng trên Tạp chí Bách Khoa. Tuổi trẻ thường háo thắng, nên NSM liều mình đem chưng ra luôn tại các nhà sách. Anh dặn người bán sách : “An ninh có hỏi thì nói của ai đó đem đến gửi bán, nhân viên không rõ”. Nhưng các anh đã quá ngây thơ. Đội kiểm tra đặc biệt đã nhận ra dòng chữ cuối bìa: Nam Việt Nam và Mặt trận văn hóa của Thực dân mới”. Báo bị tịch thu, người chủ trương phải trốn biệt. NSM phiêu bạt ra tận Đà Nẵng rồi vô Sài Gòn làm nghề thầy cò (sửa mo-rát) cho các nhà in để tiếp tục tìm cách in Ronéo các tập thơ, truyện thuộc NXB Nhân Sinh…Cuối cùng, năm 1973 anh cũng bị bắt trở lại vì tội “đào ngũ” !
NSM kể: thời gian ở Sài Gòn anh chơi khá thân với nhiều nhà thơ là sĩ quan quân đội VNCH. Họ có xe Jeep, có thể chở anh đi chơi an toàn, không bị xét giấy tờ. Một bữa, anh cùng Yên Bằng, một nhà thơ thân thiết của các nhóm Cung Thương Miền Nam, Hồn Trẻ Hai Mươi hồi còn ở quê Miền Tây. Có hôm cả hai ngà ngà vào một quán Bar trên đường Tự Do. Một lính Mỹ đen sàm sỡ với các chiêu đãi viên. Yên Bằng trong quân phục lính trận đã nổi máu yên hùng, rút súng bắn thị uy. Cả hai điềm nhiên lái xe đi ! Từ đó anh hiểu thêm cái “chất” của các bạn văn nghệ Miền Tây !
Nha Trang vừa là căn cứ quân sự, vừa là hậu cứ lớn của Vùng II chiến thuật. các sĩ quan, hạ sĩ quan đào ngũ, trí thức trốn lính bị bắt có quê vùng nam Trung bộ đều được đưa về giam tại quân lao Nha Trang trước khi ra Tòa án quân sự. Cả Nguyễn Đức Sơn lẫn Hồ Ngạc Ngữ năm 1973 bị bắt ở Bảo Lộc đưa xuống nhà giam quân lao Nha Trang đều tuyệt vọng vì không có nguồn thăm nuôi. Nhưng cả hai đều lần lượt bất ngờ khi bị một quản giáo kêu lên phòng trình diện. Các anh sau đó được xếp vào một khu riêng, được cho ăn uống đầy đủ, cả ngày chỉ bị sai làm việc vặt…Té ra viên sĩ quan quản giáo bí mật ấy chính là nhà thơ tác giả bài “Sài Gòn-Xứ đấu bò”. Thi sĩ Lưu Vân đã tìm cách “cứu” các bạn văn thi sĩ trong khả năng của mình. Để tất cả không chỉ là những con bò ! Những trường hợp đặc biệt thì cậy nhờ “Đại úy quân pháp”, Luật sư, Kịch tác gia Dương Kiền giúp.
Cuộc chiến tranh phi nghĩa cũng phải đi qua. Mọi người hy vọng “bò sẽ là bò, người sẽ là người”. Các cây bút của nhóm Nhân Sinh chống chủ nghĩa Thực dân mới vì lòng yêu nước bộc phát chứ không để mưu cầu chức tước. Một trong những cây bút chủ biên của nhóm là thi sĩ Trần Vạn Giã ngậm ngùi từ giã thành phố thân yêu để về vùng kinh tế mới Đất Sét :
Nha Trang

Tạm biệt Nha Trang năm ba mươi tuổi
Năm vầng trăng lịm tắt giữa đêm sâu
Ngôi sao lạ mọc trên đời thương nhớ
Và một mình anh ngồi hát Thánh ca

Bài Thánh ca trong mưa, trên lá
Trôi nổi đời người chảy suốt những mùa đông

Anh biết Nha Trang lòng như thuở ấy
Nhưng lỡ rồi không biết tại ai
Nên kỷ niệm gọi đời anh mãi mãi
Tình nhớ này đành đếm những đầy vơi

Đêm Nôen đêm một đời đã đến
Lời thơ ơi có ấm tiếng chuông rơi
Nha Trang - Nha Trang xa dìu vợi
Chắc cát lặng thầm trên biển ngàn khơi

( còn tiếp)

Thứ Năm, 29 tháng 3, 2012

CAO HUY KHANH - VN HỒ SƠ HẬU CHIẾN 1975 - 2012 (KỲ 106)



NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ

1061 - Chị Nga
GIA ĐÌNH “XƯƠNG THỦY TINH”

Lao động nghèo người khuyết tật sinh khoảng 1963 tại miền Nam. Sống ở TPHCM (2012).

Bản thân và anh trai cùng em gái song sinh từ khi sinh ra đã mắc chứng bệnh “xương thủy tinh” tức xương dễ gãy, vỡ không thể đứng thẳng người mà phải lết đi, thường xuyên phải nẹp những chỗ xương gãy. Nhưng gia đình nghèo không có phương tiện chạy chữa thuốc men cho đỡ hơn.

Đã vậy, gặp lúc chiến tranh khốc liệt cả 3 được cha mẹ bỏ vào quang thúng gánh mang chạy tránh bom đạn rồi thất lạc. Cuối cùng cả 3 được lính VNCH tìm thấy trong rừng cao su mới đem vào cho trại mồ côi Công giáo ở Thủ Đức (ngoại vi TPHCM bây giờ) nuôi.

Sống ở trại mồ côi đến năm 1988 em gái song sinh cũng do bị “xương thủy tinh” gãy làm trượt té chấn thương sọ não qua đời. Còn lại một mình đi học văn hóa (tốt nghiệp lớp 12) đồng thời lo chăm sóc cho anh trai vừa bị “xương thủy tinh” vừa thiểu trí năng không tự lo được cho bản thân.

Đầu những năm 1980 hai anh em được chuyển đến trại mồ côi Thị Nghè vẫn ở TPHCM. Tại đây gặp được người yêu cũng là trẻ mồ côi có cha mẹ bị trúng đạn chết trong một trận càn, riêng mình thì bị thương vào chân thành tật đi khập khiễng.

Từ đó cả hai cùng đưa ông anh thiểu trí năng rời khỏi trại mồ côi ra ngoài sống riêng rồi làm lễ cưới năm 1999. Sau đó gia đình nhỏ 3 người bắt đầu lao vào cuộc kiếm sống ngoài đời vất vả.

Ban đầu vợ làm nghề thêu may học được từ trại mồ côi, chồng đi bỏ hàng và phụ việc nhà cho vợ. Sau một thời gian mối hàng may ít, vợ phải ngồi xe lăn đi bán vé số (chồng phải bế lên xe lăn) ban ngày, tối về mới may vá hàng gia công.

Thế rồi có thai con đầu lòng định bỏ đi vì sợ lại mắc bệnh “xương thủy tinh” di truyền thành què quặt tội nghiệp nhưng may siêu âm thấy vẫn bình thường nên bác sĩ khuyên giữ lại. Quả thật vậy, đứa con trai lớn lên lành mạnh khỏe khoắn.

Đến cháu trai thứ hai cũng tưởng vậy ai ngờ cháu lên một tuổi mới phát hiện dính bệnh như mẹ và cậu phải đi bệnh viện nẹp tay hoặc nẹp chân thường xuyên mỗi khi xương bị vỡ, thời gian nằm bệnh viện còn nhiều hơn ở nhà! Tuy nhiên rồi thì cả 2 vợ chồng đều hầu như không còn ngạc nhiên gì mấy trước số phận đã quá quen rồi: “Trời cho thế nào mình phải nhận vậy thôi.”

Có khi cả 2 mẹ con cùng đi viện bó xương, còn ở nhà mỗi khi cần di chuyển thì con lết phía trước và mẹ lết phía sau để còn chăm con khỏi bị té ngã nữa!

1062 - Dương Kiền
MỘT THỜI “VĂN HỌC”

Nhà thơ, nhà viết kịch, luật sư Việt kiều Na Uy sinh 1939 tại Huế. Sống ở Na Uy (2012).

Năm 1962 còn là sinh viên Luật ở Sài Gòn tham gia trong phong trào sinh viên trí thức đấu tranh chống chế độ Ngô Đình Diệm đã cùng một số bạn bè cùng trang lứa sáng lập tạp chí Văn Học lo phụ trách phần nội dung (cùng Phan Kim Thịnh làm chủ nhiệm chịu trách nhiệm quản lý chung, sau chuyển dần thành bán nghiệp san).

Với tinh thần và lý tưởng tiến bộ của lực lượng sinh viên trí thức “dấn thân” thời này, đã xây dựng nội dung báo vừa có tính thời sự thiết thân đề cập đến các vấn đề chính trị – xã hội – văn hóa thực tế nóng bỏng vừa nâng cao trình độ kiến thức cả người viết lẫn người đọc. Tất cả đều nằm trong chủ trương xây dựng một xã hội miền Nam không Cộng sản mà vẫn hòa bình thịnh vượng, tự do dân chủ nhưng với Cộng sản chỉ đấu tranh ôn hòa thay vì bạo lực trong tinh thần “anh em một nhà”.

Điều này phản ánh qua một số đề tài thể hiện trên mặt báo như giới thiệu các tác giả bị miền Bắc bạc đãi như Hoàng Cầm, Hoàng Công Khanh, Vũ Anh Khanh, Quang Dũng, Hà Minh Tuynh, Nhất Linh; giới thiệu tác phẩm “Bác sĩ Jivago” của B. Pasternak đoạt giải Nobel nhưng bị chính quyền Liên Xô thời đó phủ nhận giá trị… Đồng thời vẫn kêu gọi, cổ vũ cho ngưng chiến hòa đàm…

Được sự hỗ trợ tích cực của lứa sinh viên cùng chí hướng cũng là những cây bút trẻ có tiềm lực và nhiệt huyết gồm Thế Uyên, Nguyễn Hữu Dung, Bùi Ngọc Dung, Trần Triệu Luật, Trần Quang Long, Nguyễn Trọng Văn, Luân Hoán… Dần dần cả những tác giả tiến bộ khác ngoài giới sinh viên cũng gia nhập đội ngũ như Hoàng Ngọc Biên, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Xuân Hoàng nên báo đạt chất lượng nâng tầm đáng kể - sâu sắc và tiến bộ - nhất thời này.

Bản thân nguyên là nhà thơ và viết kịch (có vở “Mắc lưới” được tặng giải thưởng quốc gia chế độ cũ năm 1966) cũng góp bài viết về các đề tài thời cuộc.

Tuy nhiên qua giai đoạn sinh viên lên ngôi trên chính trường miền Nam đến thời các “tướng trẻ” Thiệu – Kỳ nắm quyền và Mỹ can thiệp sâu thì tình hình miền Nam nhanh chóng đổi khác với chiều hướng chiến tranh dữ dội hơn. Từ đó quan điểm “đối thoại” hòa bình với miền Bắc phá sản nên nhóm Dương Kiền bắt buộc phải rút khỏi báo để tránh cho báo khỏi bị đóng cửa! (Để tồn tại, sau đó báo biến thể thành một loại tạp chí khảo cứu văn học tạp lục trình độ giáo khoa vô thưởng vô phạt do chủ nhiệm Phan Kim Thịnh từ nay quán xuyến hết mọi mặt).

Còn bản thân cũng hầu như rút lui khỏi các hoạt động VHNT, ra làm luật sư… Bạn bè cùng chí hướng một thời nay cũng phân tán mỗi người một ngã đường đời có khi còn theo hướng đối nghịch nhau như đi lính VNCH (Thế Uyên, Luân Hoán…) hoặc vào chiến khu theo Cộng sản luôn (Trần Quang Long, Trần Triệu Luật…)!

Sau 1954 qua định cư Na Uy. Cuối đời làm thơ Thiền như một cách đã “đạt đạo” như bài sau viết năm 2006 nhân chuyến quay về cố hương tìm thăm lại cảnh cũ người xưa:
VÒNG QUAY
“ Có một vòng quay cho đời ta,
Tinh mơ lấp lánh hạt sương sa,
Giữa trưa nắng đổ hai vai nặng,
Chiều vẳng chuông chùa mở lối ra.

Thế đấy, niềm vui chan nước mắt,

Ừ em, nỗi khổ cũng đơm hoa,

Em nhé cầm tay ta tĩnh lặng,

Yêu nhau Nam Mô A Di Đà.
(SaiGon, 19.02.2006)

1063 - Lê Nguyên Vỹ

SINH BẮC TỬ NAM HÀI CỐT QUY CỐ HƯƠNG
Chuẩn tướng VNCH sinh 1933 tại Sơn Tây – Mất 1975 ở Bình Dương (43 tuổi).
Năm 1954 cùng các em gái di cư vào Nam, mẹ còn ở lại miền Bắc.

Gia nhập quân lực VNCH. Nổi lên trong hàng ngũ tướng trẻ tài năng từ năm 1972 làm tư lệnh phó Sư đoàn 5 tử thủ An Lộc (thuộc Bình Phước hiện nay).

Cuối năm 1973 giữ chức tư lệnh cuối cùng sư đoàn này trong lúc người em gái đã đi theo Cộng sản! Được tiếng tướng trong sạch chống tham nhũng.

Đến trưa ngày 30.4.75 sau khi nhận lệnh Tổng thống Dương Văn Minh đầu hàng Việt Cộng đã ra lệnh giải tán sư đoàn, sau đó riêng mình đến đứng dưới cột cờ bộ tư lệnh (đặt tại Lai Khê, Bình Dương) rút súng ngắn tự sát tại chỗ: “Vì tôi là một tướng chỉ huy mặt trận, tôi không thể thi hành lệnh này được (đầu hàng). Tôi nghĩ thân làm tướng là phần nào đã hưởng vinh dự và ơn huệ của quốc gia hơn các anh em nên tôi phải chọn lấy con đường đi riêng cho tôi.”

Là một trong 5 vị tướng VNCH tự sát sau khi thi hành lệnh đầu hàng (còn Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng – có điều trùng hợp Lê Văn Hưng là tư lệnh Sư đoàn 5 khi mình là tư lệnh phó).

Vợ (gốc Hải Phòng di cư) ở nhà sau đó mới biết tin đành gạt lệ ôm 4 con nhỏ (từ 6-10 tuổi) vượt biên qua Mỹ làm thợ cắt tóc nuôi con. Nhưng vẫn giữ liên lạc với mẹ chồng ngoài Bắc, gửi tiền giúp đỡ bà.

Năm 1987 bà mẹ ngoài Bắc vào TPHCM gặp các con gái tìm mộ con trai chôn ở Gò Vấp đưa đi hỏa thiêu rồi đem về quê Sơn Tây thờ trong đình làng.

“Sinh Bắc tử Nam” là khẩu hiệu của cán binh, bộ đội sinh miền Bắc vào miền Nam chiến đấu, một số hy sinh sau 1975 được thân nhân vào đưa hài cốt về quê nhà miền Bắc. Trên đây là trường hợp quy cố huơng tương tự hiếm có thuộc về phía bên kia chiến tuyến cuối cùng cũng quay đầu về lại nơi chôn nhau cắt rốn mà trước kia mình từng dứt áo ra đi.

1064 - Nguyễn Đình Đầu
ĐIỂN HÌNH NGƯỜI TRÍ THỨC CÔNG GIÁO YÊU NƯỚC

Nhà nghiên cứu sử địa sinh 1920 tại Hà Nội. Sống ở TPHCM (2012).

Thời Pháp tốt nghiệp trường Bách nghệ Hà Nội, tham gia hoạt động trong những phong trào thanh niên tiến bộ thời đó như Hội Truyền bá Quốc ngữ, Hướng đạo và do mình có đạo nên cả tổ chức Thanh Lao Công (thanh niên lao động Công giáo) do giới Công giáo thành lập tạo điều kiện cho giới trẻ có đạo hoạt động xã hội. Ngay từ thời này đã bộc lộ năng khiếu và ý thích vẽ bản đồ đất nước.

Khi Cách mạng Tháng 8 thành công, được một huynh trưởng hướng đạo dẫn dắt đi theo con đường cách mạng, đưa vào chính phủ lâm thời làm phụ tá bộ trưởng bộ kinh tế quốc dân được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ đi mua gạo bị quân Lư Hán bắt suýt giết chết. Sau đó tiếp tục làm phụ tá ngoại giao trong cuộc đàm phán với Pháp, có mặt trong phái đoàn VN qua Pháp dự hội nghị Fontainebleau thất bại.

Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, không theo vào chiến khu (có lẽ do nghi ngại Cộng sản đã có dấu hiệu phân biệt đối xử với Công giáo) mà vẫn ở lại Hà Nội. Rồi được giúp đỡ qua Pháp theo học ĐH Công giáo ở Paris, tốt nghiệp cử nhân ngành khoa học xã hội năm 1953. Trong thời gian này vẫn tham gia các hoạt động Việt kiều ở Pháp ủng hộ kháng chiến chống Pháp.

Năm 1955 trở về Sài Gòn đi dạy học chuyên môn sử địa, soạn sách giáo khoa môn này. Nhân đó tìm lại thú vui vẽ bản đồ và say mê sưu tầm bản đồ cổ VN lên tới hơn 3.000 bản đồ. Song song đó góp phần khôi phục, chấn hưng phong trào Thanh Lao Công tuy thuộc Công giáo song lại có xu hướng tiến bộ ủng hộ Mặt trận Giải phóng miền Nam chống Mỹ.

Từ đó sau Hiệp định Paris ký kết 1972 đã ra mặt tham gia “Lực lượng thứ ba”, lực lượng chính trị tự cho “đứng giữa” không theo VNCH thân Mỹ cũng không theo Cộng sản với chủ trương đấu tranh tái lập hòa bình cho đất nước. Vì thế đã được Tổng thống Dương Văn Minh lên nắm quyền vài ngày trước 30.4.75 cử vào đoàn đại diện đến gặp phái đoàn Cộng sản (miền Nam) ở Trại Davis để thương thảo ngưng bắn không thành.

Sau ngày Giải phóng, “Lực lượng thứ ba” xem như dẹp tiệm nhường chỗ cho Cộng sản – chỉ còn duy nhất một lực lượng là Cộng sản! – nên đành lui về làm thường dân.

May nhờ hai nhà khoa học cộng sản uy tín Trần Văn Giàu và Trần Bạch Đằng biết được sở học và quá trình hoạt động yêu nước của một người trí thức Công giáo tiến bộ tiêu biểu nên giúp đỡ đưa trở lại con đường chuyên môn nghiên cứu sử địa, đặc biệt nghiêng về khảo cứu địa dư, địa bạ, bản đồ VN từ xưa đến nay. Từ đó liên tiếp có nhiều công trình, tác phẩm nghiên cứu khoa học đóng góp trong lĩnh vực này.

Năm 2005 được tặng Giải thưởng Trần Văn Giàu, năm 2008 là Giải thưởng Phan Châu Trinh cho toàn bộ sự nghiệp học giả đến khá muộn màng vào cuối đời.

1065 - Phạm Hồng Thắm
LỜI HỨA CỦA NGƯỜI LÍNH

Y sĩ sinh 1958 tại Hải Dương. Sống ở Gia Lai (2011).
Vào bộ đội quân y năm 1973 chiến đấu ở miền Nam.

Năm 1986 ra quân chuyển qua làm nhân viên nhà nghỉ ở Thái Nguyên.

Sau khi lấy vợ sinh con (4 con) thấy khó sống nổi với đồng lương công nhân nên năm 1993 quyết định đem vợ con lên vùng cao Chư Pah Trai ở Gia Lai từng là chiến trường xưa trồng cà phê và nuôi bò mong thoát cảnh nghèo.

Trên quê hương mới nhờ có tay nghề y sĩ cũ nên còn giúp đỡ săn sóc, chữa trị cho trẻ em người dân tộc (đa số dân tộc J’rai) bị khuyết tật hoặc mắc di chứng CĐDC. Không chỉ thế, còn tìm mọi cách cứu sống trẻ sơ sinh người dân tộc vì hủ tục suýt bị buôn làng chôn sống mang về nuôi dưỡng. Từ đó trở thành một người cha nuôi của cả trăm trẻ khuyết tật, mồ côi, nạn nhân CĐDC.

Khi Trung tâm Phục hồi chức năng Chư Pah được thành lập giao cho làm giám đốc, đã đưa số em khuyết tật vào đây tập vật lý trị liệu, ứng dụng thuật điện châm cho các em xem như tất cả đều là con nuôi, lớn lên các em được cho đi học nghề…

Tất cả vì một lời hứa với đồng đội trước đây nếu còn sống sẽ “nuôi hộ những đứa con của người lính”. Hoàn cảnh đưa đẩy bây giờ làm việc này hy vọng “Biết đâu nới chín suối bạn bè cũng sẽ mỉm cười vui vẻ với mình. Biết bao đứa con của người lính có thể cũng đang trong cảnh này, mình giúp trẻ con ở đây thì sẽ có nhiều người giúp chúng…”

1066 - Phạm Khôi
VỀ VỚI BIỂN QUÊ MÌNH
Kỹ sư địa chất Việt kiều Canada sinh 1972 tại Sài Gòn. Sống ở Vũng Tàu (2012).
Mới 3 tuổi đã cùng gia đình di tản qua Canada tháng 4.1975.

Lớn lên theo nghiệp cha vốn là một thuyền trưởng ở miền Nam, học và tốt nghiệp kỹ sư địa chất từ năm 1997 chuyên đi tàu khảo sát địa chấn biển ở Canada lên tới tận Bắc cực lẫn Nam cực.

Khi mình đã đạt trình độ và kinh nghiệm cao tay nghề, chính người cha đã khuyên nên về giúp VN làm công tác khảo sát địa chấn biển phục vụ tìm kiếm và khai thác dầu mỏ, một lĩnh vực ở VN còn hiếm chuyên gia trong nước.

Vì thế năm 2009 chấp nhận lời mời trở về làm đội trưởng đội khảo sát địa chấn trên tàu thăm dò dầu khí của VN dù lương thấp hơn làm với nước ngoài mà lại ở xa cha mẹ: “Chuyên môn khảo sát địa chất biển ở VN không cao, chính vì thế lại càng thôi thúc mình về. Mình tin rằng sẽ làm được gì đó dù rất nhỏ bé cho quê hương đã sinh ra mình.”

Đây chính là người đội trưởng có mặt trên tàu Bình Minh 02 đương đầu với tàu hải giám Trung Quốc gây hấn năm 2011, bảo vệ vùng biển quê hương, bảo vệ tàu và đồng đội an toàn.

1067 - Phạm Mạnh Cương
CẠN NGUỒN CẢM HỨNG

Nhạc sĩ Việt kiều Canada sinh 1933 tại Huế. Sống ở Canada (2012).


Trước 75 vừa mở trường tư ở Sài Gòn vừa viết nhạc tình ca lãng mạn nhẹ nhàng nổi tiếng với những bài “Mắt lệ cho người tình”, “Thương hoài ngàn năm”, “Thu ca”… Làm các chương trình ca nhạc truyền hình, thu băng đĩa thành công.

Cùng vợ làm MC cho các chương trình đó hợp thành một đôi uyên ương văn nghệ tài sắc vẹn toàn.

Sau 30.4.75 còn ở lại. Nhưng đến năm 1980 thấy khó lòng hòa nhập được với xã hội mới nên cùng 2 con vượt biên từ Cà Mau qua Thái Lan rồi được nhập cư Canada. Lập ban nhạc chơi cho các vũ trường ở Montreal.

Năm 1983 bảo lãnh vợ và 2 con gái qua theo. Tuy nhiên vài năm sau thì hai người… chia tay!

Năm 1998 in tuyển tập nhạc “Huế còn chút gì để nhớ” xem như món quà âm nhạc cuối cùng gửi quê nhà.

Bởi từ khi bôn ba lưu lạc xứ người chỉ sáng tác được 5 bài hát vì cuộc sống, con người nay đã đổi khác, tình cảm từ đó cũng khác rồi không còn đem lại cảm hứng dạt dào tươi mới như xưa nữa: “Người nghệ sĩ muốn sáng tác với sự rung động thật sự phải có nguồn cảm hứng thật. Mà muốn có nguồn cảm hứng thật thì tâm hồn phải thảnh thơi vượt qua cuộc sống hàng ngày…”

1068 - Phạm Mạnh Đạt
MỘT ĐỜI HẠ UY CẦM
Nhạc sĩ Việt kiều Mỹ sinh 1934 tại Hải Dương. Sống ở Mỹ (2012).


Là một trong những nhạc sĩ đầu tiên chơi đàn hạ uy cầm (đàn hawai) từ thời mới du nhập vào Hà Nội những năm 1940 cùng các đồng nghiệp Nguyễn Thiện Tơ, Tạ Tấn, Đoàn Chuẩn…

Năm 1954 cùng vợ di cư vào Nam. Bị động viên đi lính trường sĩ quan Thủ Đức nhưng sau bị thương nên cho giải ngũ sớm. Từ đó tiếp tục gắn bó với sự nghiệp đàn hạ uy cầm tuy ngày càng bị các loại nhạc cụ phổ biến hơn (guitar, piano…) lấn lướt. Bắt đầu viết ca khúc năm 1957.

Đến 30.4.75 cùng vợ và 5 con lên tàu di tản qua Mỹ.

Trên xứ người tạm gác đàn lại lo đi làm lao động nhà hàng (cả dọn dẹp vệ sinh) nuôi thân rồi quay qua mở cửa hàng tạp hóa.

Đầu nhưng năm 1990 khi cuộc sống đã ổn định, gia đình sung túc mới tìm lại niềm đam mê hawai thủa nào. Mở trung tâm dạy nhạc đồng thời bắt đầu thu đĩa nhiều ca khúc do mình tự đánh đàn hawai độc tấu hoặc có phụ họa gây được tiếng vang đáng kể.

Đã ra mắt 10 đĩa nhạc hawai như vậy, trở thành hầu như là nhạc sĩ VN đàn hawai nhà nghề duy nhất ở hải ngoại và có thể cả ở trong nước nữa.

Ngoài ra còn là người đầu tiên mở chương trình Radio tiếng Việt ở TP San Jose, California. Tuy nhiên không tiếp tục công việc kinh doanh đài nữa vì muốn để dành thời gian gắn bó với tiếng đàn hawai.

Năm 2002 lần đầu tiên quay về nước, về tận làng quê nơi sinh nhau cắt rốn ở Hải Dương tặng tiền xây 2 trường mầm non, vào TPHCM ủng hộ quỹ phát triển âm nhạc cho Nhạc viện TP.

1069 - Phạm Minh Thư
MỘT MÌNH THÁO GỠ 18.000 BOM MÌN

Thượng tá bộ đội sinh 1956 tại Quảng Ninh. Sống ở Hà Nội (2012).


Đi bộ đội năm 1974.

Sau chiến tranh, năm 1979 về tiểu đoàn bảo dưỡng kỹ thuật bay đóng tại sân bay Pleiku, dần dần lên chức tiểu đoàn trưởng hàm trung tá.

Do hoạt động trong sân bay nên tận mắt chứng kiến vô số tai nạn bom mình còn nằm sâu dưới lòng đất trên một diện tích rộng bao la bát ngát phát nổ làm nhiều người cả thường dân lẫn bộ đội chết và bị thương thảm khốc mà lúc đó bộ đội công binh chưa có điều kiện và phương tiện để rà soát thu gom. Bản thân thấy vậy không khỏi đau lòng mới suy nghĩ tìm cách làm sao xóa bỏ tai họa này.

Được một đồng đội bên công binh hướng dẫn về cách tháo gỡ bom mìn, thế là từ năm 1992 tự mình lặng lẽ bắt tay vào công việc nguy hiểm chết người này (sau đó có được một đồng đội phụ giúp một thời gian rồi thôi). Do không phải là nhiệm vụ được giao phó nên phải làm toàn ngoài giờ hành chính, vào rạng sáng hoặc chiều về hoặc ngày nghỉ ngày lễ.

Cứ thế đơn thương độc mã một mình cầm dụng cụ đi “chọc” lỗ tìm dấu hiệu bom mìn lấp dưới đất, dưới cỏ, trong bụi rậm… Tìm được dấu vết bom mìn rồi mới tiến hành thao tác tháo gỡ chúng, vô hiệu hóa đem giao cho bộ phận công binh xử lý.

Làm âm thầm lặng lẽ, thậm chí còn giữ “bí mật” với gia đình nữa sợ bị can ngăn! Năm 2003 vợ mới biết khóc lóc van xin đừng làm nữa song không chịu: “Làm người ai cũng muốn có một cuộc sống bình yên nhưng không lẽ mình cứ ngồi yên để nhìn người khác chết chóc bi thương sao. Anh sẽ làm cho bằng hết…”

Bản thân cũng chấp nhận cái giá có thể hy sinh bất cứ lúc nào nên trước mỗi lần đi ra bãi bom mìn đều gấp sổ sách giấy tờ trên bàn làm việc rất cẩn thận, thu dọn phòng làm việc ngăn nắp gọn gàng, viết các nội dung kế hoạch làm việc để lại trên bàn để nếu không may mà không trở về được thì mọi người còn biết công việc mà làm!

Dầm mưa dãi nắng chiến đấu với mối đe dọa tử thần từ năm này qua năm khác khiến cân nặng từ 70kg sụt xuống còn 50kg, người khô đét đen đúa đúng là giống dân buôn phế liệu! May mà sao nhờ trời phù hộ không phụ lòng người có tâm lớn nên đã không ít lần thoát chết trong đường tơ kẽ tóc.

Kết quả sau 13 năm (đến 2005) tính đủ đã tháo gỡ được khoảng gần 18.000 quả bom mìn giết người. Từ vùng đất hoang hóa đã được làm sạch đó mới vận động đồng đội trồng hơn 100 hecta bạch đàn trước khi được điều qua làm Phó giám đốc Bảo tàng Quân chủng Phòng không – Không quân.

1070 - Phạm Ngọc Sang
“CÓ TỘI VỚI ĐỒNG BÀO”
Chuẩn tướng không quân VNCH sinh 1931 tại Gia Định – Mất 2002 ở Mỹ (72 tuổi).
Trong trận quân VNCH lập chiến tuyến tử thủ Phan Rang tháng 4.1975, là tư lệnh không quân vùng Tây Nguyên có quyền chỉ huy trên máy bay (khi cần dễ bay trốn thoát) nhưng vẫn tình nguyện xuống căn cứ dưới mặt đất để chỉ huy không quân hợp đồng tác chiến với bộ binh. Vì vậy cuối cùng bị bắt làm tù binh.

Đi cải tạo 17 năm ngoài miền Bắc, đến 1992 do bị bệnh nặng mới được cho về. Một năm sau cùng vợ con đi Mỹ nhờ con trai vượt biên trước đó bảo lãnh.

Nhưng không sống được lâu do di chứng bệnh tật thời đi cải tạo kéo dài.

Trước khi mất còn kịp viết hồi ký về trận Phan Rang với tâm sự u uẩn: “ Tôi cảm nhận rất có tội với đồng bào vì làm tướng mà không giữ được thành.”

Và trăng trối hai điều: Tất cả tiền phúng điếu gửi về giúp thương phế binh VNCH còn ở lại VN, với những đồng đội lưu vong thì nhắn nhủ “Mọi người hãy thương yêu nhau”.

(Còn tiếp)

Thứ Tư, 28 tháng 3, 2012

DIỄN ĐÀN VĂN HỌC VIỆT - MỸ TẠI HUẾ


Từ trái sang: các nhà văn, nhà thơ Vĩnh Nguyên, Võ Quê, Kevin Bowen, Larry Heinemann, Bruce Weigl cùng trao đổi tại hành lang diễn đàn văn học Việt - Mỹ ngày 9-3 - Ảnh: THÁI LỘC

Văn chương nối 2 bờ đối nghịch” là nhận định của nhà văn Tô Nhuận Vỹ về sự hợp tác trong suốt 20 năm qua, giữa các nhà văn Mỹ và Việt Nam, trong việc nối lại quan hệ của hai quốc gia, tại diễn đàn Văn học Việt - Mỹ diễn ra ở Huế ngày 9-3.

Trong nỗ lực đó, các nhà văn Mỹ, tập trung dưới ngôi nhà với cái tên đã trở nên quá thân quen: Trung tâm William Joiner (WJC), đã đóng một vai trò rất quan trọng. "WJC đã là chiếc tàu phá băng giữa lúc quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ còn đóng băng. Các anh đã làm được nhiều việc mà ngay các nhà chính trị cũng phải ngạc nhiên!" - nhà văn Tô Nhuận Vỹ dẫn lời của nhà thơ Nguyễn Khoa Ðiềm nhận được sự đồng tình của các nhà văn - cựu binh Việt Nam và Mỹ tại diễn đàn.

Ðồng tình bởi trong hơn 100 nhà văn có mặt tại diễn đàn, không ít người đã đồng hành với những việc làm của WJC trong suốt 20 năm qua. WJC là một tổ chức do các cựu binh Mỹ thành lập với chức năng nghiên cứu hậu quả chiến tranh do người Mỹ thực hiện tại Việt Nam, nhưng thay vì thực hiện những điều tra, thống kê về xã hội học, họ lại chọn văn chương để làm cầu nối qua "đại dương băng giá" của quan hệ Mỹ - Việt sau chiến tranh. "Ðó là một quyết định dũng cảm và khó khăn nhất, vì nó làm thay đổi toàn bộ cuộc sống của họ", nhà thơ Hữu Thỉnh - chủ tịch Hội Nhà văn VN - đã bày tỏ chân tình với những người bạn Mỹ có mặt tại diễn đàn này.

Theo nhà thơ Hữu Thỉnh, WJC đã chủ động tác động liên tục và mạnh mẽ vào chính khách, trí thức và công chúng Mỹ nhằm phá bỏ hàng rào cấm vận và góp phần thúc đẩy tiến trình bình thường hóa quan hệ của Mỹ đối với VN; đã mời trên 100 nhà văn, nghệ sĩ, nhà nghiên cứu VN sang Mỹ để tuyên truyền về đất nước và con người VN; dịch và ấn hành rất nhiều tuyển tập văn thơ VN sang tiếng Anh ở Mỹ; góp phần không nhỏ vào việc thay đổi cách nhìn của không ít người Mỹ về VN...


Với những hoạt động "kêu gào" Chính phủ Mỹ bình thường hóa với Việt Nam, WJC từng trải qua không biết bao nhiêu nghi kỵ, ngăn cản, thậm chí đe dọa đến tính mạng, kể cả những người thân của họ. Theo nhà văn Tô Nhuận Vỹ, nỗ lực của WJC không chỉ thúc đẩy sự bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ mà còn kiên trì hàn gắn "sự tan nát giữa những người Việt Nam từng đứng trong hai chiến hào đối nghịch".

Còn nhà thơ Nguyễn Quang Thiều vẫn rất ngạc nhiên trước sự thủy chung, bền bỉ theo đuổi trong suốt mấy chục năm không hề thay đổi của những nhà văn - cựu binh WJC đối với Việt Nam: "Tôi cho rằng họ đã yêu dân tộc này một cách nhẫn nại. Có những lúc họ cũng rất khó khăn trong tiền bạc, đi lại, thậm chí họ từng phải điều trần trước Quốc hội Mỹ khi giúp đỡ Việt Nam, từng mang tiếng là "bàn tay nối dài của cộng sản" ở Mỹ và là "người của CIA" ở Việt Nam!".

Nhà thơ Hữu Thỉnh cho rằng nhà văn cựu binh của cả hai bên đã góp phần hàn gắn vết thương chiến tranh, đặc biệt là các vết thương trong tâm hồn, trong tinh thần của con người, góp phần đưa hai nền văn hóa xích lại gần nhau trong sự đối thoại, khoan dung, trong tinh thần hướng về phía trước.

Nhà thơ Nguyễn Khoa Ðiềm gọi tên việc làm của nhà văn cựu binh hai phía, đặc biệt từ WJC, là hành trình sáng tạo văn học có một không hai trong thế giới hiện đại như là những kẻ từng so gươm với nhau trong cuộc chiến đã có thể chia sẻ cảm xúc văn học bên nhau trong những ngày hòa bình.

Không nói nhiều về những việc đã làm, nhà văn Kevin Bowen - nguyên giám đốc WJC - đại diện cho chín nhà văn Mỹ tham gia diễn đàn, chia sẻ: "Chúng ta đã tập hợp được sức mạnh qua những ước mơ mà chúng ta cùng sẻ chia: đơn giản là chúng ta muốn hiểu hơn về những con người khác; là những cựu binh ước mong chia sẻ và tập hợp những ký ức từng chia rẽ chúng ta. Và cuối cùng là nhà văn, chúng ta ước vọng làm giàu cho chính chúng ta với kiến thức về gốc rễ và ngọn ngành của những nền văn học và văn hóa khác nhau".

THÁI LỘC (TTO)

Thứ Ba, 27 tháng 3, 2012

BẤT CHỢT - HOÀNG THỊ THIỀU ANH



Bất chợt một ngày
Bất chợt nắng…
Bất chợt một ngày
Bất chợt mưa…

Bất chợt xa Anh
Bất chợt nhớ
Bất chợt mộng về
Bất chợt
Yêu !

Thứ Hai, 26 tháng 3, 2012

NGHẸN NGÀO - PHAN LỆ DUNG


Anh gặp em
Ngày ấy ngoài trời mưa lất phất
Cây bưởi đơm hoa trắng

Anh nói anh yêu em
Khi ấy trời nắng nhạt, ngày đang vào thu

Như cây cỏ rong chơi không có mặt trời
Mùa đông, mùa hạ
Anh và em
Lan man gió, mưa
Có khi ngỡ như mình không còn hơi ấm
Trời đất băng giá em.

Một chút nắng vàng
Một chút gió heo may
Cũng vội vàng vụt bay ra ngoài xa thẳm
Chỉ còn mùi hương đọng trên cửa sổ
Và nỗi xót xa lăn mãi trong lòng

Bây giờ
Em lang thang
Chiều mùa đông lạnh
hái ngọn cỏ nghẹn ngào
Nỗi buồn loang ra cả gió.

Thứ Bảy, 24 tháng 3, 2012

DI SẢN THI CA TRÊN KIẾN TRÚC CUNG ĐÌNH HUẾ

Đại tự và thơ ở chính điện Thái Hòa


Tại quần thể di tích cố đô Huế hiện vẫn còn một bộ di sản khổng lồ được in trên nhiều các mái, trần, tường, bia, cổng... đó là những bài thơ mang ý nghĩa triết lý sâu sắc của các vị vua triều Nguyễn - triều đại phong kiến cuối cùng tại Việt Nam.

Từ đầu thập niên 80, Giáo sư Huỳnh Minh Đức đã cùng các học trò của mình từ thành phố Hồ Chí Minh ra Huế ghi chép và dịch những bài thơ, câu thơ chữ Hán khắc trên nóc mái, trên các ô hộc trang trí của lầu Ngọ Môn, điện Thái Hòa, và các nghi môn. Sau 13 năm miệt mài với công việc này, năm 1994 Giáo sư Huỳnh Minh Đức đã cho ra mắt cuốn sách “Từ Ngọ Môn đến điện Thái Hoà (NXB Trẻ-1994)”. Đó là công trình đầu tiên dịch và chú giải khoảng 300 bài thơ, các bức đại tự, và các dòng chữ trên hai nghi môn nằm trên trục Bắc - Nam của Hoàng thành Huế, từ Ngọ Môn đến điện Thái Hoà; một việc làm rất có ý nghĩa trong công cuộc bảo tồn di sản văn hóa Huế.

Xét về vị trí, ý nghĩa, chức năng sử dụng, điện Thái Hoà là công trình kiến trúc quan trọng nhất trong Hoàng thành Huế. Đây là nơi đặt ngai vua; nơi triều đình tổ chức đại triều và các đại lễ quan trọng như: lễ Vạn thọ, lễ Tứ tuần, Ngũ tuần đại khánh tiết, lễ Hưng quốc khánh niệm… Ngọ Môn là cửa chính giữa mặt trước Hoàng thành, tên cũ là Nam Khuyết Đài, dành cho vua, và đoàn Ngự đạo, khi ra – vào Hoàng thành. Ngọ Môn còn có một số chức năng khác. Bên trên là lầu Ngũ Phụng, được xem như một lễ đài tổ chức một số sự kiện quan trọng như: lễ duyệt binh, lễ Truyền lô (xướng danh Tiến sĩ tân khoa), lễ Ban sóc. v.v…

Giáo sư Huỳnh Minh Đức đánh giá thơ trên Ngọ Môn và trong điện Thái Hoà là tinh hoa văn hoá Việt Nam của thế kỷ 19 mà tác giả là các vị vua, và các Hoàng thân, Nho thần triều Nguyễn. Để dịch nghĩa, dịch thơ và chú giải nội dung tư tưởng ông đã huy động vốn kiến thức về văn hóa phương Đông nói chung, văn hoá Trung Hoa nói riêng, bao gồm kinh dịch, kinh thư, điển tích, học thuyết, triết lý của các Nho gia, và truyền thuyết về lịch sử, tư tưởng.
Mô tip trang trí nhất thi nhất hoạ (một bài thơ thì đi kèm với 1 bức tranh) trong điện Thái Hoà

Từ kinh dịch, kinh điển, và truyền thuyết lịch sử, Giáo sư Huỳnh Minh Đức cho rằng tổng thể kiến trúc từ cửa Ngọ Môn đến Điện Thái Hòa thể hiện uy quyền của nhà vua; là một loạt công trình kiến trúc lộng lẫy như muốn vươn đến trời xanh, rồi lại xuống thấp để tìm lại sự hài hòa giữa đất, trời, và con người. Sự hài hòa đó được kinh dịch gọi là Thái Hòa. Đó là sự sáng tạo của các vị vua đầu triều Nguyễn trong quy hoạch và xây dựng quần thể kiến trúc Hoàng thành Huế.

Ở nội thất, ngoại thất tiền điện và hậu điện Thái Hoà, trên bờ nóc, cổ diêm, liên ba, đều được trang trí theo mô tip nhất thi nhất họa (một bài thơ, một họa tiết) với hai chất liệu chủ yếu là chữ viết trên nền Pháp lam (ở ngoại thất) và chạm khắc trên gỗ - sơn son thếp vàng (ở nội thất). Chữ Hán trên điện Thái Hoà được khắc ghi trên 297 ô hộc. Riêng thơ hiện còn khoảng 200 bài, nghiên cứu kỹ sẽ thấy đó là một chỉnh thể văn bản nhằm thể hiện nội dung tư tưởng và khát vọng của một triều đại.

Xin dẫn một bài nhằm làm sáng tỏ: Văn hiến thiên niên quốc/Xa thư vạn lý đồ/Hồng Bàng khai tịch hậu/Nam phục nhất Đường Ngu. Đây là bài Ngự chế của vua Minh Mạng với nghĩa: Đất nước đã hàng ngàn năm văn hiến. Xa thư (xe, sách) lấy từ “xa đồng quỹ” (xe cùng một cỗ bánh) và “thư đồng văn” (sách viết một thứ chữ) với hàm ý đã thống nhất được đất nước rộng lớn. Kể từ thuở Hồng Bàng dựng nước đến nay nước Đại Nam (ở triều ta) đã trở thành một cõi thanh bình, thịnh trị như thời Đường Nghiêu và Ngu Thuấn.

Thơ trên điện Thái Hoà điển tích Xa thư được sử dụng ở nhiều bài để nhấn mạnh niềm tự hào về công cuộc thống nhất đất nước, cũng như sự ưu việt của chế độ chính trị. Xin dẫn thêm một bài: Xa thư quy nhất thống/Thịnh trị quản Hồng Bàng/Việt tộ chính đương dương/Cư trung ngưỡng thánh hoàng (Giang sơn nay nhất thống/Thịnh trị sánh Hồng Bàng/Nước Việt dương toàn thịnh/Thần dân ngưỡng thánh hoàng).

Điển tích Nghiêu Thuấn được sử dụng với tần suất nhiều hơn như các trường hợp: Hóa nhật quang Nghiêu điện/Huân phong độ Thuấn cầm (Mặt trời làm sáng ngôi điện của vua Nghiêu/Khúc Nam Phong đã đưa tiếng đàn cầm của vua Thuấn); Đại đạo đăng Nghiêu Thuấn/Tân phong quảng Lạc Hùng (Đạo lớn xin theo mô hình thời vua Nghiêu vua Thuấn/Chế độ mới mở rộng quy mô thời các vua Hùng); Cửu cù ca Thuấn đán/Tứ hải vọng Nghiêu vân (Chín nẻo ca ngợi ngày của vua Thuấn/Bốn biển ngắm cảnh mây của vua Nghiêu.v.v…

Khi phân tích ý nghĩa của công trình điện Thái Hoà, tác giả Phan Thuận An dẫn bài: Đại đức phù càn tạo/Thuần phong vãn thái hoà/Nghiêu cù thuận đế tắc/Xứ xứ dật âu ca (Đức lớn tày tạo hoá/Thuần phong giữ thái hoà/Thời Nghiêu theo phép nước/Khắp chốn dậy lời ca). Đây là điển tích dễ hiểu. Nghiêu - Thuấn là hai vị minh quân trong truyền thuyết lịch sử Trung Quốc. Vua Minh Mạng lấy điển tích này để tỏ rõ khát vọng đất nước có vua sáng tôi hiền, chính sự tốt đẹp. Thời huy hoàng của triều Lê, Nguyễn Trãi cũng đã từng bày tỏ khát vọng Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn/Tôi Đường Ngu ở đất Đường Ngu.
Các mái ngói được trang trí bởi điển tích thơ nhìn rất có hồn

Từ cửa Ngọ Môn đi vào điện Thái Hoà, ở hai đầu cầu Trung Đạo có hai Nghi môn (còn có tên gọi khác là Phương môn). Hai mặt trước sau của mỗi Nghi môn đều có bốn chữ viết trên nền Pháp lam. Hai mặt hướng nam (từ ngoài Ngọ Môn nhìn vào) là hai câu Chính trực đẳng bình và Chính đại quang minh. Hai mặt hướng bắc (trong điện Thái Hoà nhìn ra) là hai câu Cư nhân do nghĩa và Trung hoà vị dục. Nội dung bốn câu trên hai Nghi môn này toát lên tư tưởng chỉ đạo, phương hướng, đường lối cai trị của triều đình nhà Nguyễn.
Chính trực đẳng bình và Chính đại quang minh mang ý nghĩa mà Mạnh Tử gọi là ngoại vương. Trong Kinh Thư, Kinh Thi đều có viết về chính trực đẳng bình, tuân vương chi nghĩa, tuân vương chi đạo, vương đạo chính trực… Vua Minh Mạng cho đưa bốn chữ này lên Nghi môn trước điện Thái Hoà là đưa ra tuyên ngôn về con đường chính trị của triều đại, và của bản thân nhà vua. Đó là thực hành chính sự ngay thẳng, rõ ràng. Bậc quân vương tuân theo điều nghĩa, không thiên lệch.
Chữ chính trực đẳng bình từ nghi môn nhìn thẳng theo một trục vào điện Thái Hòa - nói lên tư tưởng và tuyên ngôn của nhà vua triều Nguyễn

Cư nhân do nghĩa và Trung hoà vị dục dựa theo sách Trung dung, Kinh dịch, Mạnh Tử… thuộc nội thánh, có quá trình phát triển của lịch sử tư tưởng Trung Quốc từ triết lý nhân của Khổng Tử đến triết lý nhân nghĩa của Mạnh Tử. Nhân là đức tính, là tố chất cần phải có để làm người. Thuyết giảng của Khổng Tử về Đạo Nhân tập trung vào vấn đề tu dưỡng nhân cách để làm người. Mạnh Tử thì ứng dụng Đạo Nhân của Khổng Tử để thực hành trong chính trị và quan hệ xã hội; phát triển tư tưởng nhân của Khổng Tử thành tư tưởng nhân nghĩa.
Và chính Mạnh Tử đã nhấn mạnh: Quân nhân, mạc bất nhân; Quân nghĩa, mạc bất nghĩa - Nếu nhà vua ở theo nhân thì không ai không ở theo nhân; Nếu nhà vua đi theo nghĩa thì không ai không đi theo nghĩa. Nhân nghĩa là con đường thực hành nhân tính. Khẩu hiệu Cư nhân do nghĩa trên Nghi môn như là tấm gương soi hàng ngày của vua quan nhà Nguyễn. Trung hoà vị dục cũng dựa theo sách Trung dung. Hoà dã giả, thiên hạ chi đạt đạo dã trí; Trung hoà, thiên địa vị yên, vạn vật dục yên - Thực hiện được đầy đủ lẽ trung hoà thì trời đất được an vị, vạn vật được sinh sôi nẩy nở.

Theo TS.Phan Thanh Hải, PGĐ phụ trách Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế, điểm độc đáo riêng biệt đối với thế giới là ít có nơi nào có thơ được khắc họa trên di tích như Huế. Toàn bộ các bài thơ được cha ông xưa tuyển chọn kỹ từ các áng văn thơ tiêu biểu nhất trong tinh hoa thi ca của văn sĩ Việt Nam. Điểm khác biệt nữa là ngay tại các nơi còn lại nhiều di tích như Trung Quốc, Triều Tiên, Hàn Quốc và các triều đại trước nhà Nguyễn cũng không có kiểu khắc thơ trên cung điện, lăng tẩm của vua như ở Huế.

Nhằm bảo tồn và phát huy giá trị mỹ thuật, giá trị tư tưởng, giá trị văn học của bộ tuyển thơ đồ sộ - ước tính có khoảng 4.000 bài thơ lưu dấu trên các công trình kiến trúc cung đình triều Nguyễn - Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế đang tiến hành định dạng các văn tự Hán Nôm trên các ô hộc trang trí. Công việc số hoá đã hoàn thành ở Ngọ Môn, điện Thái Hoà, lăng Đồng Khánh. Ở Điện Long An có khoảng 400 ô hộc trang trí, đã số hoá được khoảng 50%.
Nghi môn thứ hai, ở hướng bắc đề bốn chữ “Trung hoà vị dục”

Công việc, ghi chép, số hoá những bài thơ và các hoạ tiết trang trí đòi hỏi khá nhiều thời gian do có nhiều chữ đã mờ theo thời gian, có bài thơ bị mất chữ, có chữ bị mất nét. Việc phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ, chú giải, sắp xếp các câu thơ được khắc riêng lẻ trên từng ô hộc để ghép lại thành những bài hoàn chỉnh cũng không hề đơn giản. Nếu suôn sẻ phải mất bốn năm công việc này mới có thể hoàn tất.

Việc làm này rất bổ ích và thiết thực đối với công cuộc trùng tu, tôn tạo các công trình kiến trúc cung đình cũng như phát huy những giá trị văn hoá tinh thần của tiền nhân để lại. Sau khi dự án hoàn thành di sản thơ ca trong cung điện triều Nguyễn sẽ được lập hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận “Di sản ký ức thế giới”.

Các câu thơ viết trên pháp lam ở trên nghi môn chói sáng dưới ánh mặt trời
Thơ trên các nghi môn tại các hướng chính dẫn vào trung tâm của Kinh thành Huế - Thái Hòa điện nhằm để cho các sứ thần ngoại bang nhìn thấy đầu tiên khi vào thăm vua Nguyễn.


Thanh Tùng - Đại Dương
Nguồn: http://www.dantri.com.vn

Thứ Sáu, 23 tháng 3, 2012

LUỴ TÌNH - ĐÔNG HÀ



Bước đi thêm nữa là dừng
mà sao tấm vé nửa chừng muốn buông

biết rằng muôn thẳm dặm buồn
biết đi là đến một muôn trùng mình

thế rồi làm chuyến lặng thinh
thử xem một chuyện lụy tình ai mang...

ĐH

Thứ Năm, 22 tháng 3, 2012

CHẮP TAY DÒNG ĐỜI ( KỲ 9 ) - VÕ CHÂN CỬU

Đường Vân Gỗ

Con người có thể làm ra được nhiều thứ, kể cả chuyện “vắt đất ra nước, thay trời làm mưa” như khẩu hiệu hành xác. Nhưng chuyện tạo nên đường vân gỗ, thì những họa sĩ tài ba nhất, cũng đều phải thua sức các dòng thực vật…
“Cần có thời gian để cho dó hóa trầm, để cho cây hóa gỗ”…Văn học và thơ ca cũng vậy, dòng chảy đến hồi cực thịnh, nó phải tự chuyển mình. “Thơ mới” bạo phát từ 1932, đến khoảng 1939 thì có những tìm tòi mới trong kết cấu vần điệu, câu từ…Năm 1942, nhóm Xuân Thu Nhã Tập với những cây bút nồng cốt là Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Xuân Sanh, Phạm Văn Hạnh ra Tuyên ngôn nghệ thuật với mục đích “mở cánh cửa vào thẩm mỹ hiện đại”. Ngôn ngữ thơ muốn kết hợp thanh điệu của trời tây với âm hưởng của Á Đông trầm lắng. Mặc dù ngay lúc này, nhiều người cho đó là lối thơ “tắc tị”, sự tồn tại của trường thơ này khá ngắn ngủi (đến 1945, do biến cố lịch sử) nhưng hiệu ứng mà nó mang lại là không nhỏ.Xuân Thu Nhã Tập theo điển tích ngôn ngữ ca ngợi quy luật vận hành một năm cây cỏ hai mùa ra hoa kết trái; thơ ca như bước chân hòa điệu cho cõi “đạo” và đời biểu hiện trong sự mầu nhiệm của thanh âm, ngôn ngữ.
Đi tìm
Văn học Miền Nam sau 1954 sau bùng phát của trường thơ “tự do”, lớp cầm bút trẻ như lung túng giữa các kiểu “tượng trưng” và “siêu thực”. Chiến tranh ngày càng gây nên bao cảnh điêu tàn nên họ “tuyên ngôn” chối từ các tiện nghi văn minh, tìm đến thiên nhiên đích thực. Những câu thơ “Từ núi rừng Lục Tuyết” của Nguyễn Miên Thảo (NMT) xuất hiện trên Tuần báo Khởi Hành 1969 chính là một trong những đỉnh cao trong các sáng tác của anh và bạn hữu lúc này:
… Đây căn nhà gỗ quý
Lá mây che mưa nguồn
Một đời ta khốn khó
Về đây làm trích tiên
Đời một vạn gian nan
Biết làm gì thêm mệt
Ta trốn vào rừng thẳm
Dạy các em làm người
Một điều ta nhắc nhở
Đừng tin gì hôm nay…
Và anh hùng hồn tuyên bố:
…Ở đây rất bình yên
Bom đạn không thể tới
Ta ăn toàn thú rừng
Gạo đổi từ miệt dưới
Có rất nhiều mật ong
Thứ mật ong nguyên chất
Ta có cái ống điếu
Đẹp hơn đồ văn minh…
NMT thuộc nhóm các cây bút mới xuất hiện ở Huế, gồm “San, Tụng, Thuyên, Quảng, Ngữ” (Tụng là tên thật của NMT). Nhưng sau lời dặn dò “Đừng tin gì hôm nay”, dòng đời đã cuốn số phận mỗi người mỗi khác…San và Tụng ngấm ngầm “thiên tả”, và kết cục dòng đời cũng khác nhau…
“Căn gác nhỏ dưới tàn cây vú sữa” của chúng tôi (có NMT ở nhờ) khoảng năm 1972-1973 liên thông những đường hẻm ngoằn ngèo của vùng giáp ranh giữa Quận 3 và xã Phú Nhuận. Khu xóm nhỏ này vô tình tụ hội nhiều thế hệ làm văn nghệ. Bên trái là gia đình bên vợ họa sĩ Ngọc Dũng; gác trước có Phạm Chu Sa mới bước chân vào tòa soạn Tuổi Ngọc; phòng có tôi thường xuyên có mặt bạn văn đủ mọi khuynh hướng. Nhà Joseph Huỳnh Văn phía sau lưng không xa. Dưới đường hẻm, đêm đêm một nhóm bạn 2-3 người này vẫn rầm rì chuyện văn chương, tạp chí khi tản bộ qua. Joseph Huỳnh Văn là “linh hồn” của tờ Tập san Văn Chương muốn đem tới một thẩm mỹ khác lạ giữa thời buổi bế tắc. Từ căn gác của chúng tôi, có Nguyễn Lương Vỵ sau đó rất gắn kết, in thơ trên tạp chí này.




Từ chối
…”Trong một vài giòng mở đầu gửi người đọc, chúng tôi chọn lực nói sự thực đó để nói rằng viết nghĩa là tin tưởng vào những chữ, rằng chúng tôi còn viết bởi vì chúng tôi còn tin tưởng, một cách nào đó, vào những chữ.
Chúng tôi từ chối một tuyên ngôn về văn chương, vì bất cứ một người nào cầm bút để làm văn chương đều phải biết tự xét, một cách thẳng thắn, để nhận ra rằng hắn không iết gì nhiều về những chữ hắn sẽ viết ra…
Chúng tôi từ chối một tuyên ngôn còn vì chúng tôi nghĩ rằng, một cách triệt để, thì không một chữ nào được phép nói thay thế cho một chữ nào khách. Để nói đầy đủ, trung thực và triệt để cho những chữ nào(chẳng hạn những chữ của một “trường phái”, những chữ làm nên một “trường phái” văn chương nào) không có gì đầy đủ, trung thực và triệt để cho bằng chính những chữ đó. Những chữ không thể nói về những chữ. Mỗi tác của mỗi người viết là một tuyên ngôn xứng hợp với chính nó hơn bất cứ những chữ nào khác, những lời lẽ nào khác.Chính những chữ sẽ được viết ra (của một người nào) sẽ trả lời (một cách riêng tư)cùng một lúc tất cả những câu hỏi này : Tại sao anh viết, anh viết cái gì, như thế nào, anh viết để làm gì, điều anh viết đáng giá bao nhiêu…đồng thời trả lời câu hỏi: văn chương, với anh, là gì, anh làm một thứ văn chương như thế nào, một thứ văn chương nào vậy ?
Nghĩa là, cùng một lúc, nói tất cả những điều người ta chờ đợi ở một bản “tuyên ngôn”.
Theo chú thích của NXB Giấy Vụn (trong phần phụ lục tập Thơ Joseph Huỳnh Văn xuất bản 3-2011) thì đây là bài viết của những người chủ trương Tập san Văn Chương tại bản in số thượng tuần tháng 5-1973, trong đó có phần đóng góp không nhỏ của Joseph Huỳnh Văn. “Không phải là Tuyên ngôn”, nhưng những dòng trên đã chính là một tuyên ngôn nghệ thuật. Có lẽ không cần giải thích gì thêm vì những vấn đề được nêu ra đã được đặt ra từ ngàn đời nay, có trả lời them cũng chỉ rơi vào vòng xà quầng. Điều có thể nhận ra là nhóm này này đề cao vai trò của “chữ”, nói dễ hiểu hơn là xu hướng “nghệ thuật vị nghệ thuật” đã có từ ngàn đời nay. Nhưng nhữ “chữ” và “âm” của nó đã diễn tả được những điều cần diễn tả: cái đẹp. Điều này rất rõ trong bài thơ Mùa Cầm Xanh của Joseph Huỳnh Văn.
Hồng tuôn, em trắng nuốt dương tay
Thôi đã nghìn xưa hương khói bay
Đàn im, tôi biết làm sao thấy
Reo rắt, em tinh khiết buông tay
Réo rắt, em trong suốt như mây

Ôi khúc cầm dương sầu quý phái
Đàn ai ngăn ngắt trời tây phương
Xanh đóa hồn tôi xanh lá lê
Trong vườn tôi xanh đẫm tinh sương

Ôi khúc cầm xanh
sầu quý phái
Mưa trầm xanh cầm mộ ngát xanh
Tập thơ do Giấy Vụn xuất bản lấy bản do chính tác giả sửa chữa , vài câu không như bản được trích dẫn trên đây trong Tập san Văn Chương ngày xưa, nhưng tinh thần nghệ thuật không có gì khác với “tuyên ngôn” đã nêu. Hướng duy mỹ này, cách nay 70 năm (1942), Nguyễn Xuân Sanh đã từng thể hiện trong bài Buồn Xưa:
…Quỳnh hoa chiều đọng nhạc trầm mi
Hồn xanh ngát chở dấu xiêm y
Rượu hắt bầu vàng cung vấn vương
Ngón hương say tóc nhạc trầm mi
Lẵng xuân
Bờ giữ trái xuân sa
Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà
Nhài đàn rót nguyệt vú đôi thơm
Tỳ bà sương cũ đựng rừng xa…
Nghệ thuật là một đường vòng quanh co. Những gì anh cho là mới mẻ thì trăm năm xưa, ngàn năm xưa có thể đã có người khai phá ? Nhưng Tập san Văn Chương đến nay vẫn để lại dấu ấn khá đẹp trong lòng những người làm văn nghệ trước 1975. Điều này, trước tiên có lẽ nhờ ở…tư cách của người sáng tạo. Joseph Huỳnh Văn sinh năm 1942 trên vùng đất Quảng Đà. Ông nguyên được đào tạo trong một trường dòng, lớn lên lại ra đời nhập thế, đi dạy học. Người làm thơ muốn tìm cái đẹp trong từng chữ này có những câu thơ có thể gây thắc mắc:
Em đẹp như cách mạng
Vành khăn tang thấm đỏ giữa chiều vàng
Em đẹp như nát tan
Thuở bình minh
rạng rỡ xa nhau
Ôi vừng dương
vừng sầu
Em đẹp như hoàng hôn đổ máu
thầm giấu tên chúng ta
….
Ôi ! những người kiêu hãnh chẳng ngày mai
đẹp tàn phai
….
vì lòng hoài cách mạng
(MĨ TỪ điệu)
Những năm tháng này, hai chữ “cách mạng” như một biểu tượng trong 2 thế lực xung đột. Người nghệ sĩ, có thể biện hộ đây là “cách mạng” trong vẻ đẹp ngôn ngữ. Người khảo luận lại thích nhìn vào nhân than và những nguồn gốc sâu xa tạo nên cảm xúc.
Thi sĩ Joseph Huỳnh Văn tên thật là Huỳnh Văn Hiến. Ông có người anh ruột tên Huỳnh Văn Trọng, một trong những nhà tình báo của phe “cách mạng”, từng leo lên tới chức cố vấn đặc biệt (cùng với tướng tình báo Vũ Ngọc Nhạ) của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Năm 1969, vụ án gián điệp đổ bể, Huỳnh Văn Trọng bị bắt, đến 1973 được trao trả về phe “Chính phủ Cách Mạng lâm thời Miền Nam VN” tại Lộc Ninh. Nhà văn Cao Huy Khanh trong tập Chân dung “Những số phận đặc biệt” đang biên soạn truyền mạng, phần viết về Joseph Huỳnh Văn cũng xác nhận rõ mối quan hệ đặc biệt này.
Nhưng cần nói rõ, Joseph Huỳnh Văn là một nghệ sĩ thứ thiệt ! “Cách mạng” của đời thực và trong thơ ca có thể là biểu tượng của cái đẹp. Không như Nguyễn Miên Thảo sau 30-4 từ rừng về, xuất hiện tại nhà tôi trong bộ bà ba đen, lập tức bị Nguyễn Đức Sơn tới mò quanh bụng xem thử có dắt cây súng lục không ! Ngay sau 30-4, Joseph Huỳnh Văn đi làm thợ mộc. Nhưng trong nghề mộc, anh lại chỉ chọn chuyên phần đánh vẹt-ni trên gỗ. Những đường vân từ cây có khi lại đẹp hơn chữ nghĩa, mỗi loại gỗ phải đánh theo một cách để vân lộ ra hơn hay ẩn giấu. Anh mất tháng 2-1995. Khi đó chiếc đi-văng có hộc làm chỗ đựng đồ mà năm 1981 anh chở tới tận nhà cho tôi khi tôi tay trắng về lại Sài Gòn kiếm sống vẫn chưa phai lớp vẹc-ni ban đầu.

(còn tiếp)
* VIẾT THÊM CHO RÕ:

Bạn Võ Chân Cửu thiếu tên của tôi rồi. Chính ra là " San, Tụng, Hiền, Thuyên, Quảng, Ngữ" sau này có thêm Hầu là 7 người. Đây là nhóm văn nghệ lấy tên là " NỘI DUNG" vào khoảng những năm 60 ở Huế. Đã từng xuât bản tập thơ đầu tay của Nguyễn Miên Thảo : Hãy thức dậy cùng ta thầm lặng đêm nay. Đã từng đọc thơ ở Trường Đại học Sư Phạm Huế vào khoảng mùa đông 1967 trước Tết Mậu Thân. Và đã từng dự định ra 1 tập san văn học, có quảng cáo trên báo Bán nguyệt san VĂN hồi ấy. Bút danh của 7 người nói trên là: Thái Ngọc San (đã mất năm 2005), Nguyễn Miên Thảo, Từ Hoài Tấn, Hồ Trọng Thuyên (anh này chỉ có làm mấy bản nhạc, chơi đàn ghi-ta và hát rất hay, hiện định cư ở Mỹ), Mường Mán, Ngụy Ngữ, Phạm Tấn Hầu. Sau này dĩ nhiên mỗi người có một cuộc sống và một con đường khác, không cần phải bàn luận thêm.

Thứ Tư, 21 tháng 3, 2012

ÔI ... BIÊN TẬP - TRẦN HUIỀN ÂN

Tôi xin chia sẻ một cách đắng cay và cáu kỉnh với nhà thơ-nhà văn Trần Huiền Ân bằng cách nêu ra đây nột số lần “đọan trường” của bản thân. Bài thơ của tôi năm 1995 “Hai mươi năm ta đánh giặc nghèo/ Mở đường máu cho con ta vào đại học” bị “cắt” nguyên bài vì “ông” bảo là…mất quan điểm! Ông phán “xung quanh đại học làm gì có chiến tranh”! Còn may là tôi không bị “vịn” vì câu này! “Ơ T.A nếu phải quê nhà” bị sửa là “ Ở T.A...” trong toàn bài làm tôi nhục quá chỉ e bạn bè bốn phương chửi cho cái sự ngu của mình!! Một lần khác tôi viết “tính phồn thực trong văn hóa…” được ông dạy cho rằng đó là …phồn vinh!...
CAO THOẠI CHÂU
--------------------
Ôi...biên tập! Trần Huiền Ân

Khoảng 50 năm trước, có lần ông Võ Hồng phàn nàn rằng khi ông tả cảnh nhà quê, trong vườn có một bụi duối, thì “thầy cò” (người sửa bản in) không biết cây duối, sửa lại thành bụi chuối. Sai quá đi chứ, nhưng tạm chấp nhận vì trong vườn có bụi chuối cũng hợp lý, bạn đọc chẳng biết đâu mà chê trách.
Hiện nay, mỗi tác phẩm được in đều qua một hay hai cán bộ biên tập (CBBT) của nhà xuất bản. Điều đáng tiếc là các vị này có quyền hành to lớn, muốn sửa tác phẩm thế nào cũng được, nhưng một số vị thiếu sự hiểu biết sâu rộng, thành ra nhiều khi sửa theo suy nghĩ riêng tư, làm sai lạc hẳn ý nghĩa.
Lấy trường hợp của chính tôi, xin nêu ra mấy điểm cụ thể sau đây:
- Tác phẩm Lễ tục vòng đời: trăm năm trong cõi người ta, NXB Văn Hoá Thông Tin. Tên tác giả là Trần Sĩ Huệ, một chỗ sửa thành Trần Sỹ Huệ, một chỗ khác, chắc thấy chữ Sỹ cũng chưa hay, chưa đẹp, sửa thành Trần Trí Huệ !
- Tác giả trích nhận xét trong sách Đại Nam nhất thống chí về Phú Yên: “Dân tục chất phác...”, CBBT sửa thành “Dân tộc chất phác...”!
- Nha văn hóa, sửa thành nhà văn hóa. CBBT không biết nha là một cơ quan thuộc bộ trong chính quyền miền Nam trước 1975, tưởng là các nhà văn hóa hiện nay.
Tác giả viết: “Suốt thời kỳ Nho học, Phú Yên chưa có vị nào đậu đại khoa”. CBBT sửa lại: “Suốt thời kỳ Nho học Phú Yên chưa có vị nào đậu đại học”! Đại khoa và đại học, nghĩa khác nhau một trời một vực !
Có khi sửa theo cách nói địa phương nào đó, ông thầy = ông thày, dạy học = dậy học, người đọc tưởng đâu ông thầy (đang nằm) ngồi dậy học... Và nhiều chỗ rất phi lý nữa.
- Tác phẩm Đất Phú Trời Yên, NXB Lao Động.Tác giả viết: “chuyện dân gian, dan ca, cà kê dê ngỗng với nhau”. CBBT không hiểu trong ngôn ngữ bình dân dan ca có nghĩa là chuyện dông dài, không đầu không đuôi, hết chuyện này đến chuyện khác, sửa thành dân ca!
- Tác giả trích một bài thuật lại trận bão năm Giáp Tý 23.10.1924, trong đó dùng Pháp văn “23 Octobre 1924”, CBBT cho rằng viết sai Anh văn, sửa lại “23 October 1924”. Như vậy không hợp lý vì thời ấy dùng Pháp văn, chưa dùng Anh văn.
- Tác giả viết về “tiếng chim bồ chao ồn ào đối đáp, gọi là chim đánh”, không biết CBBT căn cứ vào đâu sửa lại: Chim bồ chao hay còn gọi là chim đính”. Có nơi nào gọi chim bồ chao là chim đính chăng ?
- Những địa danh, CBBT cũng tự ý sửa lại. Thuộc Hà Bạc, sửa thành Thuộc Hà Bắc (8 lần); Sông Cầu sửa thành sông Cầu (5 lần).
Xin thưa: Thuộc là đơn vị hành chánh xưa ở miền Trung thời chúa Nguyễn và đầu nhà Nguyễn, ngang với cấp tổng, hà là sông, bạc là bến. Những nơi làng xóm ở ven sông, cửa biển gọi là thuộc Hà Bạc, sao lại bắt nơi nào cũng thuộc Hà Bắc? Tên thị xã (trước đây là huyện) Sông Cầu, là một đơn vị hành chánh thì phải viết hoa cả (Sông Cầu), đâu phải tên con sông Cầu !
Với cách biên tập như thế, người đọc sẽ nghĩ sao về trình độ cơ bản của tác giả ?
Một vài vị CBBT các báo cũng hay sửa ẩu. Như: đan đát sửa là đan lát. Xin thưa: muốn có cái rổ, thúng, nia... người ta dùng nan đan phần chính, phần chung quanh để lận lên gọi là đát, nói chung là đan đát, sao là đan lát? Hồi 1975-1980 có các hợp tác xã đan giỏ xách bằng sợi cói, còn gọi là sợi lác, không phải lát. Câu ca dao Rồng chầu ngoài Huế, ngựa tế Đồng Nai..., tế là nước chạy nhanh của ngựa, sửa thành “ngựa tuế Đồng Nai”...
Đúng là sửa đâu sai đó. Sai trầm trọng. Chứ cây duối của ông Võ Hồng biến thành cây chuối thì đâu nhằm nhò gì! Các tác giả gặp phải cảnh này (như tôi) chắc cũng (như tôi) không còn biết nói gì hơn, đành ngửa mặt lên trời mà kêu rằng: Ôi, biên tập!

Trần Huiền Ân
Nguồn: Báo Tuổi Trẻ

(Đăng lại từ Blog CTC)

Thứ Ba, 20 tháng 3, 2012

NỖI LO - PHAN LỆ DUNG

Làng tôi không xa thành phố
Đi một vòng xe buýt là đến nơi
Ruộng cạn, ruộng sâu không có ranh giới
Con đê làng líu ríu chay quanh
Thường thì mùa xuân đến chậm
Bởi cánh đồng đất vẫn còn ươm
Những người nông dân da đen sạm
gánh mạ trên vai
thả giấc mơ vào cánh đồng lúa chín
Nơi ấy mùa xuân về không hẹn ngày đi
Chiều, người già ngồi mơ hạt gạo trắng
Mắt mở lim dim
Thiếu nữ xinh như cánh bướm
Nhìn mây ái ngại
Sợ ngày mai mưa bão
Lũ trẻ con thấp thỏm
ra bến sông mong thấy mặt trời xuống nước
Người đi đường lấp ló cơn mưa trong mắt
rì rầm lời cầu xin mưa thuận gió hòa

Tôi về
Một chiều hè trời mây xám
Gió thổi xéo qua làng
Chị tôi chờ tôi bên ao nước cạn
Khuôn mặt ráo hoảnh mồ hôi
thảng thốt ngó trời
Nỗi lo ngấm trong khóe mắt

Tôi hết nhìn chị lại nhìn ra sông
Hai con cá bống chết khô trên bến cát

Gió thổi dạt những ngọn lá về phía chân cầu
để lại bên đường tia nắng yếu ớt
nằm vắt trên vạt cỏ khô nhợt nhạt.
Trời vẫn không mưa

Thứ Hai, 19 tháng 3, 2012

CHẤP TAY DÒNG ĐỜI ( KỲ 8 ) _ VÕ CHÂN CỬU



Rau tập tàng

Lần nào về quê, tôi cũng nhờ nấu một bữa canh rau tập tàng. Ở quán Bông Giấy vỉa hè, tưởng tôi nói nghĩa bóng, có nhà thơ nữ “tân hình thức” liền phản bác: thơ hiện đại là hiện đại. Chứ làm sao có chuyện “tập tàng” trong đó được.
Xưa hay nay cũng vậy, giới cầm quyền theo phong cách “toàn trị” vẫn muốn mọi sự phải theo khuôn mẫu; một là một, hai là hai ! Sống trong nền giáo dục đó, giới tập sự cầm bút cũng ảnh hưởng nếp suy nghĩ đó một cách vô thức. Một người bạn được phong là hàng ngũ chủ lực của nhóm “hâu hiện đại”, và là “hội viên Hội nhà văn thành phố” cũng nhiều lần mong muốn tôi phải “làm mới thơ”. Một người chuyên làm thơ từ trước hẹn sẽ lên Bảo Lộc thuyết giảng cho tôi nghe về lý thuyết phong cách sáng tác “hậu hiện đại” của phương Tây (thực ra thông tin về cao trào này đã về tới Việt Nam hơn 30 năm, tới nay đã cũ mèm).

Phá thể, Tự do
Nam Việt Nam những năm 1967-1975 đã bùng phát đội ngũ các nhà thơ trẻ. Họ không phủ nhận tính chất sáng tạo của thể thơ tự do mà nhóm Tạp chí Sáng Tạo (dẫn đầu là Thanh Tâm Tuyền-TTT) cổ vũ, cũng không tìm cách quay về với loại thơ phá thể của thời kỳ Thơ mới (1932-1945). Lớp thi sĩ này làm đủ các thể thơ, thể nghiệm cả những bài thơ dài mỗi câu 6 chữ, 5 hoặc 4 và cả những câu 2 chữ mà Nguyễn Vỹ đã thể nghiệm hồi mấy chục năm trước. Trong tập Tịnh Khẩu (1973), Nguyễn Đức Sơn còn thử nghiệm thêm cả thể thơ “một chữ”, như bài Không Đề:
“ Hột
Thì
Le”
Chữ Việt là ngôn ngữ đơn âm, khó lòng cạnh tranh về âm điệu với các ngôn ngữ đa âm ( tiếng Anh, Pháp, Đức…) thì có nhà thơ tím cách “điệp âm”. Hình thức bây giờ không quan trọng nữa. Miễn sao bài thơ diễn tả được tinh thần hư vô, hoang mang về số phận con người. Hai nền triết học Đông-Tây nay đã gặp nhau trong về sự bế tắt tư tưởng. Giới hoạt động tôn giáo chăn dắt linh hồn con người muốn hòa đồng sự biểu hiện : giáo đường thiết kế gần với kiến trúc đình chùa; các nhà sư tốt nghiệp học vị từ Nhật Bản về xấn tay cổ vũ mô hình “tân tăng” : thầy chùa có thể ngã mặn, có vợ .
Thi ca được xem là đỉnh cao của triết học. Các nhà thơ đã không từ chối sứ mạng hướng tâm hồn con người đến cõi vô vi. Tiếc là thời gian ngắn ngủi (do chiến tranh) và có thể vì “tu luyện” chưa tới nên nhiều cây bút đã lâm cảnh “tẩu hỏa nhập ma”. Người giả khùng giả điên, kẻ sa vào ngợi ca say sưa lãng quên đời qua chén rượu, hay gái giang hồ. Nguyễn Bắc Sơn qua Chiến tranh Việt Nam và tôi trở nên ngạo nghễ qua hình ảnh : Mai ta đụng trận ta còn sống, Về ghé Sông Mao phá phách chơi, Chia sớt nỗi sầu cùng gái điếm, Đốt tiền mua vội một ngày vui. Vô duyên hơn cả có lẽ là Phạm Thiên Thư khi tự hào làm ra tác phẩm “Đoạn Trường Vô Thanh-ĐTVT” có số câu lục bát dài hơn cả “Đoạn Trường Tân Thanh” !
Về tác phẩm này, cuối 1974 một thi sĩ chân quê ở An Nhơn Bình Định là Nguyễn Câu Mục đã viết một bài phê bình khá dài gửi cho Nam Chữ và tôi để in trong mục Phê Bình của Tập san Thi Ca chuẩn bị ra đời. Đoạn cuối bài viết : “Như ta đã được biết, ý của tác giả là “Cho thơ hòa với mênh mang, Cho mênh mang đọng hạt tràng vô thanh”. Nhưng đi sâu vào tác phẩm thì không có những chứng cớ gì để giải được cái cuộc “đoạn trường” ra cả. Tác giả buộc dây thêm cho Kiều thì có!...Xét nội dung ĐTVT là một câu chuyện bịt mắt bắt bóng. Đem việc hóa thân ra để nói đó là một bất lực lớn của tác giả. Cho nên nó chỉ có giá trị ở những chương rời. Do đó, ta đồng ý với tác giả khi gọi đó là thi tập. Còn hình thức thì tưởng tượngtoàn tập với 3694 câu thơ, mà có trên dưới hai ngàn hình ảnh núi, non, chim, suối, hoa, cỏ, động, rừng, khói, sương,mây trăng, lệ, nước, đàn, hương…thì hỏi thơ làm sao không “ ước lệ”, thơ không “đẹp” được ! Tôi đã đọc ĐTVT kỹ càng, tôi đã tìm xét tỷ mỉ nên tôi nói: Phạm Thiên Thư chỉ mới là bước đầu của người tài hoa, nhưng vì quá lạm dụng tài hoa của mình nên thơ ĐTVT đã trở nên nhàm chán mau chóng. Do đó, ai nói ĐTVT là thứ thơ ở trong lòng tất cả mọi đời người, kẻ ấy thật đáng tội”.
“Ước lệ” là một trong những tính chất của thơ ca âm hưởng phong cách Đường Thi. Những trăng, hoa, tuyết, nguyệt khi đọc lên hiển hiện những hình ảnh, tình cảnh chuẩn mực. Trong nghệ thuật, khuôn mẫu sẽ trở thành sáo rỗng. Chính vì vậy nên hình bóng người kỷ nữ, gót phiêu du, đường phiêu lãng giang hồ…của thế hệ thơ mới đầu tiên qua tháng ngày cũng trở thành rỗng tuếch. Hàn Mạc Tử, Bích Khê mở cửa vào thế giới cuồng loạn của màu sắc và âm thanh. Tất cả rồi cũng bế tắc. Thế hệ thơ kế tiếp, nhóm Xuân Thu Nhã tập đi vào ngữ thanh, sử dụng điệp âm. Chữ nghĩa chỉ chuyển tải âm điệu những “đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà”.

Di cư vào Sài Gòn, năm 1955, Thanh Tâm Tuyền (TTT) mới tròn 21 tuổi dõng dạc tuyên bố: “Trong cái quá trình cấu thành nhạc điệu của” thơ mới” sau khi giải phóng khỏi sự câu thúc của thơ luật, người ta cũng cảm thấy sự nghèo nàn của điệu thơ lẩn quẩn trong bốn câu hay hai câu nối tiếp, nên đã dẫn đến sự sử dụng thể hỗn hợp của ca dao và thơ phá thể…Thơ phá thể chính là biểu hiện của thơ mới ở ngõ cụ, nhạc điệu của thơ phá thể là một thứ nhạc điệu nghèo nàn và giả tạo nhất… Bởi thế thơ hôm nay không dừng lại ở thơ phá thể, thơ hôm nay là thơ tự do”
Làm thế nào để nhận dạng “thơ tự do” ? TTT mạnh dạn giải thích ( về mặt hình thức): …vần điều của thơ tự do là nó không gieo vần theo lối đồng âm đồng thanh, vần của nó là vần ẩn giấu cách xa (có thể đi tới khác ẩm, nghịch thanh), nhịp điệu của nó là sự phối hợp của một toàn thể không khuôn trong một số câu nhất định khiến cho thơ tự do dễ kéo dài hơn các hơi thơ khác”.
Chỉ với hình thức, thì người ta sẽ không nhận ra sự có mặt tất yếu của thơ tự do thời kỳ mới của nghệ thuật. Chịu ảnh hưởng văn hóa phương Tây, TTT đã viện dẫn đến lập luận của triết gia Nietzsche để nói về sự cần thiết của dòng thơ ông đeo đuổi: “Khi nghiên cứu về bi kịch của Hy Lạp, Nietzsch đã phân biệt hai khuynh hướng đối chọi nhau trong nghệ thuật. Với quan niệm nghệ thuật Apollon, nghệ thuật phải đạt được những hình thức toànn vẹn, minh bạch vững vàng, một nghệ thuật của mơ mộng, một cáo Đẹp kết lại được ở hình thức có mẫu mực: nghệ thuật bắt nguồn từ một nhân sinh quan bình yên nhìn ngắm và chấp nhận đời sống. TTT đồng cảm với Nietzsche để cổ vũ cho hướng thứ hai: quan niệm nghệ thuật Dionysos: “nghệ thuật phá vỡ những hình thức sẵn có hỗn loạn trong những niềm cảm xúc, một nghệ thuật của say sưa, một vẻ đẹp hãi hùng mọi rợ, nghệ thuật bắt nguồn từ một nhân sinh quan bi hảm, đắm chìm trong khổ đau không bao giờ chịu chấp nhận. Cái khuynh hướng thứ hai này thường bị hất hủi coi thường, nhất là trong cái xã hội ngưng đọngmấy nghìn năm, ở đây người ta giương mắt thản nhiên nhìn ngắm những đau khổ.”
TTT xác nhận: “Chính từ sự phân biệt của Nietzsche, tôi dùng làm khởi điểm để mở cho người đọc không thấy được sự cách biệt giữa thơ hôm nay với họ mà họ phải vượt qua, không phải là sự cách biệt tầm thường ngoài hình thức mà là chia cách từ căn bản của nghệ thuật, của thơ”.

Chất liệu trần gian

Đi vào lý luận sẽ dễ rơi vào cố chấp. Sự khẳng định về thơ tự do của TTT giúp cho người đọc thấy được nhịp điệu của trí tuệ trong cảm xúc thơ. Nhưng trí tuệ vẫn luôn là…hữu hạn. Trước TTT , một số nhà thơ tài năng đã nhìn ra điều này để đi tìm cái đẹp vĩnh cửu của thơ. Năm 1944, Đinh Hùng cùng với Trần Dần, Vũ Hoàng Địch, Trần Mai Châu… chủ trương thực hiện giai phẩm Dạ Đài, tự nhận mình là thi sĩ tượng trưng và tuyên bố: "Chúng tôi sẽ nối lại nghiệp dĩ của Baudelaire, tâm sự của Nguyễn Du – sự nổi loạn và ra đi của Rimbaud – nỗi cô đơn của những nhà thơ lãng mạn. Chúng tôi sẽ vén cao bức màn nhân ảnh, viết lên quỹ đạo của trăng sao – đường về trên cõi chết... Thi sĩ tượng trưng chúng tôi sẽ nói lên và chỉ nói lên bằng hình tượng, thứ ngôn ngữ tân kỳ, ngôn ngữ của thế giới yêu ma, của những thế giới thần nhân mà cũng là thế giới âu sầu đây nữa. Bằng hình tượng, chúng tôi sẽ kể lại những câu chuyện xa xưa người ta kể cho chúng tôi nghe dưới ngọn đèn. Chúng tôi sẽ tìm hiểu linh hồn của những ca dao, tục ngữ. Chúng tôi sẽ tượng trưng hóa cái sức rung động của trẻ em trước chuyện cổ tích hoang đường và sức rung động của gã nông phu trước những bản đồng dao thuần phác..."
Thi sĩ Đinh Hùng (1920-1967) đã thử nghiệm diễn tả cảm xúc bằng sự pha trộn nhiều thể loại trong một bài thơ. Đến năm 1954 ông mới tập hợp những bài thơ làm theo xu hướng đã tuyên ngôn để xuất bản thành tập Mê Hồn Ca. Những câu trong bài “Gửi người dưới mộ” là một nổ lực đổi mới hình thức thơ phá thể:
… “Cười lên em !
Khóc lên em !
Đâu trăng tình sử
Nép áo trần duyên ?

Gót sen tố nữ
Xôn xao đêm huyền
Ta đi lạc xứ thần tiên
Hồn trùng dương hiện bóng huyền U Minh

Ta gửi bài thơ anh linh
Hỏi người trong mộ có rùng mình ?
Nắm xương khô lạnh còn ân ái ?
Bộ ngực bi thương vẫn rợn tình ?
……..

Đừng cố chấp với hai chữ “tượng trưng”, sẽ dễ nhận ra rằng hình thức thể hiện của một bài thơ không là quyết định. Cái đẹp đích thực chính là bề sâu tâm hồn mà nó mang tới.
Thơ ca Miền Nam trong giai đoạn cuối (1967-1975) tự do trình diện nhiều món. Cả những cây bút hàng đầu của nhóm Sáng Tạo, như Tô Thùy Yên, và cả Thanh Tâm Tuyền sau 1975, khi đi “học tập cải tạo” về, đã không ngần ngại sử dụng lối thơ phá thể. Nhưng trong sự ràng buộc của cách gieo vần, vẫn thể hiện được nghệ thuật theo “quan niệm Dionysos”. Phải chăng trong một bát canh rau tập tàng, người nấu khéo, thấu hiểu tính năng của từng loại rau cỏ, có thể thêm thắt nhiều loại, và lại làm cho bát canh thêm thi vị. Ngoài đọt mướp, tàu bay, cải trời, có người cho thêm cả những đọt “hoa cứt lợn” tức cỏ hôi vào cho nồi canh thêm ý vị !
Tôi nhớ lời Tản Mạn của mình trên Tập san Thi Ca về vấn đề này :“Lời như nước chảy mây trôi, như bập bùng ma đuốc. Kẻ còn ở trong giới hạn tất nhiên của một kiếp người, có mấy khi tới được chốn của nước chảy mây trôi. Sao vẫn muôn đời đi tìm những quy định cho mây gió, mẫu mực của bao la ? Chỉ có tể là Thơ khi chất liệu của trần gian chảy qua máu xuống người thi sĩ, và trở lại là mây khói hư không. Giữa hai tầng trên dưới, Đẹp là chốn thăng bằng. Thơ đâu chỉ thuần cái Đẹp, đâu chỉ là Nhạc”. ( Bài “Tin sương luống những rày trông mai chờ”, ký bút hiệu Huyền Thạch)
Mấy câu thơ “truyền mạng” của Tô Thùy Yên qua bài lục bát “Hái rau” làm thú vị thêm về hai chữ “tập tàng”:
Chiều ra đồng hái rau hoang
Nghe buồn trong gió thổi tràn mặt da
Ơn trời ơn đất bao la
Hái đi này những xót xa kiếp người
Cổ kim chung một giải trời
Kinh thi cũng có bóng người hái rau
Lâu rồi nhật nguyệt tiêu tao
Tập tàng góp nhặt, trả hầu nợ thân
Cơ trời núi đổ, sông dâng
Miếu đường bay mái, thánh thần lạc thây…

( Còn nữa)

Chủ Nhật, 18 tháng 3, 2012

ĐÓN ĐỌC TÁC PHẨM MỚI CỦA CAO THOẠI CHÂU

Vách Đá Cheo Leo
52 Tạp văn + 52 bài thơ mới nhất
của Cao Thoại Châu

Viết về những cái nhiễu nhương “thời thổ tả”.

Bạt của Hùynh Thị Nhung ( họa sĩ) gọi đó là “Những mảnh vá” và bạt Nguyễn Liên Châu (nhà thơ) viết “Tưởng như vặt vãnh nhưng kỳ thực, đó chính là những lỗ nhỏ đắm thuyền”
*Nhà xuất bản Hội Nhà Văn
260 trang trắng tinh sáng màu rực rỡ khói sương.
Có 50 bản đặc biệt mắt người thường đọc không thấy..
Phát hành ngày 1-4-2012/ Muốn mua qua bưu điện, vui lòng
liên lạc với thoaichaucao@gmail.com
hay ĐTDĐ 0903106359


Thứ Bảy, 17 tháng 3, 2012

NÔN NAO TIẾNG GÀ GÁY SÁNG - CAO THOẠI CHÂU

Đất nước có đôi lần bị mất
Một ngàn năm không thực sự quá dài
Thời gian ấy có thể là tấm lịch
Treo lên tường cho nhà cửa thêm vui

Mất, và chưa bao giờ không giành lại được
Chưa bao giờ đất tự bỏ ra đi
Đất vẫn của người như da với thịt
Cóng đêm đông rát bỏng trưa hè

Đất của những bàn chân in dấu
Thời gian không xóa được bao giờ
Đất chật in cả chân lên đá
In lên sông ngòi lên biển khơi xa

Bao thế hệ người rầm rập đi qua
Dấu in lại trên từng trang sách
Trên câu thơ câu hò tiếng hát
Từng lời ru sóng vỗ đôi bờ

Bàn chân đi nới rộng sơn hà
Chân đất có cả chân cành vàng lá ngọc
Công chúa ơi thuở nào rơi nước mắt
Dấu chân người in trên đèo Hải Vân

Đất của những bàn chân tình sử
Đặt lên tim nhau thấm mối tình nồng
Một sáng nào tim run lên bần bật
Tình yêu như quà tặng của cha ông

Đất có một đôi lần bị cướp
Nhưng đất không đi biệt bao giờ
Kẻ gian tế chỉ cướp đi phần xác
Phần hồn sừng sững núi non kia

Và hôm nay tức là mãi mãi
Tình đi xa xứ lại quay về
Cảm động đến làm rơi nước mắt
Lệ lại hòa hồn cốt núi sông kia
16-3-2012

Thứ Sáu, 16 tháng 3, 2012

PHÍA - CÓ - EM - HOÀNG LỘC



trái đất quay hoài không biết mệt
và ta riêng chịu những ưu phiền
tiếng chuông gióng mấy hồi xa biệt
mà giáo đường chưa ngớt áo em

ta sống một đời không dối trá
trái tim còn đọng những hồi chuông
em không về, em không về nữa
mà sắc hương kia vẫn rất buồn

có lúc ngàn mây ta thấy được
màu trăng màu áo của xa xưa
biết khi gió nổi làm em khóc
ngấn lệ còn nguyên mỗi sững sờ

không thể ngồi khuya cho tới sáng
cùng che gió thắp lại ngọn đèn
ta theo trái đất qua ngàn dặm
lòng cứ quay về phía-có-em

2-3-12


hoàng lộc

Thứ Năm, 15 tháng 3, 2012

CHẮP TAY DÒNG ĐỜI ( KỲ 7 ) - VÕ CHÂN CỬU




Hoa Lưỡi Cọp
Vào đêm, lối đi trước cửa bỗng ngân lan thoảng một mùi hương thanh khiết. Tìm kỹ, mới hay nó từ mấy chuỗi hoa lưỡi cọp.
Nhiều nơi chỉ biết trồng nó vô chậu nhỏ, đặt trên kệ đầu giường vì ban đêm lá tuôn thêm dưỡng khí. Cánh hoa bé, không đẹp, mùi hương âm thầm chỉ dành cho bạn tri âm. Cõi thơ ca hình như cũng vậy.
Mỗi người làm nghệ thuật thường diễn tả theo cách sử dụng ngôn ngữ riêng. Không như vậy thì những gì vẽ hoặc nói, viết ra chưa thể là tác phẩm. Ngôn ngữ riêng ấy không thể tự nhiên mà có. “Thấy người ta ăn khoai, mình vác mai đi đào” sẽ làm nên những gì vô nghĩa.

Mưa vẫn mưa bay…
“Diễm xưa” tương truyền là một trong những bài hát đầu tiên được Trịnh Công Sơn viết ngày còn học trường Sư phạm Quy Nhơn. Khi bản nhạc được nhiều người hát, và tên tuổi nhạc sĩ họ Trịnh ngày một vang dội, thì người ta phân tích nhiều những lời hát như thơ của ông. Đất Quy Nhơn với Thành Đồ Bàn từng là mộ trong các kinh đô của người Chăm. Bài hát tưởng như được gợi cảm từ những toà tháp cổ. Nhưng có người khi đó đã nói rằng không phải vậy. Tại Miền Nam, thời điểm giữa những năm `60, quân đội viễn chinh xuất hiện ngày càng đông, kéo theo phim ảnh, sách vở cùng những luồng văn hóa ngoại lai. Phụ nữ thành thị lúc này lại có mode bới tóc theo hình con nhím (khởi đầu trước đó từ Trần Lệ Xuân, và từng bước được cách tân). Tầng tháp cổ chính là một cách diễn tả về mái tóc trên cổ của cô gái vai trần. Thật thú vị về cách sử dụng ngôn ngữ của nhạc sĩ họ Trịnh. “Còn hai con mắt khóc người một con”, nguyên văn từ một câu thơ của Bùi Giáng được nhạc sĩ dùng ở một bài khác để nói về “gái một con” chứ không phải khó hiểu là “khóc một con mắt”, có người cũng bình tán phong phú thêm như vậy.
Chiến tranh và những nhiễu loạn xã hội lúc này làm bùng phát nhiều dòng sáng tác đa dạng. Các luồng triết học từ Heideger đến Jean Paul Sartre với các chủ nghĩa hiện sinh, hư vô xâm nhập bừa bãi vào đầu óc một số người trẻ. Thiền học được xiển dương như một sự cứu rỗi. Sự hỗn loạn trong tâm thức khiến một số lớn người trẻ bị sách vở mê hoặc. Không ít người làm được dăm bài thơ đã tưởng mình là “thiên tài” đã vội vàng bỏ học vì “khinh bỉ học đường. Trường phái “tiểu thuyết mới” và những “cách tân thơ ca theo hướng hiện đại” đã nẩy sinh nhiều nhà văn nhà thơ dù học hành chưa đến đâu, chưa viết nổi câu văn ra cau đã vội vàng đưa ra những cách thể hiện mới. Thảng hoặc có những sáng tác ghi dấu ấn thì có những bài thơ không nhịp điệu. Những hình ảnh thô tục, câu thơ lạc điệu với những tương phản được biện minh là những “công án”, một cách “Phùng Phật, Sát Phật”, hay “chối từ thượng đế” của các cây bút hiện đại. Từ ngàn đời nay, thiên hạ đã phân định chỉ có hai loại “thơ hay” hoặc “thơ dở”, thì lĩnh vực thơ hôm nay sự phân loại hình thức thêm rắc rối bỡi những gán ghép nào là “thơ tư tưởng”, “thơ thiền”,”thơ văn xuôi”.v.v.

Điên !
Tôi cũng nhiều lần phải chìm đắm bởi những khúc hòa âm vạn vật. Chiều xuống, vũng nước đầu hè vang lên tiếng chẫu chàng. Góc cuối, âm vang động vật đáp lại. Rồi tất cả mọi côn trùng:những con ong về tổ; ve ran dưới lùm cây. Tất cả cùng ngân nga. Mỗi sinh vật trên đời đều muốn chứng minh sự hiện hữu; đây là khoảng trởi riêng của mình. Vuông giống trời lấm tấm những vì sao.
Con người sau những lo toan vật chất cũng đều muốn tự khẳng định mình. Nhà thơ có cách thể hiện riêng. Do nhiều nguyên cớ nên giai đoạn 1968-1975 lại có những thi sĩ lại muốn giới thiệu mình trong vóc dáng “điên”.
-“…đang ở ẩn. Ai cần gặp xin liên lạc theo địa chỉ…” Người ta bắt đầu đọc được trên tạp chí Văn những dòng nhắn tin cậy đăng như vậy (phải là tác giả đã có nhiều bài được in thì tòa soạn mới nể nang cho cậy đăng). Đã ẩn tu mà vẫn nhắn tin cho mọi người biết ! Một số nhà thờ bắt đầu “điên” đã tự quảng bá mình như vậy !
“Điên” lúc này như một cách biểu hiện cá tính của nhiều lớp người, từ trí thức nghiên cứu, giáo sư giảng dạy. Nhiều nhất là các văn nghệ sĩ. “Điên” có xu hướng là một mốt thời thượng. Theo cách hiểu của người đời, “điên” là có những hành động, cử chỉ, thậm chí cả trong suy nghĩ khác với bình thường. Mỗi con người sống, thường chỉ xoay quanh những lo toan về vợ (chồng) con, gia đình, cơm áo…Văn nghệ sĩ thì hay mơ mộng, tưởng tượng ra những điều không thực nên có thể có những sinh hoạt khác thường. Họ dễ bị người đời gán ghép là…điên.
Y học có cụm từ “tâm thần phân liệt” để miêu tả trạng thái bất bình thường trong hệ thống thần kinh của con người. Tùy theo mức độ nặng nhẹ của sự phân liệt thần kinh để kết luận dấu hiệu tâm thần. Mỗi người qua nhiều sự cố hưng phấn quá độ hay ức chế đều dễ bị phán là bị “phân liệt”. Như vậy hiểu theo rộng thì con người rất dễ bị “điên”; nếu đi khám bác sĩ ai cũng dễ bị sa vào cảnh tâm thần bị phân liệt. Con người rất dễ bị điên. Nhưng có những kiểu điên “đẹp” và…điên loạn. Theo cách hiểu thông thường, một người chỉ bị coi là điên khi liên tục nói xàm hoặc xé quần xé áo, ở truồng ra đường.
Văn nghệ sĩ điên…theo kiểu không giống ai. Có lẽ do bị ảnh hưởng từ các thi sĩ Pháp (Tôi nhớ Rimbeaux với Verlaine, Hai chàng thi sĩ chóng hơi men...)nên gần những năm `40 thế kỷ 20, nên nhiều nhà phê bình đã xếp Hàn Mặc Tử và Bích Khê vào trường thơ “điên loạn” khi các thi sĩ này gào lên : “ta cởi truồng ra, cởi truồng ra…”
Các thi sĩ Việt Nam lúc chiến tranh Việt Nam lên cao độ đã “điên” ra sao ? Mở đầu cho cao trào điên có lẽ là nhà thơ Nguiễn Ngu Í quê ở Bình Tuy, được tạp chí Bách Khoa “lăng xê” khá nhiều vào trước và sau những năm thập kỷ `60. Ông sinh năm 1921, năm 1941 có lần bị điên thật, vào nhà thương điên chữa bệnh, một năm sau hết điên, nhảy vào làng văn trận báo, sáng tác nhiều bài thơ yêu nước. Ông có lối “cách tân” kiểu xếp vần chữ quốc ngữ khi thay chữ “y” bằng chữ “i”, quê viết là “qê”(bỏ nguyên âm “u”). Lối xếp chữ ấy về sau có một số người dùng ( như Trần Huiền Ân…) nhưng ít có ai bị xem là…điên. Thì ra Nguiễn Ngu Í còn đưa ra nhiều luận thuyết về lịch sữ, xã hội, con người…Điên như Nguiễn Ngu Í được sách báo cho là điên…thông thái. Năm 1977 ông vào ở hẳn trong Dưỡng Trí Viện Biên Hòa, hai năm sau thì mất.
Tới hôm nay, ngồi nhớ lại, tôi nghiệm ra là khi chiến tranh cao điểm , không phải chỉ ở Miền Nam mà cả trên đất Bắc, nhiều người có học cũng…giả điên. Ngay sau 1975, tôi đã gặp một số người làm thơ từ đất Bắc vào, mắt họ lúc nào cũng xa vời, nhíu mày, miệng lẩm bẩm như đang nói thầm. Thì ra, để được an nhàn, ít bị dòn ngó, có người vẫn giữ thói quen đóng kịch. Rằng mình đang chịu khó tư duy công tác cấp trên giao…Thời thế vẫn làm đảo điên con người.
Nhưng ở Miền Nam, ly kỳ nhất trong các kiểu điên lại thuộc về thi sĩ Bùi Giáng. Khoảng năm 1965 các báo ở Sài Gìn đưa tin căn nhà trọ nơi thi sĩ Bùi Giáng ở trên đường Bà Hạt bị hỏa hoạn. Ngọn lửa thiêu hủy tất cả bản thảo, sách vở, tài liệu khiến Bùi Trung niên thi si” hỗn loạn tinh thần, mong rằng ông không…hóa điên.

Thần Tiên lâm nạn
Bùi Giáng sinh năm 1926 tại huyện Duy Xuyên, Quảng Nam.Theo một số người có họ hàng xa gần với Bùi thi sĩ, người thi sĩ tài hoa kỳ lạ này đã bị chấn động tinh thần kể từ khi người vợ yêu quý của ông bị chết trong trận lụt kinh hoàng năm Nhâm Thìn tại làng Vĩnh Trinh, Quảng Nam cách nay 60 năm. Hình ảnh trận lụt và bóng dáng người yêu dấu ấy được thể hiện rất nhiều bài thơ tả cảnh làng quê ông, kể cả trước trận lụt lịch sử , như Người con gái lội qua khe, Bàn chân với nước lạnh đè lên nhau… (nhiều nhất là trong tập trong tập Mưa Nguồn. Hoảng loạn tinh thần khiến tài năng càng phát tiết. Bùi Giáng càng làm nhiều thơ, dịch sách, khi vào sinh sống, dạy học ở Sài Gòn còn viết cả sách việt văn luyện thi trung học đệ nhất cấp ( các giảng luận về Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, Chu Mạnh Trinh, Tôn Thọ Tường, Phan Văn Trị). Sau trận hỏa hoạn 1965, Bùi thi sĩ sa vào chơi chữ, kể cả khi dịch thuật. Các sách của Bùi Giáng như Đi vào cõi thơ, Thi ca Tư Tưởng, Mùa Thu trong Thi Ca…lúc này có sức thu hút lạ kỳ. Nhiều bạn trẻ làm văn nghệ theo sau đã …bắt chước điên. Viết về Bùi Giáng, sau đó có người viết để…không ai hiểu gì cả, chữ nghĩa lộn tùng phèo, mộng và thực, huyền thoại và điển tích…đè lên nhau. Chính các tạp chí có uy tín như Văn, Khởi Hành khi làm các số đặc biệt về Bùi Giáng cũng bị lầm lạc khi cho in những bài phê bình có giọng văn bất thành cú của một tác giả trẻ bắt chước sách Phạm Công Thiện bằng cách…bỏ học từ năm lớp 11. Các bài viết này tất nhiên vẫn trích dẫn rất nhiều câu tiếng Pháp, tiếng Đức, đôi khi thêm cả những âm tiếng Phạn để chứng tỏ mình thông thái. Nhiều người tỉnh táo nhận ra rằng các thi sĩ lớn cũng đều có tật xem cái danh rất lớn. Suốt cả các trang viết, kể cả khi tự nhận rằng mình điên, Bùi thi sĩ không hề khen một câu thơ nào của các nhà thơ Việt Nam cùng thời (trừ một lần duy nhất có nhắc đến tên thi sĩ Huy Tưởng trong “Đi vào cõi thơ”). Có lần Bùi Giáng và Nguyễn Đức Sơn tình cờ gặp nhau tại nhà tôi, cả 2 đều sững người nhìn nhau rồi…ngó lơ như không hề từng biết nhau !
May mắn sao, các nhà thơ…giả bộ điên chỉ để chứng tỏ mình tài năng, thông thái, không ai lâm vào cảnh “giả lâu thành thiệt”. Đến sau 1975, diễn đàn văn nghệ tự do chất dứt. Miếng cơm, manh áo trở thành nỗi lo thực tế. Xu thế bây giờ phải là…vô sản mới được coi trọng. Nhiều người liền…hết điên.
Riêng Bùi Giáng vẫn đắm chìm trong cõi phiêu bồng, tự xem mình là…đười ươi. Với ông, chữ nghĩa, âm điệu như là…trò chơi trong cõi ta bà. Hãy nghe Bùi Đười Ươi thi sĩ giải thích:
“Thần tiên có bao giờ lâm nạn hay không, quả nhiên không ai dám quyết đoán điều đó. Nhưng quả thật những chú thi sỹ thuộc nòi Nerval, Hoelderlin, Traki, Beaudelaire, đã từng gặp nguy nan suốt bình sinh sinh tử sinh liều giữa Trận Tiền Ngôn Ngữ. Và sau cuộc sinh tử còn mang nặng u buồn của Chín Suối ? Hoàng Truyền Tại Thể chẳng hề thấy họ ngậm cười hây hây ? Tình huống ấy có thể kéo dài dằng dặc lâu lăng lắc đằng đẳng bấy chầy cho tới những ba trăm năm…hoặc hai trăm rưỡi, hoặc một trăm rưỡi ba phần tư năm chẳng hạn. Tạm gọi đó là tình huống của thần tiên thiên tần lâm nạn kéo dài tình trạng dằng dặc cửu nguyên Hoàng Tuyền Tại thể ngất tạnh mù tăm…(Trích bài Thần tiên và Thi sỹ- Tập san Thi Ca,, tháng 3-1975).
(Còn nữa)

Thứ Tư, 14 tháng 3, 2012

BÀN TAY CHÀNG - NHÃ CA

anh gửi bàn tay trên tóc em
những ngày xa mái tóc hao mòn
bàn tay báo hiệu mùa đông tới
năm ngón mềm ôm tuổi thiếu niên

quả phượng vừa khô trên nhánh cao
cây vừa hiu quạnh cổng trường sâu
tôi về ngó lại thời con gái
thành phố già nua những gốc sầu

tóc hết thời xanh, hết tuổi dài
hồn bưng bình mật đắng tương lai
xa chàng thức dậy khi chiều tối
những ngón tay mềm vuốt mặt tôi

NHÃ CA

Thứ Ba, 13 tháng 3, 2012

NGÀY VỀ THĂM HUẾ - TRẦN THỊ LÝ


Mai mốt mi về thăm lại Huế,
Tau gởi quà cho lũ bạn bè.
Có ghé vô trường Đồng Khánh cũ,
Nhớ lượm giùm tau cánh phượng nghe!

Khi mô đi qua cầu Trường Tiền,
Dò coi mấy nhịp có còn nguyên,
Bên ni còn nối liền bên nớ,
Chi rứa! Mần răng vẹn ước nguyền?

Nếu ngược đường Bến Ngự , Nam Giao
Thăm chừng con dốc có còn cao,
Nghe hồi chuông tối còn vang vọng,
Ru điệu nam mô tự thuở nào.

Lúc xuôi thuyền qua thôn Vỹ Dạ ,
Hỏi mấy hàng cau còn đợi chờ!
Dâu biển thăng trầm đời nghiệt ngã,
E chừng chúng mãi đứng bơ vơ!

Thuận nẻo đường tới miền Nam Phổ ,
Ngang bến đò Chợ Cạn, Chợ Dinh
Coi cụ Ước (1) còn ngồi đúc bánh,
Thứ bánh bèo mê chết tụi mình.

Tìm Mụ Rớt (2) hỏi thăm gánh bún,
Cay ghê cơm hến thứ bên Cồn,
Cháo lòng Đồng Ý, cơm Âm Phủ
Ăn cả phần tau, nếu thấy ngon.

Khi dạo gót tới vùng An Cựu,
Nhìn dòng sông "nắng đục mưa trong ",
Ngoẹo-Giàn-Xay còn làm lối rẽ,
Lên Ngự Bình "sau méo trước tròn".

Tiện vui bước tuông vô Thành Nội,
Ngó thử còn mấy đấng Công Nương?
Hay vì chuyện sao dời vật đổi,
Cũng đổi dời luôn cảnh miếu đường.

Nhớ biển, dông về Cửa Thuận An,
Bến phà còn đón khách sang ngang?
Hàng cây dương liễu còn tha thướt,
Buông suối tóc mây giỡn mấy nàng?

À cũng đừng quên vùng Kim Long,
Hồi chuông Thiên Mụ có còn ngân?
Phú Cam, An Định... đi qua đó,
Đừng tiếc thương vay những bóng hồng.

Long Thọ, Nguyệt Biều tuy hơi xa
Nhưng tươi thơm mít, ngọt thanh trà
Chừng khi lên đó thì luôn thể ,
Coi thử Lò Vôi còn mặn mà.

Nói rứa mà chơi cho khuây nguôi,
Bọn mình chừ sống rất xa xôi,
Ngày về thăm Huế còn xa lắc,
Mơ sớm làm chi, chỉ ngậm ngùi!

Trần thị Lý
***
(1) Ông cụ chủ quán bánh bèo Chợ Cạn trước 1975 .
(2) Bà chủ gánh Bún bò một thời nổi tiếng nhất Huế.