Đại tự và thơ ở chính điện Thái Hòa
Tại quần thể di tích cố đô Huế hiện vẫn còn một bộ di sản khổng lồ được in trên nhiều các mái, trần, tường, bia, cổng... đó là những bài thơ mang ý nghĩa triết lý sâu sắc của các vị vua triều Nguyễn - triều đại phong kiến cuối cùng tại Việt Nam.
Từ đầu thập niên 80, Giáo sư Huỳnh Minh Đức đã cùng các học trò của mình từ thành phố Hồ Chí Minh ra Huế ghi chép và dịch những bài thơ, câu thơ chữ Hán khắc trên nóc mái, trên các ô hộc trang trí của lầu Ngọ Môn, điện Thái Hòa, và các nghi môn. Sau 13 năm miệt mài với công việc này, năm 1994 Giáo sư Huỳnh Minh Đức đã cho ra mắt cuốn sách “Từ Ngọ Môn đến điện Thái Hoà (NXB Trẻ-1994)”. Đó là công trình đầu tiên dịch và chú giải khoảng 300 bài thơ, các bức đại tự, và các dòng chữ trên hai nghi môn nằm trên trục Bắc - Nam của Hoàng thành Huế, từ Ngọ Môn đến điện Thái Hoà; một việc làm rất có ý nghĩa trong công cuộc bảo tồn di sản văn hóa Huế.
Xét về vị trí, ý nghĩa, chức năng sử dụng, điện Thái Hoà là công trình kiến trúc quan trọng nhất trong Hoàng thành Huế. Đây là nơi đặt ngai vua; nơi triều đình tổ chức đại triều và các đại lễ quan trọng như: lễ Vạn thọ, lễ Tứ tuần, Ngũ tuần đại khánh tiết, lễ Hưng quốc khánh niệm… Ngọ Môn là cửa chính giữa mặt trước Hoàng thành, tên cũ là Nam Khuyết Đài, dành cho vua, và đoàn Ngự đạo, khi ra – vào Hoàng thành. Ngọ Môn còn có một số chức năng khác. Bên trên là lầu Ngũ Phụng, được xem như một lễ đài tổ chức một số sự kiện quan trọng như: lễ duyệt binh, lễ Truyền lô (xướng danh Tiến sĩ tân khoa), lễ Ban sóc. v.v…
Giáo sư Huỳnh Minh Đức đánh giá thơ trên Ngọ Môn và trong điện Thái Hoà là tinh hoa văn hoá Việt Nam của thế kỷ 19 mà tác giả là các vị vua, và các Hoàng thân, Nho thần triều Nguyễn. Để dịch nghĩa, dịch thơ và chú giải nội dung tư tưởng ông đã huy động vốn kiến thức về văn hóa phương Đông nói chung, văn hoá Trung Hoa nói riêng, bao gồm kinh dịch, kinh thư, điển tích, học thuyết, triết lý của các Nho gia, và truyền thuyết về lịch sử, tư tưởng.
Mô tip trang trí nhất thi nhất hoạ (một bài thơ thì đi kèm với 1 bức tranh) trong điện Thái Hoà
Từ kinh dịch, kinh điển, và truyền thuyết lịch sử, Giáo sư Huỳnh Minh Đức cho rằng tổng thể kiến trúc từ cửa Ngọ Môn đến Điện Thái Hòa thể hiện uy quyền của nhà vua; là một loạt công trình kiến trúc lộng lẫy như muốn vươn đến trời xanh, rồi lại xuống thấp để tìm lại sự hài hòa giữa đất, trời, và con người. Sự hài hòa đó được kinh dịch gọi là Thái Hòa. Đó là sự sáng tạo của các vị vua đầu triều Nguyễn trong quy hoạch và xây dựng quần thể kiến trúc Hoàng thành Huế.
Ở nội thất, ngoại thất tiền điện và hậu điện Thái Hoà, trên bờ nóc, cổ diêm, liên ba, đều được trang trí theo mô tip nhất thi nhất họa (một bài thơ, một họa tiết) với hai chất liệu chủ yếu là chữ viết trên nền Pháp lam (ở ngoại thất) và chạm khắc trên gỗ - sơn son thếp vàng (ở nội thất). Chữ Hán trên điện Thái Hoà được khắc ghi trên 297 ô hộc. Riêng thơ hiện còn khoảng 200 bài, nghiên cứu kỹ sẽ thấy đó là một chỉnh thể văn bản nhằm thể hiện nội dung tư tưởng và khát vọng của một triều đại.
Xin dẫn một bài nhằm làm sáng tỏ: Văn hiến thiên niên quốc/Xa thư vạn lý đồ/Hồng Bàng khai tịch hậu/Nam phục nhất Đường Ngu. Đây là bài Ngự chế của vua Minh Mạng với nghĩa: Đất nước đã hàng ngàn năm văn hiến. Xa thư (xe, sách) lấy từ “xa đồng quỹ” (xe cùng một cỗ bánh) và “thư đồng văn” (sách viết một thứ chữ) với hàm ý đã thống nhất được đất nước rộng lớn. Kể từ thuở Hồng Bàng dựng nước đến nay nước Đại Nam (ở triều ta) đã trở thành một cõi thanh bình, thịnh trị như thời Đường Nghiêu và Ngu Thuấn.
Thơ trên điện Thái Hoà điển tích Xa thư được sử dụng ở nhiều bài để nhấn mạnh niềm tự hào về công cuộc thống nhất đất nước, cũng như sự ưu việt của chế độ chính trị. Xin dẫn thêm một bài: Xa thư quy nhất thống/Thịnh trị quản Hồng Bàng/Việt tộ chính đương dương/Cư trung ngưỡng thánh hoàng (Giang sơn nay nhất thống/Thịnh trị sánh Hồng Bàng/Nước Việt dương toàn thịnh/Thần dân ngưỡng thánh hoàng).
Điển tích Nghiêu Thuấn được sử dụng với tần suất nhiều hơn như các trường hợp: Hóa nhật quang Nghiêu điện/Huân phong độ Thuấn cầm (Mặt trời làm sáng ngôi điện của vua Nghiêu/Khúc Nam Phong đã đưa tiếng đàn cầm của vua Thuấn); Đại đạo đăng Nghiêu Thuấn/Tân phong quảng Lạc Hùng (Đạo lớn xin theo mô hình thời vua Nghiêu vua Thuấn/Chế độ mới mở rộng quy mô thời các vua Hùng); Cửu cù ca Thuấn đán/Tứ hải vọng Nghiêu vân (Chín nẻo ca ngợi ngày của vua Thuấn/Bốn biển ngắm cảnh mây của vua Nghiêu.v.v…
Khi phân tích ý nghĩa của công trình điện Thái Hoà, tác giả Phan Thuận An dẫn bài: Đại đức phù càn tạo/Thuần phong vãn thái hoà/Nghiêu cù thuận đế tắc/Xứ xứ dật âu ca (Đức lớn tày tạo hoá/Thuần phong giữ thái hoà/Thời Nghiêu theo phép nước/Khắp chốn dậy lời ca). Đây là điển tích dễ hiểu. Nghiêu - Thuấn là hai vị minh quân trong truyền thuyết lịch sử Trung Quốc. Vua Minh Mạng lấy điển tích này để tỏ rõ khát vọng đất nước có vua sáng tôi hiền, chính sự tốt đẹp. Thời huy hoàng của triều Lê, Nguyễn Trãi cũng đã từng bày tỏ khát vọng Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn/Tôi Đường Ngu ở đất Đường Ngu.
Các mái ngói được trang trí bởi điển tích thơ nhìn rất có hồn
Từ cửa Ngọ Môn đi vào điện Thái Hoà, ở hai đầu cầu Trung Đạo có hai Nghi môn (còn có tên gọi khác là Phương môn). Hai mặt trước sau của mỗi Nghi môn đều có bốn chữ viết trên nền Pháp lam. Hai mặt hướng nam (từ ngoài Ngọ Môn nhìn vào) là hai câu Chính trực đẳng bình và Chính đại quang minh. Hai mặt hướng bắc (trong điện Thái Hoà nhìn ra) là hai câu Cư nhân do nghĩa và Trung hoà vị dục. Nội dung bốn câu trên hai Nghi môn này toát lên tư tưởng chỉ đạo, phương hướng, đường lối cai trị của triều đình nhà Nguyễn.
Chính trực đẳng bình và Chính đại quang minh mang ý nghĩa mà Mạnh Tử gọi là ngoại vương. Trong Kinh Thư, Kinh Thi đều có viết về chính trực đẳng bình, tuân vương chi nghĩa, tuân vương chi đạo, vương đạo chính trực… Vua Minh Mạng cho đưa bốn chữ này lên Nghi môn trước điện Thái Hoà là đưa ra tuyên ngôn về con đường chính trị của triều đại, và của bản thân nhà vua. Đó là thực hành chính sự ngay thẳng, rõ ràng. Bậc quân vương tuân theo điều nghĩa, không thiên lệch.
Chữ chính trực đẳng bình từ nghi môn nhìn thẳng theo một trục vào điện Thái Hòa - nói lên tư tưởng và tuyên ngôn của nhà vua triều Nguyễn
Cư nhân do nghĩa và Trung hoà vị dục dựa theo sách Trung dung, Kinh dịch, Mạnh Tử… thuộc nội thánh, có quá trình phát triển của lịch sử tư tưởng Trung Quốc từ triết lý nhân của Khổng Tử đến triết lý nhân nghĩa của Mạnh Tử. Nhân là đức tính, là tố chất cần phải có để làm người. Thuyết giảng của Khổng Tử về Đạo Nhân tập trung vào vấn đề tu dưỡng nhân cách để làm người. Mạnh Tử thì ứng dụng Đạo Nhân của Khổng Tử để thực hành trong chính trị và quan hệ xã hội; phát triển tư tưởng nhân của Khổng Tử thành tư tưởng nhân nghĩa.
Và chính Mạnh Tử đã nhấn mạnh: Quân nhân, mạc bất nhân; Quân nghĩa, mạc bất nghĩa - Nếu nhà vua ở theo nhân thì không ai không ở theo nhân; Nếu nhà vua đi theo nghĩa thì không ai không đi theo nghĩa. Nhân nghĩa là con đường thực hành nhân tính. Khẩu hiệu Cư nhân do nghĩa trên Nghi môn như là tấm gương soi hàng ngày của vua quan nhà Nguyễn. Trung hoà vị dục cũng dựa theo sách Trung dung. Hoà dã giả, thiên hạ chi đạt đạo dã trí; Trung hoà, thiên địa vị yên, vạn vật dục yên - Thực hiện được đầy đủ lẽ trung hoà thì trời đất được an vị, vạn vật được sinh sôi nẩy nở.
Theo TS.Phan Thanh Hải, PGĐ phụ trách Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế, điểm độc đáo riêng biệt đối với thế giới là ít có nơi nào có thơ được khắc họa trên di tích như Huế. Toàn bộ các bài thơ được cha ông xưa tuyển chọn kỹ từ các áng văn thơ tiêu biểu nhất trong tinh hoa thi ca của văn sĩ Việt Nam. Điểm khác biệt nữa là ngay tại các nơi còn lại nhiều di tích như Trung Quốc, Triều Tiên, Hàn Quốc và các triều đại trước nhà Nguyễn cũng không có kiểu khắc thơ trên cung điện, lăng tẩm của vua như ở Huế.
Nhằm bảo tồn và phát huy giá trị mỹ thuật, giá trị tư tưởng, giá trị văn học của bộ tuyển thơ đồ sộ - ước tính có khoảng 4.000 bài thơ lưu dấu trên các công trình kiến trúc cung đình triều Nguyễn - Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế đang tiến hành định dạng các văn tự Hán Nôm trên các ô hộc trang trí. Công việc số hoá đã hoàn thành ở Ngọ Môn, điện Thái Hoà, lăng Đồng Khánh. Ở Điện Long An có khoảng 400 ô hộc trang trí, đã số hoá được khoảng 50%.
Nghi môn thứ hai, ở hướng bắc đề bốn chữ “Trung hoà vị dục”
Công việc, ghi chép, số hoá những bài thơ và các hoạ tiết trang trí đòi hỏi khá nhiều thời gian do có nhiều chữ đã mờ theo thời gian, có bài thơ bị mất chữ, có chữ bị mất nét. Việc phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ, chú giải, sắp xếp các câu thơ được khắc riêng lẻ trên từng ô hộc để ghép lại thành những bài hoàn chỉnh cũng không hề đơn giản. Nếu suôn sẻ phải mất bốn năm công việc này mới có thể hoàn tất.
Việc làm này rất bổ ích và thiết thực đối với công cuộc trùng tu, tôn tạo các công trình kiến trúc cung đình cũng như phát huy những giá trị văn hoá tinh thần của tiền nhân để lại. Sau khi dự án hoàn thành di sản thơ ca trong cung điện triều Nguyễn sẽ được lập hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận “Di sản ký ức thế giới”.
Các câu thơ viết trên pháp lam ở trên nghi môn chói sáng dưới ánh mặt trời
Thơ trên các nghi môn tại các hướng chính dẫn vào trung tâm của Kinh thành Huế - Thái Hòa điện nhằm để cho các sứ thần ngoại bang nhìn thấy đầu tiên khi vào thăm vua Nguyễn.
Thanh Tùng - Đại Dương
Nguồn: http://www.dantri.com.vn
Tại quần thể di tích cố đô Huế hiện vẫn còn một bộ di sản khổng lồ được in trên nhiều các mái, trần, tường, bia, cổng... đó là những bài thơ mang ý nghĩa triết lý sâu sắc của các vị vua triều Nguyễn - triều đại phong kiến cuối cùng tại Việt Nam.
Từ đầu thập niên 80, Giáo sư Huỳnh Minh Đức đã cùng các học trò của mình từ thành phố Hồ Chí Minh ra Huế ghi chép và dịch những bài thơ, câu thơ chữ Hán khắc trên nóc mái, trên các ô hộc trang trí của lầu Ngọ Môn, điện Thái Hòa, và các nghi môn. Sau 13 năm miệt mài với công việc này, năm 1994 Giáo sư Huỳnh Minh Đức đã cho ra mắt cuốn sách “Từ Ngọ Môn đến điện Thái Hoà (NXB Trẻ-1994)”. Đó là công trình đầu tiên dịch và chú giải khoảng 300 bài thơ, các bức đại tự, và các dòng chữ trên hai nghi môn nằm trên trục Bắc - Nam của Hoàng thành Huế, từ Ngọ Môn đến điện Thái Hoà; một việc làm rất có ý nghĩa trong công cuộc bảo tồn di sản văn hóa Huế.
Xét về vị trí, ý nghĩa, chức năng sử dụng, điện Thái Hoà là công trình kiến trúc quan trọng nhất trong Hoàng thành Huế. Đây là nơi đặt ngai vua; nơi triều đình tổ chức đại triều và các đại lễ quan trọng như: lễ Vạn thọ, lễ Tứ tuần, Ngũ tuần đại khánh tiết, lễ Hưng quốc khánh niệm… Ngọ Môn là cửa chính giữa mặt trước Hoàng thành, tên cũ là Nam Khuyết Đài, dành cho vua, và đoàn Ngự đạo, khi ra – vào Hoàng thành. Ngọ Môn còn có một số chức năng khác. Bên trên là lầu Ngũ Phụng, được xem như một lễ đài tổ chức một số sự kiện quan trọng như: lễ duyệt binh, lễ Truyền lô (xướng danh Tiến sĩ tân khoa), lễ Ban sóc. v.v…
Giáo sư Huỳnh Minh Đức đánh giá thơ trên Ngọ Môn và trong điện Thái Hoà là tinh hoa văn hoá Việt Nam của thế kỷ 19 mà tác giả là các vị vua, và các Hoàng thân, Nho thần triều Nguyễn. Để dịch nghĩa, dịch thơ và chú giải nội dung tư tưởng ông đã huy động vốn kiến thức về văn hóa phương Đông nói chung, văn hoá Trung Hoa nói riêng, bao gồm kinh dịch, kinh thư, điển tích, học thuyết, triết lý của các Nho gia, và truyền thuyết về lịch sử, tư tưởng.
Mô tip trang trí nhất thi nhất hoạ (một bài thơ thì đi kèm với 1 bức tranh) trong điện Thái Hoà
Từ kinh dịch, kinh điển, và truyền thuyết lịch sử, Giáo sư Huỳnh Minh Đức cho rằng tổng thể kiến trúc từ cửa Ngọ Môn đến Điện Thái Hòa thể hiện uy quyền của nhà vua; là một loạt công trình kiến trúc lộng lẫy như muốn vươn đến trời xanh, rồi lại xuống thấp để tìm lại sự hài hòa giữa đất, trời, và con người. Sự hài hòa đó được kinh dịch gọi là Thái Hòa. Đó là sự sáng tạo của các vị vua đầu triều Nguyễn trong quy hoạch và xây dựng quần thể kiến trúc Hoàng thành Huế.
Ở nội thất, ngoại thất tiền điện và hậu điện Thái Hoà, trên bờ nóc, cổ diêm, liên ba, đều được trang trí theo mô tip nhất thi nhất họa (một bài thơ, một họa tiết) với hai chất liệu chủ yếu là chữ viết trên nền Pháp lam (ở ngoại thất) và chạm khắc trên gỗ - sơn son thếp vàng (ở nội thất). Chữ Hán trên điện Thái Hoà được khắc ghi trên 297 ô hộc. Riêng thơ hiện còn khoảng 200 bài, nghiên cứu kỹ sẽ thấy đó là một chỉnh thể văn bản nhằm thể hiện nội dung tư tưởng và khát vọng của một triều đại.
Xin dẫn một bài nhằm làm sáng tỏ: Văn hiến thiên niên quốc/Xa thư vạn lý đồ/Hồng Bàng khai tịch hậu/Nam phục nhất Đường Ngu. Đây là bài Ngự chế của vua Minh Mạng với nghĩa: Đất nước đã hàng ngàn năm văn hiến. Xa thư (xe, sách) lấy từ “xa đồng quỹ” (xe cùng một cỗ bánh) và “thư đồng văn” (sách viết một thứ chữ) với hàm ý đã thống nhất được đất nước rộng lớn. Kể từ thuở Hồng Bàng dựng nước đến nay nước Đại Nam (ở triều ta) đã trở thành một cõi thanh bình, thịnh trị như thời Đường Nghiêu và Ngu Thuấn.
Thơ trên điện Thái Hoà điển tích Xa thư được sử dụng ở nhiều bài để nhấn mạnh niềm tự hào về công cuộc thống nhất đất nước, cũng như sự ưu việt của chế độ chính trị. Xin dẫn thêm một bài: Xa thư quy nhất thống/Thịnh trị quản Hồng Bàng/Việt tộ chính đương dương/Cư trung ngưỡng thánh hoàng (Giang sơn nay nhất thống/Thịnh trị sánh Hồng Bàng/Nước Việt dương toàn thịnh/Thần dân ngưỡng thánh hoàng).
Điển tích Nghiêu Thuấn được sử dụng với tần suất nhiều hơn như các trường hợp: Hóa nhật quang Nghiêu điện/Huân phong độ Thuấn cầm (Mặt trời làm sáng ngôi điện của vua Nghiêu/Khúc Nam Phong đã đưa tiếng đàn cầm của vua Thuấn); Đại đạo đăng Nghiêu Thuấn/Tân phong quảng Lạc Hùng (Đạo lớn xin theo mô hình thời vua Nghiêu vua Thuấn/Chế độ mới mở rộng quy mô thời các vua Hùng); Cửu cù ca Thuấn đán/Tứ hải vọng Nghiêu vân (Chín nẻo ca ngợi ngày của vua Thuấn/Bốn biển ngắm cảnh mây của vua Nghiêu.v.v…
Khi phân tích ý nghĩa của công trình điện Thái Hoà, tác giả Phan Thuận An dẫn bài: Đại đức phù càn tạo/Thuần phong vãn thái hoà/Nghiêu cù thuận đế tắc/Xứ xứ dật âu ca (Đức lớn tày tạo hoá/Thuần phong giữ thái hoà/Thời Nghiêu theo phép nước/Khắp chốn dậy lời ca). Đây là điển tích dễ hiểu. Nghiêu - Thuấn là hai vị minh quân trong truyền thuyết lịch sử Trung Quốc. Vua Minh Mạng lấy điển tích này để tỏ rõ khát vọng đất nước có vua sáng tôi hiền, chính sự tốt đẹp. Thời huy hoàng của triều Lê, Nguyễn Trãi cũng đã từng bày tỏ khát vọng Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn/Tôi Đường Ngu ở đất Đường Ngu.
Các mái ngói được trang trí bởi điển tích thơ nhìn rất có hồn
Từ cửa Ngọ Môn đi vào điện Thái Hoà, ở hai đầu cầu Trung Đạo có hai Nghi môn (còn có tên gọi khác là Phương môn). Hai mặt trước sau của mỗi Nghi môn đều có bốn chữ viết trên nền Pháp lam. Hai mặt hướng nam (từ ngoài Ngọ Môn nhìn vào) là hai câu Chính trực đẳng bình và Chính đại quang minh. Hai mặt hướng bắc (trong điện Thái Hoà nhìn ra) là hai câu Cư nhân do nghĩa và Trung hoà vị dục. Nội dung bốn câu trên hai Nghi môn này toát lên tư tưởng chỉ đạo, phương hướng, đường lối cai trị của triều đình nhà Nguyễn.
Chính trực đẳng bình và Chính đại quang minh mang ý nghĩa mà Mạnh Tử gọi là ngoại vương. Trong Kinh Thư, Kinh Thi đều có viết về chính trực đẳng bình, tuân vương chi nghĩa, tuân vương chi đạo, vương đạo chính trực… Vua Minh Mạng cho đưa bốn chữ này lên Nghi môn trước điện Thái Hoà là đưa ra tuyên ngôn về con đường chính trị của triều đại, và của bản thân nhà vua. Đó là thực hành chính sự ngay thẳng, rõ ràng. Bậc quân vương tuân theo điều nghĩa, không thiên lệch.
Chữ chính trực đẳng bình từ nghi môn nhìn thẳng theo một trục vào điện Thái Hòa - nói lên tư tưởng và tuyên ngôn của nhà vua triều Nguyễn
Cư nhân do nghĩa và Trung hoà vị dục dựa theo sách Trung dung, Kinh dịch, Mạnh Tử… thuộc nội thánh, có quá trình phát triển của lịch sử tư tưởng Trung Quốc từ triết lý nhân của Khổng Tử đến triết lý nhân nghĩa của Mạnh Tử. Nhân là đức tính, là tố chất cần phải có để làm người. Thuyết giảng của Khổng Tử về Đạo Nhân tập trung vào vấn đề tu dưỡng nhân cách để làm người. Mạnh Tử thì ứng dụng Đạo Nhân của Khổng Tử để thực hành trong chính trị và quan hệ xã hội; phát triển tư tưởng nhân của Khổng Tử thành tư tưởng nhân nghĩa.
Và chính Mạnh Tử đã nhấn mạnh: Quân nhân, mạc bất nhân; Quân nghĩa, mạc bất nghĩa - Nếu nhà vua ở theo nhân thì không ai không ở theo nhân; Nếu nhà vua đi theo nghĩa thì không ai không đi theo nghĩa. Nhân nghĩa là con đường thực hành nhân tính. Khẩu hiệu Cư nhân do nghĩa trên Nghi môn như là tấm gương soi hàng ngày của vua quan nhà Nguyễn. Trung hoà vị dục cũng dựa theo sách Trung dung. Hoà dã giả, thiên hạ chi đạt đạo dã trí; Trung hoà, thiên địa vị yên, vạn vật dục yên - Thực hiện được đầy đủ lẽ trung hoà thì trời đất được an vị, vạn vật được sinh sôi nẩy nở.
Theo TS.Phan Thanh Hải, PGĐ phụ trách Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế, điểm độc đáo riêng biệt đối với thế giới là ít có nơi nào có thơ được khắc họa trên di tích như Huế. Toàn bộ các bài thơ được cha ông xưa tuyển chọn kỹ từ các áng văn thơ tiêu biểu nhất trong tinh hoa thi ca của văn sĩ Việt Nam. Điểm khác biệt nữa là ngay tại các nơi còn lại nhiều di tích như Trung Quốc, Triều Tiên, Hàn Quốc và các triều đại trước nhà Nguyễn cũng không có kiểu khắc thơ trên cung điện, lăng tẩm của vua như ở Huế.
Nhằm bảo tồn và phát huy giá trị mỹ thuật, giá trị tư tưởng, giá trị văn học của bộ tuyển thơ đồ sộ - ước tính có khoảng 4.000 bài thơ lưu dấu trên các công trình kiến trúc cung đình triều Nguyễn - Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế đang tiến hành định dạng các văn tự Hán Nôm trên các ô hộc trang trí. Công việc số hoá đã hoàn thành ở Ngọ Môn, điện Thái Hoà, lăng Đồng Khánh. Ở Điện Long An có khoảng 400 ô hộc trang trí, đã số hoá được khoảng 50%.
Nghi môn thứ hai, ở hướng bắc đề bốn chữ “Trung hoà vị dục”
Công việc, ghi chép, số hoá những bài thơ và các hoạ tiết trang trí đòi hỏi khá nhiều thời gian do có nhiều chữ đã mờ theo thời gian, có bài thơ bị mất chữ, có chữ bị mất nét. Việc phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ, chú giải, sắp xếp các câu thơ được khắc riêng lẻ trên từng ô hộc để ghép lại thành những bài hoàn chỉnh cũng không hề đơn giản. Nếu suôn sẻ phải mất bốn năm công việc này mới có thể hoàn tất.
Việc làm này rất bổ ích và thiết thực đối với công cuộc trùng tu, tôn tạo các công trình kiến trúc cung đình cũng như phát huy những giá trị văn hoá tinh thần của tiền nhân để lại. Sau khi dự án hoàn thành di sản thơ ca trong cung điện triều Nguyễn sẽ được lập hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận “Di sản ký ức thế giới”.
Các câu thơ viết trên pháp lam ở trên nghi môn chói sáng dưới ánh mặt trời
Thơ trên các nghi môn tại các hướng chính dẫn vào trung tâm của Kinh thành Huế - Thái Hòa điện nhằm để cho các sứ thần ngoại bang nhìn thấy đầu tiên khi vào thăm vua Nguyễn.
Thanh Tùng - Đại Dương
Nguồn: http://www.dantri.com.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét