Thứ Năm, 14 tháng 6, 2012

CAO HUY KHANH - VN HỒ SƠ HẬU CHIẾN 1975 - 2012 ( KỲ 15 )

NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ
1.151 - Đặng Đình Áng
“THIỀN SƯ TOÁN HỌC”
Giáo sư tiến sĩ toán sinh 1926 tại Hà Tây. Sống ở TPHCM (2012).
Vào Sài Gòn từ năm 1951.
Năm 1953 được học bổng đi du học Mỹ ngành toán. Năm 1958 tốt nghiệp tiến sĩ toán quay về Sài Gòn dạy đại học.
Năm 1960 làm Trưởng khoa Toán ĐH Khoa học Sài Gòn. Được mời đi thỉnh giảng ở nhiều đại học Mỹ, Pháp, Ý. Đã có hơn 130 bài nghiên cứu chuyên sâu toán trên báo chuyên ngành quốc tế.
Sau 30.4.75 vẫn ở lại dạy đại học như cũ dù có nhiều gợi ý ra nước ngoài làm việc thuận lợi hơn. Năm 1980 được cho phép đi nước ngoài dự hội nghị chuyên ngành quốc tế, được nhiều lời mời ở lại song vẫn từ chối để quay về
Hơn tất cả mọi điều, tình yêu quê hương sâu sắc là chất xúc tác gắn bó với đất nước như bụi tre xanh um tùm trồng trước cửa nhà nơi đô thị hiện đại đang “Tây hóa” bao trùm: “Quê hương là dải đất có núi có sông, có cây cỏ, có con người cùng chung quyền lợi vật chất và tinh thần nhưng không phải chỉ là thế, sâu xa hơn thế là những nấm mồ của những người đã khuất.”
Ngoài ra còn bắt nguồn từ tính nghệ sĩ của một người yêu nhạc, chính là chú ruột của Nghệ sĩ Nhân dân Đặng Thái Sơn: “Toán và âm nhạc đều là nghệ thuật. Chơi nhạc là một cách thiền.”. Mà đã là thiền rồi thì ở đâu không được, ở đâu mà không làm việc được.
Vì vậy cũng như với toán học thu hút, chọn lọc bao nhiêu tinh hoa thế giới để về dạy lại cho học trò trong nước thì âm nhạc cũng thế từng lên sân khấu biểu diễn cùng ban nhạc bạn bè, thổi sáo trúc các giai điệu mượt mà của Mozart. Được học trò yêu mến tôn là “thiền sư toán học”.
Được phong Giáo sư ngay đợt đầu tiên cả nước năm 1980. Năm 2006 một hội nghị toán học quốc tế được tổ chức tai TPHCM mừng thọ ông 80 tuổi.

1.152 - Don Luce
TỪ “CHUỒNG CỌP” CÔN ĐẢO ĐẾN NẠN NHÂN BỆNH AIDS
Nhà báo Mỹ sinh khoảng 1938 tại Mỹ. Sống ở Mỹ (2012).
Năm 1958 là sinh viên tình nguyện qua Sài Gòn dạy tiếng Anh theo chương trình giúp đỡ VN của một tổ chức tôn giáo Mỹ.
Từ đó kết thân với giới sinh viên VN nên khi bùng nổ phong trào sinh viên đấu tranh chống chế độ Mỹ – Ngụy cuối những năm 1960 đã tích cực hỗ trợ họ qua nhiều bài viết đăng báo Mỹ.
Trong đó nổi cộm vụ tố cáo chính quyền VNCH vi phạm nhân quyền đối với trẻ thơ nhân chuyện bắt giam 2 đứa con trai mới 7 tuổi và 5 tuổi của đại tá Việt Cộng Tư Chu (Nguyễn Đức Hùng) chỉ huy trưởng Lực lượng Biệt động Sài Gòn – Gia Định gửi cho nhà bà con ở Sài Gòn buộc sau đó nhà cầm quyền Sài Gòn phải thả ra năm 1968. Tiếp theo là loạt bài đăng báo Tin Sáng và báo Mỹ Time tháng 7.1970 tố cáo tội ác nhà tù “Chuồng cọp” giam giữ hành hạ tù nhân cộng sản tại Côn Đảo.
Bởi vậy năm 1971 bị trục xuất khỏi Miền Nam.
Về Mỹ tiếp tục lên tiếng về tệ trạng ngược đãi tù binh từ Miền Nam VN đến Guantanamo (Cuba), Iraq, Afghanistan trong cuốn “Những con tin của chiến tranh” (Hostage of War).
Năm 1977 hiệu đính bản dịch tiếng Anh cuốn “Đại thắng mùa xuân” của Đại tướng Văn Tiến Dũng (do nhà báo Mỹ John Spragens dịch).
Năm 2005 rồi 2008 mới có dịp trở lại VN, gặp mà không thể nhận ra 2 đứa trẻ ngày nào mình giúp giải thoát khỏi nhà tù nay đều đã gần… ngũ tuần (ảnh)!
Cuối đời còn tham gia công tác giúp đỡ cộng đồng bệnh nhân AIDS bị cách ly sống nơi tận cùng nước Mỹ, bên cạnh thác Niagara sát biên giới với Canada.

1.153 - Lê Thị Mai
TÌNH YÊU “TỔ CHỨC”
Cán bộ về hưu sinh 1931 tại Huế – Mất 1983 ở Đà Nẵng (53 tuổi).
Chị ruột “Tử tù chuồng cọp” Côn Đảo” nổi tiếng Lê Quang Vịnh.
Khi em trai bị tù ở Huế mới đi thăm nuôi qua đó gặp gỡ thầy dạy của em trong tù, một cán bộ cộng sản. Sau khi người này ra tù tìm gặp lại, đôi bên nảy sinh tình cảm, từ đó được người yêu dẫn dắt vào con đường hoạt động cộng sản nằm vùng tại Huế từ năm 1960.
Năm 1965 bị bắt giam ở Huế trong lúc người yêu bị lộ cơ sở đã vượt tuyến ra Bắc.
Năm 1966 cùng một số đồng chí vượt ngục tìm vào chiến khu. Đến 1968 làm đội trưởng một đội công tác trở lại Huế tham gia cuộc chiến Mậu Thân.
Sau gần một tháng chiến đấu trong nội thành Huế, được lệnh rút lui rồi ra Bắc chữa bệnh, qua cả Trung Quốc điều trị. Một năm sau về nước đi học đại học.
Trong thời gian này cố công tìm người yêu cũ song không có tin tức. Thay vào đó, tổ chức (Đảng) gợi ý mai mối cho lấy chồng là một cán bộ tập kết người Quảng Nam.
Sau ngày chiến thắng Miền Nam, quay về cố huơng Huế làm bí thương phường. Đồng thời gặp lại người yêu cũ bây giờ làm hiệu trưởng trường ĐH Sư phạm.
Nhưng hy vọng được ở lại quê nhà Huế không thành do chồng cũng trở về quê Đà Nẵng bắt phải đi theo mình.
Tuy nhiên cuộc sống gia đình sau đó không yên ấm kiểu “đồng sàng dị mộng”, hơn nữa bấy giờ mới phát hiện trước đây khi ở tù đã bị tra tấn để lại di chứng tuyệt đường sinh đẻ. Đành phải cay đắng nhận con nuôi vẫn không an ủi được bao nhiêu.
Từ đó buồn phiền sinh bệnh mất sớm trong nỗi buồn xa quê.

1.154 - Nguyễn Viết Vân
CÂU LẠC BỘ B93
Cán bộ phường sinh tại Hà Nội. Sống ở Hà Nội (2012)
Trong chiến tranh chống Mỹ là lính trinh sát đặc công, bị thương chuyển qua đơn vị công binh.
Sau 1975 xuất ngũ về làm cán bộ phường Kim Mã ở Hà Nội.
Khi thấy tình hình thanh thiếu niên trong phường bắt đầu rơi vào tệ nghiện ngập ma túy mới xin phép lập một tổ cựu chiến binh địa phương làm nhiệm vụ trấn áp bọn trùm buôn bán chất gây nghiện đồng thời đặt quan hệ với các cơ quan, hội đoàn, tổ chức y tế – xã hội hỗ trợ tìm cách giúp con nghiện cai nghiện. Dần dà công tác gặt hái thành quả bước đầu mới tiến lên đặt tên tổ này là CLB Cai nghiện tự quản B93.
Những ai cai nghiện thành công được giúp đỡ học nghề hoặc mở điểm lao động kiếm sống như sửa xe máy, buôn bán vặt… Nhiều người khi rảnh việc còn quay lại gia nhập làm thành viên CLB tiếp tục duy trì, triển khai hoạt động chống ma túy trên địa bàn.
Bản thân làm đầu tàu cho CLB không ít phen đối đầu với bọn côn đồ xã hội đen mấy lần đe dọa nguy hiểm tính mạng. Vợ con lo lắng can ngăn nhưng vẫn kiên quyết không lùi bước: “Ông trời bỏ quên tôi mấy lần chết hụt ở chiến trường thì nay có sá gì sợ chết vì việc nghĩa?”

1.155 - Tôn nữ Quỳnh Như
BI KỊCH TÌNH YÊU TRÍ THỨC THỜI CHỐNG MỸ
Cựu sinh viên tranh đấu chống Mỹ sinh tại Huế – Mất 1978 ở TPHCM.
Bác ruột (Tôn thất Dương Tiềm) và cha (Tôn thất Dương Kỵ) đều là nhà giáo nổi tiếng tham gia phong trào trí thức chống Mỹ – Thiệu nên bản thân là sinh viên ĐH Kiến trúc Sài Gòn cũng dấn thân xuống đường chống chế độ Thiệu – Kỳ.
Từ đó nẩy nở tình yêu với một lãnh tụ sinh viên tranh đấu thời đó là Lê Quang Vịnh vừa là đồng hương vừa là học trò của cha mình. Được người yêu vốn là cán bộ cộng sản đưa vào chiến khu tập huấn về công tác đấu tranh nội thành.
Nhưng sau đó trở về Sài gòn, Lê Quang Vịnh bị bắt đi tù “Chuồng cọp” Côn Đảo mất liên lạc.
Trong thời gian này xuất hiện “dệ tam nhân” Trần Quang Long cũng tham gia tranh đấu chống Mỹ, bỏ dạy học từ Cần Thơ lên Sài Gòn hoạt động, nổi tiếng là nhà thơ tranh đấu lúc đó (tác giả tập thơ “Thưa mẹ, trái tim”), làm chủ tịch Hội Sinh viên sáng tác. Anh cũng là học trò của cha mình nên qua đó quen biết rồi đem lòng yêu thương.
Trong hoàn cảnh thiếu thốn tình cảm, tưởng người yêu xưa đã bỏ mình trong ngục tù nên cuối cùng Quỳnh Như chấp nhận kết hôn với Trần Quang Long năm 1967.
Năm 1968 khi mình đang mang thai thì chồng đi theo cộng sản bỏ vào mật khu Tây Ninh sát biên giới Campuchia khiến vợ ở nhà bị bắt giam. Không bao lâu chồng bị bom B 52 đánh trúng hy sinh trên trận địa khi mới 27 tuổi (năm 2012 mới tìm thấy hài cốt truy điệu liệt sĩ) trong lúc ở Sài Gòn vợ sinh con trai trong nhà tù đặt tên Xuân Thắng với ý nghĩa chờ đợi mùa xuân đại thắng mãi đến 6 năm sau mới đến.
Năm 1969 được ra tù về nhà nuôi đứa con chưa hề biết được mặt cha đến ngày Giải phóng hoàn toàn miền Nam 1975.
Ngày đó người tình cũ Lê Quang Vịnh trở về làm Phó Giám đốc Sở Giáo dục TPHCM, đôi bên tái ngộ trong cảnh bẽ bàng, tình cảm vẫn còn dư âm nhưng người ấy vì lòng tự trọng bây giờ không thể nối lại đường tơ với người từng là vợ cũ của đồng chí mình đã hy sinh! Đành chia tay đi lấy vợ khác em một bạn tù cùng chí hướng.
Nỗi buồn “thân phận tình yêu” hẩm hiu chua xót kéo dài không bao lâu thì mắc bệnh xơ gan qua đời sớm năm 1978.

1.156 - Tôn Thất Cảnh
DẠY DƯỠNG SINH CHỮA BỆNH MIỄN PHÍ
Kiến trúc sư Việt kiều Mỹ về hưu sinh 1927 tại Thừa Thiên – Huế. Sống ở Mỹ (2007).
Nguyên hướng đạo sinh bị bướu trong não nhưng đã tự học và tập môn Thái cực dưỡng sinh (Taichi) mà chữa khỏi bệnh.
Vì thế sau khi qua Mỹ năm 1986 dù tuổi đã khá cao song với tinh thần một hướng đạo sinh đã lập ra Hội Dưỡng sinh và mở lớp dạy môn này cho hàng ngàn người giúp họ chữa bệnh, giữ gìn sức khoẻ. Theo đúng 2 tôn chỉ mà Hướng đạo đã nêu là “Hạnh phúc thật sự chỉ tìm được khi ta giúp người khác” và “Muốn có hạnh phúc phải chia xẻ hạnh phúc của mình cho người khác”.
Hoàn toàn dạy không lấy tiền, chỉ mong có đóng góp tự nguyện để lấy tiền gửi về nước tham gia hoạt động từ thiện.

1.157 - Trầm Tử Thiêng
HƯỚNG VỀ TRẺ TỊ NẠN MỒ CÔI
Nhạc sĩ Việt kiều Mỹ tên thật Nguyễn Văn Lợi sinh 1947 tại Quảng Nam - Mất 2000 ở Mỹ (64 tuổi).
Bắt đầu sáng tác ca khúc từ năm 1958.
Đến khi bị gọi nhập ngũ năm 1966 làm sĩ quan tâm lý chiến tiếp tục viết nhạc, nhiều bài về đề tài lính VNCH, nổi tiếng có “Bài hương ca vô tận” và “Chuyện một chiếc cầu đã gãy” viết về cầu Trường Tiền ở Huế bị Cộng sản đặt bom nổ gãy cầu trong chiến cuộc Mậu Thân 1968.
Năm 1970 được biệt phái về Đài Phát thanh Sài Gòn tham gia thực hiện chương trình Phát thanh học đường.
Sau 1975 trốn trình diện rồi tìm cách vượt biên bị bắt ở tù.
Ra tù đến năm 1985 được xuất cảnh qua Mỹ.
Trên xứ người trở lại với âm nhạc, viết nhạc nói lên nỗi niềm người lưu vong mất quê hương như “Kinh khổ”, “Chợt nghĩ về hai nơi”, “Có tin vui giữa giờ tuyệt vọng”… Qua đó vẫn mong mỏi một đất nước VN hòa bình, thống nhất, hạnh phúc thật sự như thể hiện qua bài “Hòa bình ơi, Việt Nam ơi”. Cộng tác mật thiết với nhạc sĩ đàn em Trúc Hồ cùng chí hướng, đặt lời cho nhiều ca khúc của Trúc Hồ.
Đặc biệt quan tâm nhiều đến giới trẻ em vượt biên mất người thân thành ra mồ côi, tìm cách giúp đỡ. Làm nhạc thiếu nhi về đề tài này với bài được biết đến nhiều nhất “Bên em đang có ta”. Cùng bạn bè lập Thư viện VN ở khu Sài Gòn Nhỏ, bang California.
Trước khi mất có di nguyện lập quỹ hỗ trợ trẻ em tị nạn mồ côi mang tên “Bên em đang có ta” nhan đề ca khúc dành cho các em kể trên.

1.158 - Trần Châu
TRẠI NUÔI NGƯỜI ĐIÊN TƯ NHÂN
Luơng y sinh tại Quảng Trị. Sống ở Ninh Thuận (2011).
Năm 1972 theo gia đình trong khu Công giáo sống ở thánh địa La Vang chạy nạn chiến tranh – thời điểm bùng nổ “Mùa hè đỏ lửa” – vào vùng rừng núi Ninh Thuận khai hoang lập thôn mới đặt tên La Vang ghi nhớ quê hương cũ. Cha tiếp tục hành nghề lương y.
Sau 1975 làm giáo viên xóa nạn mù chữ. Được một thời gian thì cha gọi về truyền nghề lương y, dặn con tuyệt đối chữa bệnh không được lấy tiền vì xem đây là việc thiện mình được giao phó phải làm.
Từ đó trị bệnh miễn phí cho tất cả mọi người trong vùng và cả từ nơi khác nghe tiếng tìm đến. Nhờ ở vùng rừng núi nên có điều kiện tìm được nhiều loại dược liệu Đông y trị bệnh hiệu quả.
Chữa bệnh miễn phí song người bệnh cám ơn vẫn gửi lại tiền trong phong bì đành phải cất giữ không hề đụng chạm tới. Mãi đến năm 1995 mở các phong bì ra tổng kết sơ sơ cũng được 30 triệu đồng không biết làm gì mới nảy ý dùng tiền đó xây một căn nhà cho những người nghèo không nơi nương tựa đến ở.
Nhưng do nơi này nằm chỗ xa xôi hoang vắng nên không có người nghèo nào chịu đến ở. Thế là phải cất công đi ra thành phố tìm… người đem về cho tá túc nuôi nấng. Và rốt cuộc chỉ có những người… điên, mắc bệnh tâm thần không người thân thích lang thang đầu đường xó chợ mình mới có thể đem về nuôi ăn nuôi ở!
Dần dà nơi đây trở thành một trại tâm thần “tư” do một cá nhân dựng nên, hoàn toàn “tự túc”. Nghĩa là bây giờ ngoài thì giờ khám chữa bệnh, mình còn phải nai lưng làm lụng đủ thứ công việc để kiếm tiền kiếm cơm gạo mắm muối nuôi đến hơn 70 bệnh nhân tâm thần “tại gia”!
Vừa chăm lo vườn xoài vừa đào ao nuôi cá, mua hàng về bán lẻ cho bà con quanh vùng, làm nước rửa chén đem bán dạo… Tối ngày tất bật đủ thứ việc ngoài đường, về nhà còn lo tổ chức cơm nước, tập cho tập thể người điên sống sao cho yên ổn hòa thuận. Tập cho họ tự lo nấu nướng, tắm giặt, tập cầu kinh, tham gia đàn ca sinh hoạt văn nghệ giải sầu...
May mà rồi công việc từ thiện đó cũng được nhiều người biết tới tìm cách hỗ trợ không ít thì nhiều, có người mua hàng giúp có người cho nợ tiền cơm gạo củi lửa…
Và trên tất cả đại gia đình người điên ngày càng trở nên hiền hòa hẳn, có lẽ một phần nhờ sống chung ở môi trường trong lành thoáng đạt tránh xa đô thị ồn ào náo động dễ đau đầu nhức óc. Từ đó người điên lại đem đến cho người tỉnh một niềm hạnh phúc đơn giản mà lạ lùng: “Sống với những con người như thế, mình cảm thấy thanh thản vô cùng”

1.159 - Trần Đình Trọng
NHỚ ƠN CỨU MẠNG
Nhà giáo về hưu sinh 1953 tại Quảng Ngãi. Sống ở Quảng Ngãi (2012).

Năm 1972 lúc 19 tuổi làm du kích xã ở địa phương bị trúng mìn hai chân nát hết được đưa về bệnh xá cứu chữa.
Chuẩn bị mổ thì bị địch bắn pháo vào bệnh xá buộc tất cả phải di tản, được 2 đồng đội bỏ lên cáng rút chạy. Nhưng bị địch truy kích ráo riết nên cuối cùng tự mình yêu cầu đồng đội giấu mình trong rừng để họ có thể thoát thân trước.
Trong tình cảnh hôn mê nửa thức nửa tỉnh cái chết đến gần kề thì mơ màng nghe thấy có mấy người lính phía bên kia tìm ra mình, có người định bắn chết luôn song bị một người khác tìm cách ngăn lại nói là trước sau gì tên Việt Cộng này cũng chết thôi. Thế nên cả bọn rút đi.
Không ngờ sau đó tỉnh dậy thấy có người – có lẽ người lính tốt bụng kia – lén để lại cho mình một bi đông nước và 2 bịch gạo sấy. Chính nhờ bi đông nước đó đã cứu mạng mình còn cầm hơi thoi thóp để sau đó được đồng đội quay lại tìm rồi đưa về trạm xá cưa chân trái cứu sống. Qua năm 1974 được chuyển ra miền Bắc tiếp tục điều trị, an dưỡng.
Sau ngày hòa bình, quay lại quê hương Quảng Ngãi. Năm 1977 thi đậu ĐH Sư phạm Huế khoa toán. Tốt nghiệp, xin về dạy trường Trần Quốc Tuấn ở quê nhà, lần lượt được đề bạt lên hiệu phó rồi hiệu trưởng.
Trong suốt khoảng thời gian đó vẫn không quên ân nhân cứu mạng bi đông nước và 2 bịch gạo sấy nên với một chân gỗ tập tễnh vẫn lặn lội đi nhiều nơi dò la tin tức người ơn năm xưa. Nhưng biết đâu mà tìm, biết ai mà tìm?
Mãi đến năm 2003 mới có thông tin đầu tiên từ Đà Lạt cho biết được tên tuổi người lính đó cùng quê Quảng Ngãi thuộc sư đoàn 2 VNCH sau này cũng là thương binh mất một tay trong một trận đánh năm 1973. Tuy nhiên không biết ở đâu, dường như là ở một khu kinh tế mới.
Thế là bản thân lại tiếp tục mở một cuộc hành trình đi tìm dân kinh tế mới khắp miền Trung và Tây Nguyên. Vẫn chỉ hoài công thôi.
Đến 2 năm sau thông qua mối liên hệ đồng hương Quảng Ngãi mới có được địa chỉ của người cứu mạng mình năm nào. Té ra đúng là dân kinh tế mới nhưng là đi kinh tế mới năm 1981 vào tận Bình Phước.
Cuộc hội ngộ không cầm được nước mắt giữa 2 người trước đây ở 2 bên chiến tuyến thù địch, còn lạ lùng ở chỗ một người mất chân một người mất tay đều từ khói lửa chiến tranh! Bây giờ chỉ còn là 2 con người, 2 thường dân trong đó người cựu chiến binh cộng sản nhỏ hơn 14 tuổi nhận mình làm em người “lính Ngụy”, xin được làm “người con trong gia đình”.

1.160 - - Trần Đông A
TỪ QUÂN Y CHẾ ĐỘ CŨ ĐẾN QUỐC HỘI
Giáo sư bác sĩ sinh 1941 tại Nam Định. Sống ở TPHCM (2012).
Nguyên sĩ quan quân y VNCH nên sau 1975 vượt biên bị bắt.
Nhưng được Sở Y tế TPHCM bảo lãnh về sớm đưa vào làm ở bệnh viện Nhi đồng 2 từ năm 1978 theo chính sách sử dụng “trí thức tại chỗ” của Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt lúc đó nhằm ngăn chặn tình trạng chảy máu chất xám trong giới trí thức chế độ cũ bỏ chạy ra nuớc ngoài. Nhất là ngành y đang rất thiếu chuyên viên.
Từ đó chấp nhận ở lại công tác, dần dần có nhiều cống hiến nổi bật nhất là qua ca mổ tách cặp song sinh Việt – Đức năm 1988, sau đó là công trình nghiên cứu và thực hiện ghép thận cho trẻ em. Được ĐH Pháp mời qua giảng dạy năm 1995.
Được phong Giáo sư rồi vào Quốc hội.
(Còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét