Thứ Sáu, 22 tháng 11, 2013

DỌC ĐƯỜNG - VÕ CHÂN CỬU

BÀI 5
Về “Mặt Tiền Nghệ Thuật”
Thấy tôi chọn tiêu đề mang hàm ý xem Thơ ca là “Mặt Tiền” của cụm nhà Nghệ Thuật, nhiều bạn bảo coi chừng…lạc hậu. Bởi lẽ, xu thế mới trong thiết kế các khu dân cư ở đô thị cũng như nông thôn, nhất là ở các nước phát triển, thì căn nhà nào cũng ở … mặt tiền.
Ngay cả Việt Nam, trên các đường cao tốc, “mặt tiền” cũng không còn là một lợi thế nữa ! Xã hội coi trọng khái niệm này có lẽ do hướng tới mục tiêu thương mại bán buôn. Người làm việc bằng trí óc thì ngán ngẩm các mặt tiền ồn ào tấp nập. Nói gì thì nói, mặt tiền vẫn là phần quan trọng của một ngôi nhà, ai cũng phải lo chăm chút. Như các chàng trai “chấm điểm” các thiếu nữ, thì vẻ mặt bao giờ cũng phải chiếm tới…70 % tổng số điểm!
7 ngành nghệ thuật đang được con người công nhận là văn chương, âm nhạc, hội họa, sân khấu, kiến trúc, điêu khắc, điện ảnh. Với sự phát triển của xã hội, tương lai có thể có thêm một số ngành sẽ được công nhận, như nghệ thuật sắp đặt chẳng hạn. Do thói quen tự coi mình là “trung tâm” nên con người vẫn thường xem ngành nghệ thuật mình tham dự là cao cả nhất; các môn nghệ thuật khác vẫn phải nương vào đó thể hiện. Nhà thơ vẫn cho rằng nghệ thuật của mình ở vị trí “mặt tiền” bởi vì bằng nhịp điệu của ngôn ngữ, họ có thể diễn tả, truyền cảm những rung động mà các nghệ thuật khác không diễn tả hết ! Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng một khi xã hội biến đổi, sự suy nghĩ và rung động không còn theo nếp cũ nữa, thì ngôn ngữ và cách diễn đạt, nói chung là hình thức thể hiện của thơ cũng phải khác trước. Có vậy, nó mới “sống” được trong lòng người đọc. Một số nhà thơ tự xưng là “hậu hiện đại” của Việt Nam hiện tại cũng nhìn ra điều này, nhưng họ “cóc cần” người đọc cảm hay không cảm, nên thường dùng từ ngữ thô ráp và thô tục không đúng chỗ. Có người in tác phẩm với những…trang giấy trắng, hoặc bôi quẹt lên hàng chữ, thêm hình vẽ của kẻ lạc thần…
Bàn bạc, tranh luận về nghệ thuật thơ ca có lẽ là chuyện vô cùng, nói hoài không hết. Có lần, cùng một vài bằng hữu ngồi luận về thơ và thơ có dịch sang ngôn ngữ khác được không, tôi đã mượn một tập sách của nhà nghiên cứu nổi tiếng Nguyễn Quảng Tuân qua tập Thơ Đường-Tản Đà dịch để đưa chuyện.
Bài Thơ Đường nổi tiếng của Vương Duy (701-761) dưới đây rất quen thuộc với nhiều người :
                   Quá Hương Tích tự
                  
                   Bất tri Hương Tích tự,
                   Sổ lý nhập văn phong
                   Cổ mộc vô nhân kính,
                   Thâm sơn hà xứ chung.
                   Tuyền thanh yết nguy thạch,
                   Nhất sắc lãnh thanh tùng.
                   Bạc mộ không đàm khúc,
                   An thiền chế độc long.
Bản dịch của Tản Đà đăng trên: báo Ngày Nay số 97 ngày 13-2-1938 như sau:
                   Qua chùa Hương Tích
                         Chẳng hay Hương Tích chùa đâu,
                   Đi đôi ba dặm, lên lầu non cao.
                         Cây um, đường tắt vắng teo,
                   Núi sâu chuông vẳng nơi nào tiếng đưa.
                         Suối kêu, nghẽn đá ria bờ,
                   Lạnh lùng bóng nắng chui lùa thông xanh.
                         Trời hôm, tấc dạ thanh minh,
                   Quy y đạo Phật sửa mình là hơn.
Trước khi đưa ra nguyên bản  và bản dịch, có lần tôi chỉ giới thiệu bản dịch nghĩa (cũng của Tản Đà):
                  
Qua chùa Hương Tích
          Không biết chùa Hương Tích ở đâu ?
          Đi mấy dặm lên(/) đến chỗ núi cao mây ngất.
          Cây cổ thụ mọc um tùm(/) không có vết đường tắt người qua
          Núi sâu, (/)có tiếng chuông ở đâu ngân lên ?
          Tiếng nước suối đập(/) vào gành đá nghe như bị nghẹn lại.
          Sắc mặt trời có vẻ lạnh lẽo(/) luồn qua lùm thông xanh.
          Chiều hôm vắng vẻ trên khu đầm nước
          Muốn chế ngự con rồng độc ác(/) thì phải quy y nơi cửa thiền.
Bản dịch lấy đưa ra, tôi đã tự động ngắt câu, xuống dòng ở các dấu (/) như một cách đánh đố, nhưng không nói tên tác giả. Vài bạn trẻ có xu hướng “cách tân” sau hồi ngẩm nghĩ đã chắp miệng cho rằng “Bài thơ có kết cấu thật hiện đại !”
         
Người yêu thơ mỗi ngày lại có thêm khao khát những ý tứ, cách thể hiện mới trong thơ. Nói chung là nhu cầu thẩm mỹ luôn luôn đòi hỏi những sáng tạo mới. Nhưng phân định mới, cũ để khen ngợi hay chê bai từ hình thức biểu hiện của một bài thơ, có lẽ là điều không hoàn toàn đúng trong thưởng ngoạn thơ ! Người xưa vẫn hay nói rằng con người và ngay cả một hiện vật, đều có 2 phần: thể xác và linh hồn, nói gọn là hình thức và nội dung, tức cái vẻ bên ngoài và những chứa đựng bên trong. Nếu chỉ “xem mặt mà bắt hình dong” thì có khi sẽ bé cái lầm, vì “chiếc áo không làm nên thầy tu”. Vậy thì nhà thơ phải làm thế nào để sự sáng tạo luôn luôn thành đạt vì lúc nào tác phẩm cũng mang hơi thở mới, mang nét đẹp mới mà mọi người trông đợi ?
Các ngành nghệ thuật hiện đại đều có khuynh hướng xích lại để hàm chứa nhiều mặt của nét đẹp. Nhưng tất nhiên trong một tác phẩm, phải xác định nghệ thuật nào là chủ lực. Với công cụ ngôn ngữ, người ta có thể làm ra những bài văn, thơ hoặc một bài, điệu ca. Đâu là sự phân biệt giữa các loại hình ? Chỉ tính trong nghệ thuật văn chương, các nhà nghiên cứu tạm phân định ra 2 loại hình. Văn xuôi thuộc về nghệ thuật tạo hình, còn thơ ca thuộc về nghệ thuật biểu cảm. Ngôn ngữ thơ do vậy về căn bản phải khác với ngôn ngữ văn xuôi; cách hành văn cũng phải khác. Nhưng mọi thứ chỉ là tương đối. Một nhà văn vẫn có thể dùng những câu, những đoạn văn đầy chất thơ, câu văn tượng hình đẹp hay nhiều nhạc điệu…Các câu thơ cũng có lúc diễn tả theo cách tả chân, cụ thể hóa, nhưng linh hồn bao trùm của toàn bài thơ phải có thi vị, tức hướng con người đến những cái đẹp mà chỉ có thơ mới diễn tả nổi: cảm xúc về cái đẹp lành, làm thăng hoa tâm hồn.
Có trang Web do một nhà thơ chủ biên, mới đây khi phê bình số ra mắt Tạp chí Nhà Văn &Tác Phẩm đã trích dẫn bài thơ tự do của một tác giả, ghép nó lại liền câu như một bài văn xuôi; rồi lại diễn ca nó thành một bài thơ lục bát. Đáng tiếc là bài viết lại kèm theo những bươi móc về lý lịch tác giả, rằng nhà thơ này trước 1975 là “lính ngụy”, nhưng dấu không khai khi làm hồ sơ, được kết nạp vào Hội Nhà văn VN. Đáng lo thay về một cung cách phê bình văn chương !
Nhìn ra mình
Mỗi người làm thơ phải làm thế nào để sức sáng tạo trong người vẫn luôn luôn mới mẻ và tràn trề ? Có lẽ mỗi người phải có cách riêng của mình. Ở nhiều nơi, tôi may mắn tìm thấy câu trả lời bằng tác phẩm. Nhà thơ Lê Phương Châu là một ví dụ. Quê ở miền thành cổ Diên Khánh, Khánh Hòa, chị có tác phẩm đầu tay in từ năm 1969, khi còn là một nữ sinh ở Nha Trang. Trước 1975, chị có những bài từng được nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tuyến lựa chọn đưa vào tuyển tập thơ hay. Sau biến cố 1975 cuộc sống của chị trải qua những vất vả thăng trầm, phải ngừng bút suốt 23 năm. Sau đó, khi tuổi đã khá, chị lại làm thơ trở lại và xuất bản đến nay thêm được 4 tập. Mới đây nhất, chị cho tôi xem  bản thảo thi tập “Như Dòng Sông Trôi Xa”, gồm những bài thơ liên tục tuôn trào trong vòng hơn 4 tháng nay.
Tuổi đã cao, chị tự nhìn lại mình. Những cảm xúc không xa lạ với nhiều người nhưng cách diễn đạt khá thực, nên mới mẻ.
Một bài lục bạt chị làm hồi tháng 7-2013 khi chị sang Mỹ thăm người em trai và người con gái ruột đang định cư ở California:
                   Rủ Bóng Đêm
                   Chân non bóng rủ trăng hờn
                   Tay trong tay đọng giọt mềm chiếu chăn
                   Xong rồi, bóng rụng xa xăm
                   nhìn ta như đã sóng giăng ngút ngàn
                   tà dương soi mấy nẻo đường
                   Nước tràn bờ lũ, tứ phương cúi đầu
                   Liếc quanh gương mặt nhám sầu
                   Gõ quanh ngực mỏng ngàn sao trở mình
                   Luân hồi-biển ngọt-sóng êm
                   Ném bầu thơ dại bên triền vô ngôn !
Hai câu thơ cuối là lời tự sự về cách sống an bình.
Một bài thơ khác, qua một loài hoa chị đưa nhiều cảm xúc về hình bóng những miền quê hương in dấu:
                   Huyền sử Đỗ Quyên
                   hắt hiu bên tường rên lã chã
                   ôi đỗ quyên!
                   đã khuya-vọng âm tìm người
                   gió thiên thu chao nghiêng hàng cổ thụ
                   nát tan thời vàng son chạm trổ xa cừ
                   khắc ngọc bội bên án thư gia phả
                   tiếng gọi chiêu hồn
                   máu thịt rã tan
                   ta âm thầm phun châu
                   em hờn ghen nhả lệ
                   bờ sông ngân ngàn thu tràn đá vỡ
                   dòng Dakla chảy ngược đậu bờ ngực thẳm cao nguyên
                   dòng sông Cái trầm tư xuôi về phố chợ
                   trăng viễn khơi đậu bến chân em
                   hồ cô lữ mông lung
                   tìm đỗ quyên-thánh nữ
                   mời em ngắm trăng thu
                   đọc thiên tình sử
                   ta gửi em xâu chuỗi tùy duyên
                   trôi xa miền thiên định
                   thâu đêm nghe huyền sử đỗ quyên
                   nhắm mắt lại chông chênh nỗi buồn
                   cơn lốc mùa phượng đỏ Tây nguyên !
Thơ tự tạo dựng nên “mặt tiền” trên con đường nghệ thuật mỗi người.
                                                                                         Võ Chân Cửu

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét