Thứ Tư, 23 tháng 10, 2013

DỌC DƯỜNG - VÕ CHÂN CỬU



Bài 3
Nhịp Đập Xa Xôi

Quán 81 tức CLB Hội VHNT Tp.HCM nằm ngay giữa trung tâm quận 3 nên là nơi thuận tiện gặp gỡ, giao lưu giải khuây của những người sáng tác, mê văn nghệ. Khách ngồi theo từng nhóm, “bàn nào biết bàn nấy ! ”.
Nơi đây có một “luật bất thành văn” được mọi người hoan nghênh. Đó là: ai muốn giới thiệu sáng tác mới thì phải “chung” cho cả bàn mỗi người một chai bia !
“Yêu thơ phải chịu cháy túi”. Quy luật khắt khe như vậy nhưng hàng ngày, người ta vẫn thấy ở nhiều bàn vẫn có người muốn ứng trước cả thùng 20 chai để được cất giọng thơ ! Có “thi hữu” từ Quảng Ngãi vào kể chuyện:  ở ngoài đó, trong lần một gặp gỡ ở quán, hai “nhà thơ” là cán bộ hưu trí còn đập bàn, xăn tay áo vì ai cũng giành được mở đầu chương trình đọc thơ !
          Các chuyện mang tính tiếu lâm trên đây nói lên nhiều nghĩa. Người Việt là một dân tộc mê thơ; ai cũng có thể trở thành nhà thơ ! Nhưng ở thời buổi này, vì khó tìm ra được thơ hay, nên người nào đọc thơ mình ra, phải chịu trả tiền “tra tấn” tai người nghe.
Một nhà thơ nổi tiếng, có đời sống lập dị còn nói : “lúc này cũng không có thơ dở, mà nhiều thơ quá dở”! Như để tán đồng chuyện suốt nhiều tháng trời tôi ngưng viết tản mạn chuyện thơ ca !
          Thơ như một thiếu nữ đang xuân, “đẹp xấu tùy người đối diện” ! “Văn mình vợ người”, chê bạn hữu làm thơ dở, dễ làm mất lòng nhau ! Nhưng xin được “mấp mé” thử nguyên nhân. Có người, và ngay cả chính tôi, đã có lần nêu ý kiến: không phải chúng ta không có những tập thơ hay, đáng đọc, mà xã hội đang thiếu những nhà xuất bản văn học có tầm vóc ! Việc cấp phép xuất bản theo phương thức “thu quản lý phí” sẽ tạo ra cảnh nhộn nhịp in ấn,  nhưng dễ tạo ra những thi phẩm “cá mè một lứa”. Và các nhà xuất bản đã vô tình “đánh đồng một lứa”. Từ đó thương hiệu từng nơi dễ bị phai mờ !
          Nhưng hiện cũng có tập thơ mới vừa qua bán được đến 20.000 bản, như “Đi Qua Thương Nhớ” của Nguyễn Phong Việt chẳng hạn. Đây là những lời yêu thương thật thà nói ra từ trái tim  Nhiều người cho rằng nhà thơ thuộc thế hệ 8 X này biết tận dụng phương tiện công nghệ thông tin. Anh giới thiệu thơ, trước tiên qua mạng Face book.
Hàng trăm người làm thơ cũng từng làm như thế, nhưng đâu phải thơ ai cũng được nhiều người đọc và nhớ ! Còn nhiều tranh cãi về các tiêu chí của một bài thơ hay ! “Bán chạy” chưa chắc có giá trị lâu dài.
Cái hay của thơ chắc sẽ còn được bàn luận lâu dài. Lần này, người viết muốn được “lách” qua chuyện khi nào người ta đến với thơ, cả ở phía sáng tác và thưởng ngoạn.
Ngôn ngữ kỳ diệu

                   Kể Chuyện Quê hương

                   Quê hương là nước mắm vàng gạo trắng
                   là mùi nồng nàn cắn cọng rau thơm
                   là nén nhang tỏa khói ấm bàn thờ
                   là lỷ niệm chảy hoài trong trí nhớ.

Đó là mấy câu thơ Lê Giang Trần viết mở đầu các bài “Kể chuyện quê hương”, phần 2 của thi tập “Trạm Người Quá Bước” được NXB Sống in ở Mỹ vào cuối 2012. Đây là tập thơ thứ 2 của anh, làm từ 1990-2012.
Lê Giang Trần sinh năm 1952, quê ở Bạc Liêu. Đến Mỹ định cư từ năm 1980, anh đã chịu khó đi học lại và có việc làm ổn định. Nhưng sau đó, anh lại quyết định dọn về Nam California. Chỉ vì nơi đây có đông người Việt “và những cọng rau thơm” ( khí hậu nơi đây có thể trồng được nhiều loại thực vật nhiệt đới như VN).
Ra khỏi nước, anh đã làm thơ trở lại, “sau thời gian dài lãng quên từ lúc bước vào đời va chạm bon chen với thực tế cuộc sống; nhất là ở nơi Sài gòn náo nhiệt, đầy dẫy đam mê vui thú hấp dẫn hơn nhiều những bài thơ khóc gió than  mây”-tácc giả tự sự. Hàng ngày, nghe nhiều giọng nói người Việt, nên tự nhiên làm thơ được nhiều hơn.
Anh nói thêm về nghệ thuật thơ ca:
“Làm thơ, ban đầu tôi dụng ý dùng chữ đơn sơ giản dị, bình thường bình dân, quê mùa miền nam…để làm thơ…cho dễ hiểu. Tôi đã hoàn toàn sai lầm, vì không thể chủ tâm dùng loại chữ nào được, mà ngay lúc phát ý, bài thơ tự nó quyết định ngôn từ cho chính nó—đôi khi còn tạo ra chữ nghĩa không nằm trong tàng thức thu nạp sẵn—Về sau, khi đọc kinh nhà Phật mới thấy không dễ dàng dụng chữ giản dị để tạo nghĩa sâu sắc. Phải là những bậc đại sư “ đắc đạo”hay các vị “giác ngộ, khi chữ với tâm ý là một thì mới đắc địa. Tung hoành, đùa nghịch với chữ nghĩa tiếng Việt, tiêu biểu vài bậc thầy (gần đây) như Bùi Giáng, Trịnh Công Sơn, Phạm Công Thiện… hẳn là những năng khiếu thiên phú hiếm có”...
         
Ngôn từ như các loại vật liệu kết dính. Nhưng phải tùy chỗ mà cấu thành nhục thể tự  nhiên, làm sống động cho xương cốt ý tứ. Ngôn từ, như vậy phải được thường xuyên nuôi dưỡng, huân tập để tự hiện ra lúc cần. Chữ nghĩa thời có hạn, mà ý tý thường vô biên. Câu thơ liệu có chở được hết không ? Ngôn ngữ mỗi nước là giàu có hay giản đơn còn tùy thuộc vào các thể hiện trong ngữ âm, ngữ cảnh, ngữ điệu khi nói hoặc viết. Cai tài của nhà thơ là dùng các từ rất bình thường, nhưng khi kết hợp lại làm cho câu thơ bóng bẩy, đa nghĩa… Không phải ở những người có học vấn cao xa, mà người nào thấu hiểu đượcn lẽ đời, từng trải qua hay cảm được những niềm hoan lạc và nỗi đau nhân thế mới làm chủ được kho tàng ngôn ngữ.
Cảm được điều ấy, Lê Giang Trần đã cho rằng “hai mươi năm thơ ấy, có bài như giọng điệu một kẻ trưởng thành, có bài vẫn như lời đứa trẻ vớ vẩn. Là tác giả, khi xem lại mấy bài như trẻ con vơ vẩn ấy, trong lòng lại có phần vui cái lãng mạn ngây ngô của nó”.

                        Lê Giang Trần

                   Hồ Nghi
                  
                   Ngày xưa tôi tưởng là tôi
                   vàng soi phố thị tơi bời tuổi xuân
                   đến khi binh lửa điêu tàn
                   bàng hoàng chết lặng trước ngàn đau thương

                   rồi theo mây nước tha phương
                   trăng xưa trời mới tuyết sương ngỡ ngàng
                   sầu vương mặt, cuồng vướng chân
                   trong mơ quanh quẩn xóm làng xa xưa

                   thân như cỗ máy quê mùa
                   chân như sóng biển mãi đùa bãi vui
                   dần dà hóa thạch hóa vôi
                   soi gương thấy bức tượng người vong niên

                   ngồi như phong thái n hập thiền
                   đi như điệu bộ sĩ hiền khoan thai
                   giật mình không biết là ai
                   chợt tôi vô số ở ngoài tấm thân

                   “Tề Thiên đại thánh” tần ngần
                   Sáu mươi năm ấy có cần hồ nghi ?
                                                            (4-2012)

Sau tập thơ này, Lê Giang Trần tuyên bố: Tôi xin dừng thơ của tôi lại ở tuổi 60”.
Nếu thật vậy, sẽ là điều đáng tiếc ! Vì trên đời, khi có nhiều thơ thực tình mà hay, xuất phát từ trái tim vô thức, thì những loại thơ xướng họa để xưng tụng, hoặc làm cho vừa lòng cấp trên để cầu chức cầu danh sẽ tự nhiên mai một, không còn ai nhớ.

Vô vọng ?

Trở lại chuyện quán 81 cũ (vì khuôn viên này cuối năm 2012 đã bị đập bỏ để xây mới trụ sở Liên hiệp các Hội VNNT thành phố), các bàn “trình diễn” thơ theo nhiều cách. Ngâm nga có, đọc hoa tay múa chân có. Lạ một điều là một số anh chị thuộc giới nghệ sĩ ngâm thơ vẫn thường xuất hiện, nhưng rất ít lhi các “ngâm sĩ” này chịu cất giọng-chắc không phải vì sợ “chung”!
Ngâm thơ là một nghệ thuật trình diễn rất gần với ca nhạc và sân khấu. Nhưng với những giọng ngâm đi vào lòng người, người nghe đôi khi chẳng cần sân khấu. Chất giọng ngâm thơ cất lên, nó truyền thẳng cảm xúc từ người sáng tac đến người thưởng ngoạn. Có những nhà thơ hay “tuyệt đối hóa” cõi thơ của mình, như Sao Trên Rừng từng ghi rõ trong 3 tập thơ mỏng đầu tay (Những Bài Tình Đầu), đại ý là tác giả cấm đem thơ ông ngâm nga và “thơ nhạc giao duyên” !
Âm thanh từ vần điệu đôi khi có thể đánh lừa cảm xúc. Trên “thương trường” diễn ngâm này, có người được trời ban một chất giọng đặc biệt, có thể biến những lời xoàng xỉnh thành câu thơ. Như với nghệ sĩ ngâm thơ Ngô Đình Long, có người nói rằng anh có thể biến một cái thực đơn thành một bài ngân nga !
Thật lạ lùng là ở một đất nước có 80% dân số là các nhà thơ này,  nhưng ngâm thơ gần như ít được công nhận là một nghệ thuật, và người ngâm thơ thường ít được quần chúng lưu tâm như đốio với các ca sĩ. Nghệ sĩ ngâm thơ Thúy Vinh, một trong những giọng ngâm quen thuộc hàng đầu trên các đài truyền hình của VTV cũng như HTV đã kể với tôi một chuyện  hớ đời. Năm nọ, đến Quy Nhơn, chị tìm đến thăm mộ Hàn Mặc Tủ ở thắng cảnh Gềnh Ráng. Nơi đây được giao cho một đơn vị kinh tế đầu tư làm khu du lịch. Bảo vệ bắt phải mua vé mới được vào. Chị nói “tôi là người nghệ sĩ chuyên ngâm thơ Hàn Mặc Tử, mong được lên thăm mộ thi sĩ để tạ ơn”. Bảo vệ vẫn không cho !
Khác với Việt Nam, nhiều “cường quốc” thơ trên thế giới, như Nicaragua ở Trung Mỹ, công chúng vẫn tổ chức những buôi đọc thơi ở các quảng trường. Công chúng đến nghe có khi lên đến hàng vạn người. Có người nói tiếng Việt là loại ngôn ngữ đơn âm, nên loại hình thơ khó có thể thành môn kích động. Thực ra trong những năm mở đâu thời đổi mới, không ít nhà thơ đã được mời lên đọc thơ trong các buổi mít-ting. Loại hình này sau đó không cònn được các nhà tổ chức quan tâm nữa. Gần đây, hàng năm những “Ngày Thơ VN” được tổ chức,  nhiều nhà thơ cũng nao nức tham dự. Nhưng lần lần, không khí thủ tục lễ nghi đã lấn át.”Ngày thơ” như để dành riêng cho các giới chức…
“Luật bất thành văn” như đã kể không phải là không có lý khi lan rộng ra khá nhiều nơi. Đọc thơ là những tiếng vọng rất xa xôi ?

                                                                            Võ Chân Cửu




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét