TS Phạm Văn Quang bảo vệ luận án với đề tài “Trật tự từ trong
tiểu thuyết pháp ngữ của Cung Giũ Nguyên, Phạm Văn Ký và Phạm Duy Khiêm”
năm 2004. Tiếp sau đó ông lại bảo vệ thành công đề tài sau tiến sĩ
“Thiết chế văn học Việt Nanm Pháp ngữ” và năm 2009 - 2010 ông trở lại
Pháp hoàn thành học vị postdoc (sau Tiến sĩ). Lựa chọn dòng văn học
Pháp ngữ cho các đề tài nghiên cứu của ông vì ông vốn là một thầy giáo
dạy ngôn ngữ văn chương tại Đại học KHXH &NV TPHCM, chính trong “bể
sâu” các tác phẩm này, ông đã “gặp” Cung Giũ Nguyên, một người viết đã
làm cho ông “choáng váng”, đặc biệt là tác phẩm Le Boujoum (mà tác giả CGN tự dịch sang tiếng Việt là(Thái Huyền) với
thi pháp mà “kungfu” đã đến đỉnh mà chính người Pháp cũng thừa nhận:
một tác phẩm khó nuốt nhưng chiều sâu ngôn ngữ của nó thì vô tận.
* Tình cờ tôi có gặp giáo sư Cao Huy Thuần, ông rất ngạc
nhiên khi nghe tôi hỏi về Cung Giũ Nguyên. Ông nói không phải tôi là
người duy nhất mới hỏi ông, vừa có vài người nữa, trong mấy ngày gần đây
có nhắc lại nhân vật, mà theo ông "rất ít người biết tới dù đã có một
thời nổi tiếng". Đó cũng là điều tôi thắc mắc vì sao ông lại chọn nhân
vật này cho luận án tiến sĩ của ông bảo vệ tại Pháp?
- Con người được biết đến tùy vào khung cảnh xã hội và lịch sử. Đối với nhà văn Cung Giũ Nguyên, tôi cho rằng có thể sử dụng khái niệm « được thừa nhận » thay vì « nổi tiếng », và việc ông được thừa nhận trong quá khứ, đặc biệt trong giới trí thức, có lẽ nhờ vào những hoạt động văn hóa, giáo dục và báo giới. Không gian văn hóa và tri thức bị biến đổi kéo theo những chọn lựa của cá nhân ; và biết đâu đó lại là cách chọn lựa hợp lí của nhà văn : « ẩn mình giữa đô thị », một hình thức đại ẩn, theo cách nói của nhà văn.
Tôi hoàn thành luận án tiến sĩ năm 2007. Việc chọn đề tài cho luận án không phải là một công việc ngẫu nhiên vì, xét về mặt lý thuyết và phương pháp, đó là bước tiếp theo và chuyên sâu hơn của những gì tôi đã thực hiện trong giai đoạn làm thạc sĩ. Về mặt cứ liệu, tôi tạm thời « rời bỏ » Marcel Proust để làm cái gì đó liên quan đến Việt Nam. Chính lúc đó tôi nghĩ đến văn học Pháp ngữ và gặp được một số tài liệu về các nhà văn Việt Nam. Tôi quyết định chọn nghiên cứu trật tự diễn ngôn trong một số tiểu thuyết của Phạm Văn Ký, Phạm Duy Khiêm và Cung Giũ Nguyên. Đây là ba tác giả của Việt Nam được đề cập nhiều nhất trên diễn đàn văn học Pháp ngữ thế giới lúc đó. Như vậy tôi chọn nhà văn Cung Giũ Nguyên cũng như hai nhà văn kia với mục đích tìm lại hay đúng hơn là khám phá di sản nghệ thuật sáng tạo của người Việt, đồng thời có cơ hội chứng kiến sự vận hành của tư duy Việt trong vỏ bọc ngôn ngữ Tây.
* Ngoài Cung Giũ Nguyên, dòng văn học Việt Nam viết bằng tiếng Pháp còn có những nhân vật nào và những giá trị về mặt ngôn ngữ thông qua các tác phẩm của họ đã đóng góp thế nào cho nền văn chương thế giới nói chung và VN nói riêng, thưa ông?
- Năm 1953, nhà văn Pháp ngữ Nguyễn Tiến Lãng , con rể của cụ Phạm Quỳnh, đã có bài viết trên tạp chí Nouvelles littéraires bàn về việc hình thành một « trường phái văn học Pháp ngữ Đông Dương », mục đích quy tụ những nhà văn trẻ sử dụng tiếng Pháp thời đó như Pierre Đỗ Đình (Đỗ Đình Thạch), Trần Đức Thảo, Phạm Duy Khiêm, Trần Văn Tùng, Phạm Văn Ký. Dù vậy, cho đến nay, những tác phẩm của họ, xét trên bình diện thiết chế, vẫn thuộc loại văn học « ngoại vi ». Đồng thời với họ, chúng ta có thể nói đến Nguyễn Phan Long, Đào Đăng Vỹ, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Văn Nho, Vy Huyền Đắc, Nguyễn Đức Giang, Trịnh Thục Oanh, Bà Lý Thu Hồ, vv. Thế hệ trẻ hơn, từ những thập niên 1980 trở lại đây, có sự xuất hiện đặc biệt của nhiều nữ văn sĩ như Kim Lefèvre, Anna Moï (Trần Thiên Nga), Nguyễn Tuyết Nga, Bach Mai, Kim Đoan, Kim Thúy, Trần Nhựt Thanh Vân, Flament Ngoc Thu (Phạm Ngọc Thu) Linda Lê, Trần Huy Minh, vv.
Tất cả đều có những đóng góp quan trọng vào tiến trình hình thành đời sống văn học Pháp ngữ thế giới nói chung và văn học Việt Nam nói riêng. Nhiều tác giả đã được trao giải thưởng cao quý (Phạm Văn Ký : Grand Prix du roman của Viện Hàn Lâm Pháp, Les Jeux Floraux, Trần Văn Tùng : Grand Prix de l’Empire, Bà Lý Thu Hồ : Prix littéraire de l’Asie, Kim Thúy : Grand Prix RTL-Lire, Linda Lê : Prix Fénéon, Prix Renaudot Poche, vv.). Mọi tác phẩm đều có giá trị nhờ ngôn ngữ và đều tạo cho ngôn ngữ những cơ hội thể hiện giá trị của chính nó. Các nhà văn sử dụng ngôn từ như phương tiện chuyển tải ý tưởng và hiện tại hóa những đối thoại ; Cung Giũ Nguyên đã từng phát ngôn : « Khi chúng ta diễn đạt ngôn ngữ, chúng ta nói những từ ngữ được cân nhắc, những từ ngữ được suy nghĩ, những từ ngữ thực, những từ ngữ có trách nhiệm […], những từ ngữ-hành động có khả năng tạo ra bản chất cuộc sống và nền tảng lịch sử » (Ý chí sinh tồn)
Nhà văn tìm thi vị trong sự « đam mê vui thú qua ngôn ngữ », nói theo kiểu Jean Michel Maulpoix. Chúng ta xác thực điều này nơi Phạm Văn Ký khi ông đặt ngôn ngữ vào cuộc đời và làm mới cuộc đời bằng ngôn ngữ : « Ta khởi đầu con đường tôi luyện văn học trên những bến đậu Paris, giữa những sạp sách cũ. Hỡi Tây Phương, ta đã trở thành nhà văn theo phong cách của ngươi. Ta chắt lọc từ đó một lối diễn đạt riêng có khả năng giải mã các vấn đề của ta bằng ngôn ngữ của ngươi : đó là những cuộc khai phá hình thức chứa đựng giai điệu của trí tuệ, gắn với ý nghĩa thanh tao, với âm vang mới lạ, với những tương giao thực sự, những hiệu năng cảm ứng ngôn từ của ngươi ! Ta tham vọng quay về cội rễ cái Mỹ của ngươi » (Anh em ruột). Thiết nghĩ một vài dẫn chứng trên cho thấy phần nào giá trị và những đóng góp của các nhà văn vào thế giới thẩm mỹ và không gian ngôn ngữ.
* Trở lại với các tác phẩm văn học Việt Nam viết bằng tiếng Pháp của Cung Giũ Nguyên, ông đã nói: "Các phẩm tiểu thuyết của CGN là hành trình chiêm nghiệm và suy ngẫm về thân phận con người hòa nhập với cộng đồng nhưng vẫn cô đơn với chính mình, chứng nghiệm hành trình của một con người cô đơn "bị lưu đày trên xứ sở" của mình". Ông còn cho rằng hành trình cô đơn của CGN còn chứa đựng những thông điệp về lịch sử, văn hóa...? Ông có thể nói rõ hơn về hành trình cô đơn này như thế nào không thưa ông, dĩ nhiên là của CGN (mà biết đâu cũng là của chính chúng ta, vì làm sao chúng ta tránh khỏi dự phần khi lịch sử chỉ là "sự lặp lại, biến tướng và điểm danh" - L.Borge)?
- Văn học và nhà văn « quý mến » sự cô đơn và lưu đày. Patrick Deville thậm chí đã nhìn nhận cô đơn như là yếu tính trong định nghĩa về nhà văn : « Tôi thực sự không có khả năng giải thích nhà văn là gì. […] Tôi chắc rằng trong định nghĩa này có yếu tố lưu đày và cô đơn, tự nguyện hay bắt buộc, và cũng có ý muốn không bám rễ với bất cứ thứ gì, hay bất cứ nơi nào trên thế giới […] Nhà văn là những kẻ di trú trên con đường tìm kiếm những xứ sở xa xôi, nơi những giấc mơ của họ được thỏa mãn […] Ước gì những nhà văn vĩ đại đã biết tạo ra từ sự cô đơn này một vẻ đẹp kỳ diệu […].(« Que pourrais-je savoir de l'exil ? », Le Matricule des Anges).
Ý nghĩa của lưu đày đã được khai mở và phần nào soi sáng cuộc đời nhà văn của Cung Giũ Nguyên. Ông lưu đày đúng nghĩa về phương diện nguồn gốc gia đình (tổ tiên ông là người gốc Hoa). Nhưng trên hết, chúng ta thấy nơi ông một sự cô đơn văn học, trên cả phạm vi thiết chế và biểu tượng : phần lớn các tác phẩm Pháp ngữ của ông đều phải xuất bản ở nước ngoài. Nếu như hai tiểu thuyết đầu Le Fils de la baleine (Kẻ thừa tự của ông Nam Hải) (1956) và Le Domaine maudit (Miền đất dữ) (1961) đều được nhà xuất bản Arthème Fayard của Pháp nồng nhiệt đón nhận, thì Le Boujoum (Thái Huyền) (bản thảo hoàn thành năm 1980) mãi đến năm 2002 mới ra đời và do chính các học trò của nhà văn chịu trách nhiệm xuất bản tại Texas (Cung Giu Nguyen Center). Vấn đề tiếp nhận tác phẩm này cũng khó khăn, vì lý do ngôn ngữ và hình thức lối viết. Theo tôi, tác phẩm không dành cho đại công chúng. Đó rất có thể là ý muốn của tác giả. Chấp nhận chân trời độc giả giới hạn là chấp nhận một lối đi riêng, một con đường vắng và rât dễ dẫn đến tình trạng cô đơn.
Từ lưu đày cội nguồn đến lưu đày văn phẩm, Cung Giũ Nguyên dẫn ta về khám phá sự cô đơn của căn cước chủ thể trong truyện kể, xuyên suốt chiều dài ba tiểu thuyết của ông. Xin nêu ra đây ví dụ hình ảnh nhân vật Mỗ trong Le Fils de la baleine :
« Mỗ đã hiện hữu ở đó từ hàng thế kỷ để chất vấn đêm đen và những vì sao về công việc mình phải làm trên bãi cát sỏi lạnh lùng và cô quạnh, trước mênh mông biển nước đang vô tình cuốn trôi số phận mình. Hắn có thể là người đầu tiên và cuối cùng, khi đứng giữa mảnh đất hoang vu, gần đống đổ nát từ chiếc thuyền của mình, có cảm nhận về sự chọn lựa đáng sợ đã áp đặt lên mình : một là sống hai là chết. Hắn chẳng còn hữu dụng cho thiên hạ nữa. Tình nhân loại toàn vẹn mà hắn thể hiện có thể biến đi mãi mãi mà không cần biển phải chuyển nhịp thủy triều, cũng chẳng cần mặt trời phảt tắt để mang màu tang tóc ».
Nhân vật không luôn đồng nhất với chủ thể sáng tạo, càng khó ghép hình ảnh nhân vật với nhà văn trong tư cách một chủ thể xã hội. Nhưng chúng ta dễ chấp nhận rằng nhà văn qua không gian văn bản là hình ảnh của người đi tìm xây dựng căn cước của mình. Nói cách khác, nhà văn cuối cùng là một nhân vật ẩn mình trong hình thức kết cấu diễn ngôn, biểu trưng của kết cấu xã hội-lịch sử, văn hoá và ý thức. Không gian diễn ngôn vì thế là không gian biểu hiện hình ảnh cái tôi như là chủ thể trong sự khủng hoảng, là chủ thể trong sự nghi vấn và bị ngộ nhận.
Có thể nhìn nhận Cung Giũ Nguyên như một chủ thể xã hội bị lưu đày, bởi vì xã hội tạo ra những ranh giới, nhưng đối với Cung Giũ Nguyên nhà văn – chủ thể sáng tạo, thì cô đơn hay lưu đày là cảm nhận một không gian khác làm nảy sinh sáng tạo.
* Sau khi SGTT đưa tin về buổi nói chuyện về CGN của ông, bạn đọc đã thắc mắc, nhắc đến C.G.N, không thể không nhắc đến nữ sĩ Nguyễn Thị Hoàng. Trong quá trình nghiên cứu các tác phẩm của C.G.N, ông chắc cũng biết con người không thể chạy trốn số phận (nếu có), và có phải cuộc gặp gỡ và "scandal" với nữ sĩ này đã mở cho nhà văn C.G.N một hành trình khác vì trước đó ông vốn nổi tiếng là mô phạm và được tất cả các giáo sư và học trò kính nể. Sau vụ scandal này, ông thu mình và cô độc hơn ai hết trước những lời phỉ báng và cả sự khinh rẻ của đồng nghiệp... Nếu nghiên cứu của ông mà bỏ qua chuyện này, tôi thấy thật tiếc...
- Theo tôi, trước hay sau Cung Giũ Nguyên vẫn là con người mô phạm. Tôi không nghĩ rằng đồng nghiệp thực sự của ông khinh rẻ ông sau cuộc gặp gỡ giữa ông với cô Nguyễn Thị Hoàng. Có chăng thì, ở khía cạnh người nghiên cứu, sự kiện đó giúp tôi hiểu hơn bản chất của con người và tiến trình xây dựng hình ảnh con người. Cuộc đời nhà văn đã chứng kiến nhiều ngộ nhận cho chính mình và cho cộng đồng mình nên việc ông thu mình lại không phải là một sự thất bại hay chạy trốn mà có lẽ điều đó là cần thiết cho một cuộc siêu nghiệm.
* Và phải chăng câu chuyện trên cũng dẫn đến lời tâm sự này: "Tôi là con người nội tâm, một con người suy tư- tư duy hơn là nói. Tôi muốn viết để tống khứ cái con ma trong tôi. Con ma đó là sự mặc cảm, sự khao khát, cả sự hèn yếu...". Con ma của C.G.N, theo ông, đó là gì?
- Như chị vừa nói đó, Cung Giũ Nguyên tự xếp mình vào hạng người hướng nội, có khuynh hướng rút lui về mình và hướng về tư duy. Chỉ khi con người bị cuốn hút vào thế giới nội tâm mới có khả năng khám phá « con ma » của mình. Con « ma » của Cung Giũ Nguyên có thể là ký ức dai dẳng hay cảm giác ám ảnh, nhưng cũng có thể là ý thức về một sự đau đớn nào đó khi bị tước đoạt. Nhắc đến « con ma » của Cung Giũ Nguyên làm tôi liên tưởng đến « con ma » của Phạm Văn Ký trong truyện ngắn Pháp ngữ Bóng ma xác thực (Fantôme de la précision) và thấy có một sự đồng nhất nào đó giữa hai nhà văn : « Đến lượt bạn hãy tin tôi đi. Sự thật thường thốt ra từ miệng những con ma. Nhưng con ma của tôi không giống những con ma khác : nó không lấp ló phập phờ ; sức nặng cuộc đời đã buộc chặt nó vào thế gian ; nó đáng giá những lo âu, hối hận, phiền muộn. Nó chưa chết hẳn ». Nghiên cứu văn học dưới góc độ phân tâm học sẽ giúp ta hiểu hơn tình trạng ám ảnh tâm lý tác giả
* Dù vậy, tôi rất n tượng khi nghe ông nói về văn chương của C.G.N, ông viết về sự thống khổ,đau đớn nhưng không hề hằn học, thù ghét, oán hận mà chỉ đầy tính triết lý. Ông có đoạn văn nào biểu hiện cho điều này không?
- Tôi rất thích hình ảnh nhân vật Mỗ trong tác phẩm Le Fils de la baleine trong tiến trình tìm lại ý thức và vị trí giữa cộng của mình khi bị khước từ :
« Thời tiết trở nên xáo động đẩy thân xác hắn trôi giạt trên cát như một kẻ thân tàn ma dại. Nhưng Mỗ lại thích thú với nhịp trôi bồng bềnh ấy ; nó lay động và thanh lọc những giấc mộng của hắn. Áp sát tai xuống mặt cát, hắn nghe thấy tiếng ồn ào của cuộc sống dưới lòng đất của những con vật nhỏ bé đang chuyển hướng ẩn náu. Và từ sâu thẳm quá khứ của hắn bỗng trỗi dậy một âm giọng rời rạc :
« Tôi ở lại vị trí của tôi. Và nếu phải trải qua một kinh nghiệm khác nữa, thì, mặc kệ, chẳng còn gì có thể làm tôi ngạc nhiên, dù cho đó là sự phối hợp giữa thiên đàng với địa ngục, hay là lễ cưới của nàng ốc sên với chàng cá mập, kể cả sự ám ảnh của Thái Huyền, của điều cảm nhận mà không giải thích được, của bâng khuâng về ý nghĩa dệt bằng vô nghĩa ».
* Cũng có bạn đọc phản hồi, nhà văn C.G.N cũng là một cây bút sắc bén của báo chí miền Nam thời bấy giờ. Xin ông cho biết thêm về điều này?
- Trong những hình thức giao thoa giữa các phạm vi hoạt động, đam mê với một loại tiếng Pháp trong sáng, Cung Giũ Nguyên khai mở trong thế giới báo chí, không chỉ ở một tiếng nói có khả năng giúp cho con người suy nghiệm chính xác về các giá trị văn hóa và đạo đức. Từ năm 1939, cùng với Raoul Serène, tiến sỹ viện trưởng Viện Hải học Nha Trang, Cung Giũ Nguyên đồng chủ nhiệm tờ nguyệt san Les Cahiers de la Jeunesse (Tập san Tuổi Trẻ), rồi cùng năm trở thành chủ bút nhật báo Le Soir d’Asie (Á châu Buổi tối) xuất bản tại Sài Gòn. Chính trong nhật báo này Cung Giũ Nguyên đã cho xuất bản chuyên mục nhiều kỳ Notes marginales (Tạp ghi bên lề). Các bài viết đó chứng minh một phong cách trưởng thành chất chứa sắc thái của một tinh thần trẻ bị chao đảo và xáo động bởi những biến động của thời đại, nhưng cũng mang vẻ diễn ngôn của tinh thần trách nhiệm và ý thức về các giá trị xã hội và nhân văn. Diễn ngôn văn học vì thế được cưu mang trước tiên trên nền tảng các yếu tố cơ bản mang tính giai thoại và nhạy cảm của những sự kiện đời thường, để rồi đạt đến đỉnh cao diễn ngôn xã hội. Độc giả có thể tìm thưởng thức phong cách đặc thù đó trong nhiều tạp chí khác như France-Asie (Pháp-Á), La Tribune (Diễn Đàn), La Presse d’Extrême-Orient (Viễn Đông báo chí).
Báo chí với tư cách là không gian trao đổi, giao thoa và kết tụ những đặc trưng của một ngòi bút, một tiếng nói, một quan điểm, đã cho phép Cung Giũ Nguyên phần nào xác định hay giả định trước khung trời độc giả hay thế giới tiếp nhận của mình. Nghĩa là qua đó tác giả khẳng định khả năng tiến triển trên con đường văn nghiệp. Sự ra đời của tiểu luận Volontés d’existence (Ý chí sinh tồn) năm 1954 trong tạp chí France-Asie là một minh chứng cụ thể. Trong bối cảnh của Việt Nam đương thời, việc xuất bản trong các ấn phẩm định kỳ đã trở thành nền móng dọn đường cho các diễn ngôn mang tính chất hùng biện. Volontés d’existence chắc chắn vừa là một diễn ngôn văn học, vừa là diễn ngôn văn hóa và cũng mang sắc thái của một diễn ngôn về ý thức hệ.
Ngoài ra, Cung Giũ Nguyên còn cộng tác với nhiều tờ báo Việt ngữ như Đông-Pháp thời báo, Nam phong, Tiếng dân, Bạn đường, Tương lai tạp chí, Bách Khoa... Ông cho đăng những sáng tác hay các bài viết về văn hóa. Chẳng hạn trong tạp chí Bách Khoa Sài Gòn, Ông có loạt bài khảo cứu về « Ý niệm quốc gia trong thời đại mới » hay những bài giới thiệu như : « DanielRops », « Gauss, một thần đồng toán học », « Toán số với càn khôn », vv.
* Theo ông, đến bao giờ dòng văn học Việt Nam viết bằng tiếng Pháp mới được dịch sang tiếng Việt và phổ biến ở VN thưa ông?
- Công việc này còn tùy thuộc một phần lớn vào các cơ quan thiết chế văn hóa trong chính sách phát triển giao lưu văn hóa và tri thức. Tác phẩm văn học là kết quả sáng tạo cá nhân nhưng đồng thời là một sự kiện xã hội, nó mang yếu tố xã hội và có vai trò chuyển tải văn hóa và lịch sử. Dịch những tác phẩm của các nhà văn Pháp ngữ của chúng ta để phổ biến cho công chúng ở Việt Nam là hành động xây dựng ký ức cộng đồng, điều cần thiết cho xã hội tương lai. Trước mắt, chúng ta trông chờ ở những cá nhân thầm lặng và yêu quý di sản văn học này. Chúng ta đã và đang tiếp nhận Phạm Văn Ký hay Linda Lê qua các tác phẩm đã được dịch sang tiếng Việt. Hy vọng một ngày không xa độc giả sẽ có trong tay bản tiếng Việt của các nhà văn khác.
* Người viết có khả năng sáng tạo ngôn ngữ, đặc biệt là ngôn ngữ văn chương không nhiều?
Như đã nói trên đây, mọi nhà văn đều có những sáng tạo ngôn ngữ. Vì văn học chính là ngôn ngữ và phải khởi đi bằng ngôn ngữ. Viết là làm cho ngôn ngữ nảy sinh. Tuy nhiên, nếu không tính đến các tác giả thuộc thi phái Biểu tượng hay Siêu thực, thì từ nửa sau thế kỷ XX xuất hiện rộng rãi loại « văn chương khó tính » ; tác phẩm thể hiện « cuộc phiêu lưu của lối viết chứ không phải lối viết của cuộc phiêu lưu », nói theo cách của Jean Ricardou. Trên văn đàn Việt Nam Pháp ngữ, Cung Giũ Nguyên được xem là điển hình của thể loại này với tiểu thuyết Le Boujoum, một cuộc hội ngộ của các kí hiệu ngôn ngữ, một cuộc đi xuống để làm phục sinh ngôn ngữ ; và ý nghĩa của tác phẩm đươc nảy sinh từ những cọ xát và phản chiếu giữa các kí hiệu. Chúng ta cũng có thể thấy lối viết này ở Linda Lê.
* Trong buổi trò chuyện về Cung Giũ Nguyên tại cà phê thứ bảy, đã có một nhà nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực tự nhiên cho rằng sau khi nghe ông trình bày về hành trình ngôn ngữ của Cung Giũ Nguyên, ông ta đã có cảm giác như ai đó đã chạm đến đáy sâu tâm hồn ông, bằng ngôn ngữ, và làm tăng giá trị cảm nhận của ông về văn học nói chung và ngôn từ của Cung Giũ Nguyên nói riêng. Ông nghĩ thế nào về điều này?
- Tôi may mắn được tiếp xúc sớm với tác phẩm của Cung Giũ Nguyên và mong muốn được chia sẻ cảm nhận của mình với người khác. Một tác phẩm chỉ « sống » khi nó được đọc. « Đọc » tác phẩm với tất cả ý thức và dấn thân là cùng với tác giả tạo ra ý nghĩa cho tác phẩm và cho chính cuộc đời mình. Xem xét hành trình ngôn ngữ của Cung Giũ Nguyên trong Le Boujoum chỉ là một trong nhiều hướng tiếp cận tác phẩm. Hy vọng giá trị văn học của các tác giả Việt Nam Pháp ngữ sẽ được khám phá nhiều hơn.
* Xin cám ơn ông về buổi trao đổi thú vị này.
Ngân Hà thực hiện.
Box:
Vài nét về nhà văn Cung Giũ Nguyên
Sinh năm 1909, tại Huế, Cung Giũ Nguyên theo học tại Trường Quốc Học Huế. Ông sống chủ yếu tại Nha trang và dấn thân trong nghiệp báo chí và dạy học. Cung Giũ Nguyên cộng tác và làm chủ bút của nhiều tạp chí và nhật báo Pháp ngữ : Les Cahiers de la jeunesse, Le Soir d’Asie, France-Asie, La Tribune, La Presse d’Extrême-Orient, La Gazette de Huê, cũng như Việt ngữ : Đông-Pháp thời báo, Nam phong, Tiếng dân, Bạn đường, Tương lai tạp chí, Bách Khoa...
Từ năm 1950-1975, Cung Giũ Nguyên là giáo sư trung học và là Hiệu trưởng trường Trung học bán công Lê Quý Đôn Nha Trang. Từ năm 1972, ông giữ chức vụ Trưởng Bộ môn tiếng Pháp của Đại học Cộng Đồng Duyên Hải Nha Trang. Từ năm 1989-1999, ông được mời giảng môn Pháp văn trường Cao Đẳng Sư Phạm Nha Trang. Đã từng là Trại trưởng Trại Huấn luyện Hướng đạo quốc tế Gilwell, Anh Quốc. Năm 1972, Cung Giũ Nguyên chính thức trở thành hội viên Hội Nhà văn Pháp ngữ (Association des Écrivains de langue française (ADELF).
Tác phẩm đầu tiên bằng tiếng Việt là một truyện ngắn nhan đề Tình ái mỹ đăng trên Đông-Pháp thời báo (1928). Tác phẩm cuối cùng là tiểu thuyết Pháp ngữ Le Boujoum do Cunggiunguyen Center Publications xuât bản (2002).
Truyện và ký :
Tình ái mỹ đăng
Nhân tình thế thái
Ngàn đời nhớ anh
Nung lửa thử vàng
Những ngày phiêu bạt
Nửa gánh tang bồng
Sổ tay Huế 62 - Một chuyến về
Rứa chứ răng
Duyên nợ miền Nam
Le génie en fuite
Les eaux noires
Le pseudonyme
Journal du Kauthara
Notes marginales
L’actualité vieillit vite
Tiểu thuyết :
Một người vô dụng
Nợ văn chương
Le Fils de la baleine(bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Thành Thống : Kẻ Thừa tự của ông Nam Hải) (tác phẩm đã được dịch sang tiếng Đức với nhan đề Der Sohn des Walfischs và xuất bản năm 1957 tại Genève và Francfort)
Le domaine maudit(tạm dịch Miền đất dữ)
Le Boujoum (Thái Huyền,bản dịch tiếng Việt của nhà văn)
Le Serpent et la couronne(chưa xuất bản)
Un certain TsouChen (chưa xuất bản)
La tache de vermillon(chưa xuất bản)
Tiểu luận, nghiên cứu và chuyên khảo :
Volontés d’existence
Đọc Thoreau – Kèm bản dịch Walden, Đời phóng khoáng
Đọc Bertholt Brecht – Kèm bản dịchCơn Khát
Đọc Simone Weil – Kèm bản dịch Áp bức và tự do
Đọc Kafka – Kèm bản dịch Biến hình
Đọc Berdiaeff – Kèm bản dịch Năm suy gẫm về cuộc sống
Tâm linh kỳ bí
Quyển 1 : Đời sống tâm linh và những đại tông sư
Quyển 2 : Ma thuật
Quyển 3 : Hiện tượng dị thường của tâm linh
Quyển 4 : Mộng – ý nghĩa và giá trị của mộng
Quyển 5 : Biểu tượng
Quyển 6 : Dị thường và tôn giáo
Quyển 7 : Tâm lý học về dị thường
Quyển 8 : Dị thường và khoa học
- Con người được biết đến tùy vào khung cảnh xã hội và lịch sử. Đối với nhà văn Cung Giũ Nguyên, tôi cho rằng có thể sử dụng khái niệm « được thừa nhận » thay vì « nổi tiếng », và việc ông được thừa nhận trong quá khứ, đặc biệt trong giới trí thức, có lẽ nhờ vào những hoạt động văn hóa, giáo dục và báo giới. Không gian văn hóa và tri thức bị biến đổi kéo theo những chọn lựa của cá nhân ; và biết đâu đó lại là cách chọn lựa hợp lí của nhà văn : « ẩn mình giữa đô thị », một hình thức đại ẩn, theo cách nói của nhà văn.
Tôi hoàn thành luận án tiến sĩ năm 2007. Việc chọn đề tài cho luận án không phải là một công việc ngẫu nhiên vì, xét về mặt lý thuyết và phương pháp, đó là bước tiếp theo và chuyên sâu hơn của những gì tôi đã thực hiện trong giai đoạn làm thạc sĩ. Về mặt cứ liệu, tôi tạm thời « rời bỏ » Marcel Proust để làm cái gì đó liên quan đến Việt Nam. Chính lúc đó tôi nghĩ đến văn học Pháp ngữ và gặp được một số tài liệu về các nhà văn Việt Nam. Tôi quyết định chọn nghiên cứu trật tự diễn ngôn trong một số tiểu thuyết của Phạm Văn Ký, Phạm Duy Khiêm và Cung Giũ Nguyên. Đây là ba tác giả của Việt Nam được đề cập nhiều nhất trên diễn đàn văn học Pháp ngữ thế giới lúc đó. Như vậy tôi chọn nhà văn Cung Giũ Nguyên cũng như hai nhà văn kia với mục đích tìm lại hay đúng hơn là khám phá di sản nghệ thuật sáng tạo của người Việt, đồng thời có cơ hội chứng kiến sự vận hành của tư duy Việt trong vỏ bọc ngôn ngữ Tây.
* Ngoài Cung Giũ Nguyên, dòng văn học Việt Nam viết bằng tiếng Pháp còn có những nhân vật nào và những giá trị về mặt ngôn ngữ thông qua các tác phẩm của họ đã đóng góp thế nào cho nền văn chương thế giới nói chung và VN nói riêng, thưa ông?
- Năm 1953, nhà văn Pháp ngữ Nguyễn Tiến Lãng , con rể của cụ Phạm Quỳnh, đã có bài viết trên tạp chí Nouvelles littéraires bàn về việc hình thành một « trường phái văn học Pháp ngữ Đông Dương », mục đích quy tụ những nhà văn trẻ sử dụng tiếng Pháp thời đó như Pierre Đỗ Đình (Đỗ Đình Thạch), Trần Đức Thảo, Phạm Duy Khiêm, Trần Văn Tùng, Phạm Văn Ký. Dù vậy, cho đến nay, những tác phẩm của họ, xét trên bình diện thiết chế, vẫn thuộc loại văn học « ngoại vi ». Đồng thời với họ, chúng ta có thể nói đến Nguyễn Phan Long, Đào Đăng Vỹ, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Văn Nho, Vy Huyền Đắc, Nguyễn Đức Giang, Trịnh Thục Oanh, Bà Lý Thu Hồ, vv. Thế hệ trẻ hơn, từ những thập niên 1980 trở lại đây, có sự xuất hiện đặc biệt của nhiều nữ văn sĩ như Kim Lefèvre, Anna Moï (Trần Thiên Nga), Nguyễn Tuyết Nga, Bach Mai, Kim Đoan, Kim Thúy, Trần Nhựt Thanh Vân, Flament Ngoc Thu (Phạm Ngọc Thu) Linda Lê, Trần Huy Minh, vv.
Tất cả đều có những đóng góp quan trọng vào tiến trình hình thành đời sống văn học Pháp ngữ thế giới nói chung và văn học Việt Nam nói riêng. Nhiều tác giả đã được trao giải thưởng cao quý (Phạm Văn Ký : Grand Prix du roman của Viện Hàn Lâm Pháp, Les Jeux Floraux, Trần Văn Tùng : Grand Prix de l’Empire, Bà Lý Thu Hồ : Prix littéraire de l’Asie, Kim Thúy : Grand Prix RTL-Lire, Linda Lê : Prix Fénéon, Prix Renaudot Poche, vv.). Mọi tác phẩm đều có giá trị nhờ ngôn ngữ và đều tạo cho ngôn ngữ những cơ hội thể hiện giá trị của chính nó. Các nhà văn sử dụng ngôn từ như phương tiện chuyển tải ý tưởng và hiện tại hóa những đối thoại ; Cung Giũ Nguyên đã từng phát ngôn : « Khi chúng ta diễn đạt ngôn ngữ, chúng ta nói những từ ngữ được cân nhắc, những từ ngữ được suy nghĩ, những từ ngữ thực, những từ ngữ có trách nhiệm […], những từ ngữ-hành động có khả năng tạo ra bản chất cuộc sống và nền tảng lịch sử » (Ý chí sinh tồn)
Nhà văn tìm thi vị trong sự « đam mê vui thú qua ngôn ngữ », nói theo kiểu Jean Michel Maulpoix. Chúng ta xác thực điều này nơi Phạm Văn Ký khi ông đặt ngôn ngữ vào cuộc đời và làm mới cuộc đời bằng ngôn ngữ : « Ta khởi đầu con đường tôi luyện văn học trên những bến đậu Paris, giữa những sạp sách cũ. Hỡi Tây Phương, ta đã trở thành nhà văn theo phong cách của ngươi. Ta chắt lọc từ đó một lối diễn đạt riêng có khả năng giải mã các vấn đề của ta bằng ngôn ngữ của ngươi : đó là những cuộc khai phá hình thức chứa đựng giai điệu của trí tuệ, gắn với ý nghĩa thanh tao, với âm vang mới lạ, với những tương giao thực sự, những hiệu năng cảm ứng ngôn từ của ngươi ! Ta tham vọng quay về cội rễ cái Mỹ của ngươi » (Anh em ruột). Thiết nghĩ một vài dẫn chứng trên cho thấy phần nào giá trị và những đóng góp của các nhà văn vào thế giới thẩm mỹ và không gian ngôn ngữ.
* Trở lại với các tác phẩm văn học Việt Nam viết bằng tiếng Pháp của Cung Giũ Nguyên, ông đã nói: "Các phẩm tiểu thuyết của CGN là hành trình chiêm nghiệm và suy ngẫm về thân phận con người hòa nhập với cộng đồng nhưng vẫn cô đơn với chính mình, chứng nghiệm hành trình của một con người cô đơn "bị lưu đày trên xứ sở" của mình". Ông còn cho rằng hành trình cô đơn của CGN còn chứa đựng những thông điệp về lịch sử, văn hóa...? Ông có thể nói rõ hơn về hành trình cô đơn này như thế nào không thưa ông, dĩ nhiên là của CGN (mà biết đâu cũng là của chính chúng ta, vì làm sao chúng ta tránh khỏi dự phần khi lịch sử chỉ là "sự lặp lại, biến tướng và điểm danh" - L.Borge)?
- Văn học và nhà văn « quý mến » sự cô đơn và lưu đày. Patrick Deville thậm chí đã nhìn nhận cô đơn như là yếu tính trong định nghĩa về nhà văn : « Tôi thực sự không có khả năng giải thích nhà văn là gì. […] Tôi chắc rằng trong định nghĩa này có yếu tố lưu đày và cô đơn, tự nguyện hay bắt buộc, và cũng có ý muốn không bám rễ với bất cứ thứ gì, hay bất cứ nơi nào trên thế giới […] Nhà văn là những kẻ di trú trên con đường tìm kiếm những xứ sở xa xôi, nơi những giấc mơ của họ được thỏa mãn […] Ước gì những nhà văn vĩ đại đã biết tạo ra từ sự cô đơn này một vẻ đẹp kỳ diệu […].(« Que pourrais-je savoir de l'exil ? », Le Matricule des Anges).
Ý nghĩa của lưu đày đã được khai mở và phần nào soi sáng cuộc đời nhà văn của Cung Giũ Nguyên. Ông lưu đày đúng nghĩa về phương diện nguồn gốc gia đình (tổ tiên ông là người gốc Hoa). Nhưng trên hết, chúng ta thấy nơi ông một sự cô đơn văn học, trên cả phạm vi thiết chế và biểu tượng : phần lớn các tác phẩm Pháp ngữ của ông đều phải xuất bản ở nước ngoài. Nếu như hai tiểu thuyết đầu Le Fils de la baleine (Kẻ thừa tự của ông Nam Hải) (1956) và Le Domaine maudit (Miền đất dữ) (1961) đều được nhà xuất bản Arthème Fayard của Pháp nồng nhiệt đón nhận, thì Le Boujoum (Thái Huyền) (bản thảo hoàn thành năm 1980) mãi đến năm 2002 mới ra đời và do chính các học trò của nhà văn chịu trách nhiệm xuất bản tại Texas (Cung Giu Nguyen Center). Vấn đề tiếp nhận tác phẩm này cũng khó khăn, vì lý do ngôn ngữ và hình thức lối viết. Theo tôi, tác phẩm không dành cho đại công chúng. Đó rất có thể là ý muốn của tác giả. Chấp nhận chân trời độc giả giới hạn là chấp nhận một lối đi riêng, một con đường vắng và rât dễ dẫn đến tình trạng cô đơn.
Từ lưu đày cội nguồn đến lưu đày văn phẩm, Cung Giũ Nguyên dẫn ta về khám phá sự cô đơn của căn cước chủ thể trong truyện kể, xuyên suốt chiều dài ba tiểu thuyết của ông. Xin nêu ra đây ví dụ hình ảnh nhân vật Mỗ trong Le Fils de la baleine :
« Mỗ đã hiện hữu ở đó từ hàng thế kỷ để chất vấn đêm đen và những vì sao về công việc mình phải làm trên bãi cát sỏi lạnh lùng và cô quạnh, trước mênh mông biển nước đang vô tình cuốn trôi số phận mình. Hắn có thể là người đầu tiên và cuối cùng, khi đứng giữa mảnh đất hoang vu, gần đống đổ nát từ chiếc thuyền của mình, có cảm nhận về sự chọn lựa đáng sợ đã áp đặt lên mình : một là sống hai là chết. Hắn chẳng còn hữu dụng cho thiên hạ nữa. Tình nhân loại toàn vẹn mà hắn thể hiện có thể biến đi mãi mãi mà không cần biển phải chuyển nhịp thủy triều, cũng chẳng cần mặt trời phảt tắt để mang màu tang tóc ».
Nhân vật không luôn đồng nhất với chủ thể sáng tạo, càng khó ghép hình ảnh nhân vật với nhà văn trong tư cách một chủ thể xã hội. Nhưng chúng ta dễ chấp nhận rằng nhà văn qua không gian văn bản là hình ảnh của người đi tìm xây dựng căn cước của mình. Nói cách khác, nhà văn cuối cùng là một nhân vật ẩn mình trong hình thức kết cấu diễn ngôn, biểu trưng của kết cấu xã hội-lịch sử, văn hoá và ý thức. Không gian diễn ngôn vì thế là không gian biểu hiện hình ảnh cái tôi như là chủ thể trong sự khủng hoảng, là chủ thể trong sự nghi vấn và bị ngộ nhận.
Có thể nhìn nhận Cung Giũ Nguyên như một chủ thể xã hội bị lưu đày, bởi vì xã hội tạo ra những ranh giới, nhưng đối với Cung Giũ Nguyên nhà văn – chủ thể sáng tạo, thì cô đơn hay lưu đày là cảm nhận một không gian khác làm nảy sinh sáng tạo.
* Sau khi SGTT đưa tin về buổi nói chuyện về CGN của ông, bạn đọc đã thắc mắc, nhắc đến C.G.N, không thể không nhắc đến nữ sĩ Nguyễn Thị Hoàng. Trong quá trình nghiên cứu các tác phẩm của C.G.N, ông chắc cũng biết con người không thể chạy trốn số phận (nếu có), và có phải cuộc gặp gỡ và "scandal" với nữ sĩ này đã mở cho nhà văn C.G.N một hành trình khác vì trước đó ông vốn nổi tiếng là mô phạm và được tất cả các giáo sư và học trò kính nể. Sau vụ scandal này, ông thu mình và cô độc hơn ai hết trước những lời phỉ báng và cả sự khinh rẻ của đồng nghiệp... Nếu nghiên cứu của ông mà bỏ qua chuyện này, tôi thấy thật tiếc...
- Theo tôi, trước hay sau Cung Giũ Nguyên vẫn là con người mô phạm. Tôi không nghĩ rằng đồng nghiệp thực sự của ông khinh rẻ ông sau cuộc gặp gỡ giữa ông với cô Nguyễn Thị Hoàng. Có chăng thì, ở khía cạnh người nghiên cứu, sự kiện đó giúp tôi hiểu hơn bản chất của con người và tiến trình xây dựng hình ảnh con người. Cuộc đời nhà văn đã chứng kiến nhiều ngộ nhận cho chính mình và cho cộng đồng mình nên việc ông thu mình lại không phải là một sự thất bại hay chạy trốn mà có lẽ điều đó là cần thiết cho một cuộc siêu nghiệm.
* Và phải chăng câu chuyện trên cũng dẫn đến lời tâm sự này: "Tôi là con người nội tâm, một con người suy tư- tư duy hơn là nói. Tôi muốn viết để tống khứ cái con ma trong tôi. Con ma đó là sự mặc cảm, sự khao khát, cả sự hèn yếu...". Con ma của C.G.N, theo ông, đó là gì?
- Như chị vừa nói đó, Cung Giũ Nguyên tự xếp mình vào hạng người hướng nội, có khuynh hướng rút lui về mình và hướng về tư duy. Chỉ khi con người bị cuốn hút vào thế giới nội tâm mới có khả năng khám phá « con ma » của mình. Con « ma » của Cung Giũ Nguyên có thể là ký ức dai dẳng hay cảm giác ám ảnh, nhưng cũng có thể là ý thức về một sự đau đớn nào đó khi bị tước đoạt. Nhắc đến « con ma » của Cung Giũ Nguyên làm tôi liên tưởng đến « con ma » của Phạm Văn Ký trong truyện ngắn Pháp ngữ Bóng ma xác thực (Fantôme de la précision) và thấy có một sự đồng nhất nào đó giữa hai nhà văn : « Đến lượt bạn hãy tin tôi đi. Sự thật thường thốt ra từ miệng những con ma. Nhưng con ma của tôi không giống những con ma khác : nó không lấp ló phập phờ ; sức nặng cuộc đời đã buộc chặt nó vào thế gian ; nó đáng giá những lo âu, hối hận, phiền muộn. Nó chưa chết hẳn ». Nghiên cứu văn học dưới góc độ phân tâm học sẽ giúp ta hiểu hơn tình trạng ám ảnh tâm lý tác giả
* Dù vậy, tôi rất n tượng khi nghe ông nói về văn chương của C.G.N, ông viết về sự thống khổ,đau đớn nhưng không hề hằn học, thù ghét, oán hận mà chỉ đầy tính triết lý. Ông có đoạn văn nào biểu hiện cho điều này không?
- Tôi rất thích hình ảnh nhân vật Mỗ trong tác phẩm Le Fils de la baleine trong tiến trình tìm lại ý thức và vị trí giữa cộng của mình khi bị khước từ :
« Thời tiết trở nên xáo động đẩy thân xác hắn trôi giạt trên cát như một kẻ thân tàn ma dại. Nhưng Mỗ lại thích thú với nhịp trôi bồng bềnh ấy ; nó lay động và thanh lọc những giấc mộng của hắn. Áp sát tai xuống mặt cát, hắn nghe thấy tiếng ồn ào của cuộc sống dưới lòng đất của những con vật nhỏ bé đang chuyển hướng ẩn náu. Và từ sâu thẳm quá khứ của hắn bỗng trỗi dậy một âm giọng rời rạc :
… chính con cua thợ ấy
với bộ càng yếu mềm
nạo khoét cát biển đông
lấp đầy vực thẳm mênh mông… »
Nhưng Amdo trong Le Boujoum làm tôi liên tưởng đến sự trải
nghiệm và lòng tin mạnh mẽ của nhà văn vào cuộc đời, dù cho thời cuộc đã
không luôn như dòng sông bình lặng :« Tôi ở lại vị trí của tôi. Và nếu phải trải qua một kinh nghiệm khác nữa, thì, mặc kệ, chẳng còn gì có thể làm tôi ngạc nhiên, dù cho đó là sự phối hợp giữa thiên đàng với địa ngục, hay là lễ cưới của nàng ốc sên với chàng cá mập, kể cả sự ám ảnh của Thái Huyền, của điều cảm nhận mà không giải thích được, của bâng khuâng về ý nghĩa dệt bằng vô nghĩa ».
* Cũng có bạn đọc phản hồi, nhà văn C.G.N cũng là một cây bút sắc bén của báo chí miền Nam thời bấy giờ. Xin ông cho biết thêm về điều này?
- Trong những hình thức giao thoa giữa các phạm vi hoạt động, đam mê với một loại tiếng Pháp trong sáng, Cung Giũ Nguyên khai mở trong thế giới báo chí, không chỉ ở một tiếng nói có khả năng giúp cho con người suy nghiệm chính xác về các giá trị văn hóa và đạo đức. Từ năm 1939, cùng với Raoul Serène, tiến sỹ viện trưởng Viện Hải học Nha Trang, Cung Giũ Nguyên đồng chủ nhiệm tờ nguyệt san Les Cahiers de la Jeunesse (Tập san Tuổi Trẻ), rồi cùng năm trở thành chủ bút nhật báo Le Soir d’Asie (Á châu Buổi tối) xuất bản tại Sài Gòn. Chính trong nhật báo này Cung Giũ Nguyên đã cho xuất bản chuyên mục nhiều kỳ Notes marginales (Tạp ghi bên lề). Các bài viết đó chứng minh một phong cách trưởng thành chất chứa sắc thái của một tinh thần trẻ bị chao đảo và xáo động bởi những biến động của thời đại, nhưng cũng mang vẻ diễn ngôn của tinh thần trách nhiệm và ý thức về các giá trị xã hội và nhân văn. Diễn ngôn văn học vì thế được cưu mang trước tiên trên nền tảng các yếu tố cơ bản mang tính giai thoại và nhạy cảm của những sự kiện đời thường, để rồi đạt đến đỉnh cao diễn ngôn xã hội. Độc giả có thể tìm thưởng thức phong cách đặc thù đó trong nhiều tạp chí khác như France-Asie (Pháp-Á), La Tribune (Diễn Đàn), La Presse d’Extrême-Orient (Viễn Đông báo chí).
Báo chí với tư cách là không gian trao đổi, giao thoa và kết tụ những đặc trưng của một ngòi bút, một tiếng nói, một quan điểm, đã cho phép Cung Giũ Nguyên phần nào xác định hay giả định trước khung trời độc giả hay thế giới tiếp nhận của mình. Nghĩa là qua đó tác giả khẳng định khả năng tiến triển trên con đường văn nghiệp. Sự ra đời của tiểu luận Volontés d’existence (Ý chí sinh tồn) năm 1954 trong tạp chí France-Asie là một minh chứng cụ thể. Trong bối cảnh của Việt Nam đương thời, việc xuất bản trong các ấn phẩm định kỳ đã trở thành nền móng dọn đường cho các diễn ngôn mang tính chất hùng biện. Volontés d’existence chắc chắn vừa là một diễn ngôn văn học, vừa là diễn ngôn văn hóa và cũng mang sắc thái của một diễn ngôn về ý thức hệ.
Ngoài ra, Cung Giũ Nguyên còn cộng tác với nhiều tờ báo Việt ngữ như Đông-Pháp thời báo, Nam phong, Tiếng dân, Bạn đường, Tương lai tạp chí, Bách Khoa... Ông cho đăng những sáng tác hay các bài viết về văn hóa. Chẳng hạn trong tạp chí Bách Khoa Sài Gòn, Ông có loạt bài khảo cứu về « Ý niệm quốc gia trong thời đại mới » hay những bài giới thiệu như : « DanielRops », « Gauss, một thần đồng toán học », « Toán số với càn khôn », vv.
* Theo ông, đến bao giờ dòng văn học Việt Nam viết bằng tiếng Pháp mới được dịch sang tiếng Việt và phổ biến ở VN thưa ông?
- Công việc này còn tùy thuộc một phần lớn vào các cơ quan thiết chế văn hóa trong chính sách phát triển giao lưu văn hóa và tri thức. Tác phẩm văn học là kết quả sáng tạo cá nhân nhưng đồng thời là một sự kiện xã hội, nó mang yếu tố xã hội và có vai trò chuyển tải văn hóa và lịch sử. Dịch những tác phẩm của các nhà văn Pháp ngữ của chúng ta để phổ biến cho công chúng ở Việt Nam là hành động xây dựng ký ức cộng đồng, điều cần thiết cho xã hội tương lai. Trước mắt, chúng ta trông chờ ở những cá nhân thầm lặng và yêu quý di sản văn học này. Chúng ta đã và đang tiếp nhận Phạm Văn Ký hay Linda Lê qua các tác phẩm đã được dịch sang tiếng Việt. Hy vọng một ngày không xa độc giả sẽ có trong tay bản tiếng Việt của các nhà văn khác.
* Người viết có khả năng sáng tạo ngôn ngữ, đặc biệt là ngôn ngữ văn chương không nhiều?
Như đã nói trên đây, mọi nhà văn đều có những sáng tạo ngôn ngữ. Vì văn học chính là ngôn ngữ và phải khởi đi bằng ngôn ngữ. Viết là làm cho ngôn ngữ nảy sinh. Tuy nhiên, nếu không tính đến các tác giả thuộc thi phái Biểu tượng hay Siêu thực, thì từ nửa sau thế kỷ XX xuất hiện rộng rãi loại « văn chương khó tính » ; tác phẩm thể hiện « cuộc phiêu lưu của lối viết chứ không phải lối viết của cuộc phiêu lưu », nói theo cách của Jean Ricardou. Trên văn đàn Việt Nam Pháp ngữ, Cung Giũ Nguyên được xem là điển hình của thể loại này với tiểu thuyết Le Boujoum, một cuộc hội ngộ của các kí hiệu ngôn ngữ, một cuộc đi xuống để làm phục sinh ngôn ngữ ; và ý nghĩa của tác phẩm đươc nảy sinh từ những cọ xát và phản chiếu giữa các kí hiệu. Chúng ta cũng có thể thấy lối viết này ở Linda Lê.
* Trong buổi trò chuyện về Cung Giũ Nguyên tại cà phê thứ bảy, đã có một nhà nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực tự nhiên cho rằng sau khi nghe ông trình bày về hành trình ngôn ngữ của Cung Giũ Nguyên, ông ta đã có cảm giác như ai đó đã chạm đến đáy sâu tâm hồn ông, bằng ngôn ngữ, và làm tăng giá trị cảm nhận của ông về văn học nói chung và ngôn từ của Cung Giũ Nguyên nói riêng. Ông nghĩ thế nào về điều này?
- Tôi may mắn được tiếp xúc sớm với tác phẩm của Cung Giũ Nguyên và mong muốn được chia sẻ cảm nhận của mình với người khác. Một tác phẩm chỉ « sống » khi nó được đọc. « Đọc » tác phẩm với tất cả ý thức và dấn thân là cùng với tác giả tạo ra ý nghĩa cho tác phẩm và cho chính cuộc đời mình. Xem xét hành trình ngôn ngữ của Cung Giũ Nguyên trong Le Boujoum chỉ là một trong nhiều hướng tiếp cận tác phẩm. Hy vọng giá trị văn học của các tác giả Việt Nam Pháp ngữ sẽ được khám phá nhiều hơn.
* Xin cám ơn ông về buổi trao đổi thú vị này.
Ngân Hà thực hiện.
Box:
Vài nét về nhà văn Cung Giũ Nguyên
Sinh năm 1909, tại Huế, Cung Giũ Nguyên theo học tại Trường Quốc Học Huế. Ông sống chủ yếu tại Nha trang và dấn thân trong nghiệp báo chí và dạy học. Cung Giũ Nguyên cộng tác và làm chủ bút của nhiều tạp chí và nhật báo Pháp ngữ : Les Cahiers de la jeunesse, Le Soir d’Asie, France-Asie, La Tribune, La Presse d’Extrême-Orient, La Gazette de Huê, cũng như Việt ngữ : Đông-Pháp thời báo, Nam phong, Tiếng dân, Bạn đường, Tương lai tạp chí, Bách Khoa...
Từ năm 1950-1975, Cung Giũ Nguyên là giáo sư trung học và là Hiệu trưởng trường Trung học bán công Lê Quý Đôn Nha Trang. Từ năm 1972, ông giữ chức vụ Trưởng Bộ môn tiếng Pháp của Đại học Cộng Đồng Duyên Hải Nha Trang. Từ năm 1989-1999, ông được mời giảng môn Pháp văn trường Cao Đẳng Sư Phạm Nha Trang. Đã từng là Trại trưởng Trại Huấn luyện Hướng đạo quốc tế Gilwell, Anh Quốc. Năm 1972, Cung Giũ Nguyên chính thức trở thành hội viên Hội Nhà văn Pháp ngữ (Association des Écrivains de langue française (ADELF).
Tác phẩm đầu tiên bằng tiếng Việt là một truyện ngắn nhan đề Tình ái mỹ đăng trên Đông-Pháp thời báo (1928). Tác phẩm cuối cùng là tiểu thuyết Pháp ngữ Le Boujoum do Cunggiunguyen Center Publications xuât bản (2002).
Truyện và ký :
Tình ái mỹ đăng
Nhân tình thế thái
Ngàn đời nhớ anh
Nung lửa thử vàng
Những ngày phiêu bạt
Nửa gánh tang bồng
Sổ tay Huế 62 - Một chuyến về
Rứa chứ răng
Duyên nợ miền Nam
Le génie en fuite
Les eaux noires
Le pseudonyme
Journal du Kauthara
Notes marginales
L’actualité vieillit vite
Tiểu thuyết :
Một người vô dụng
Nợ văn chương
Le Fils de la baleine(bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Thành Thống : Kẻ Thừa tự của ông Nam Hải) (tác phẩm đã được dịch sang tiếng Đức với nhan đề Der Sohn des Walfischs và xuất bản năm 1957 tại Genève và Francfort)
Le domaine maudit(tạm dịch Miền đất dữ)
Le Boujoum (Thái Huyền,bản dịch tiếng Việt của nhà văn)
Le Serpent et la couronne(chưa xuất bản)
Un certain TsouChen (chưa xuất bản)
La tache de vermillon(chưa xuất bản)
Tiểu luận, nghiên cứu và chuyên khảo :
Volontés d’existence
Đọc Thoreau – Kèm bản dịch Walden, Đời phóng khoáng
Đọc Bertholt Brecht – Kèm bản dịchCơn Khát
Đọc Simone Weil – Kèm bản dịch Áp bức và tự do
Đọc Kafka – Kèm bản dịch Biến hình
Đọc Berdiaeff – Kèm bản dịch Năm suy gẫm về cuộc sống
Tâm linh kỳ bí
Quyển 1 : Đời sống tâm linh và những đại tông sư
Quyển 2 : Ma thuật
Quyển 3 : Hiện tượng dị thường của tâm linh
Quyển 4 : Mộng – ý nghĩa và giá trị của mộng
Quyển 5 : Biểu tượng
Quyển 6 : Dị thường và tôn giáo
Quyển 7 : Tâm lý học về dị thường
Quyển 8 : Dị thường và khoa học
- http://www.vanhoanghean.com.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét