Thứ Ba, 11 tháng 6, 2013

MẶT TIỀN NGHỆ THUẬT - VÕ CHÂN CỮU


          Hai nhà thơ Võ Chân Cữu và Triệu Từ Truyền         


                                                                   Kỳ 16

                                         Dòng Sông Bay-Đậu

Ở cuộc họp mới nhất về  vấn đề chống ngập lụt cho vùng hạ nguồn sông Mê-Kông thời biến đổi khí hậu, nhiều nhà khoa học quốc tế đã cho rằng “hãy để cho sông được là…sông”. Khuyến nghị này như cũng dành cho các nhà thơ ?
Khá nhiều chữ dùng khi định dạng một dòng sông. Với từ Hán đã Việt hóa, nó có thể là Giang, Xuyên, Hà, Lưu…Chữ Nôm hoặc từ dân tộc thì: sông, dòng, xẻo, vàm, cái, nước; hoặc La, Đạ, Đak…Nhưng hôm nay, do tác động và hiểm họa từ con người, con sông có khi không còn là chính nó ! Tôi đã đi từ những ngọn nguồn ra cửa biển. “Không ai có thể tắm hai lần trên một dòng sông”, huống hồ nay lại thêm những thủy điện, kè, đê, đập ngăn mặn hoặc giữ ngọt…

Ngọn nguồn chưa cạn

Ở các ngành thủ công và kỹ thuật thì càng già tuổi nghề càng thành thạo, hoặc “càng già càng dẻo càng dai”, nhưng với các nhà thơ, tài năng có khi chỉ bộc phát một thời. Thâm niên tu luyện kỹ thuật, học hỏi thật nhiều, nhưng có khi những dòng chữ, những câu thơ không còn truyền cảm nữa !

Thế hệ hiện tại vẫn tìm về những bài thơ hay đã ra đời khá lâu, có tác giả tạo nên câu xuất thần khi mới 17,18 tuổi.

·        Hoàng Xuân Sơn
Ngỡ Mình Là Gió

Đôi khi anh ngỡ mình là gió
Gió tình cờ trở lại  nhà em
Gió đến rất thầm sau khung cửa
Đón các em về buổi học tan

Nhớ Huế êm đềm mưa nghiêng sợi
Bay màu áo dạ phố đông sang
Buổi sáng em cười mắt ngái ngủ
Đêm qua lạnh quá giữa mưa phùn

Những tối trăng ngà treo trước hiên
Hát theo trăng một khúc nhạc tình
Nhẹ nhàng trăng đến từ muôn thuở
Mùa thu say gió ngủ trên đàn

Nhớ ngày cột tóc bỏ đuôi chim
Dạo xe qua mấy cửa nội thành
Hái lá ngu ngơ trên vườn thượng
Em thả trong chiều sương khói xanh

Mùa hạ tung tăng về với biển
Những chiều hôm đuổi gió lang thang
Đặt tên cho một loài ốc khuyết
Nhạc vàng trên sóng nước tình tang

Thắp một hoàng hôn cùng nỗi nhớ
Buổi chiều tà có mắt ai trong
Yêu từ chút nắng mềm trên lụa
Ngồi đây thương nhớ cũng tang bồng…

Nhà thơ Hoàng Xuân Sơn hiện ở Canada, nay đã ngoài 70 tuổi. Qua các trang mạng, dòng thơ ông vẫn tràn trề. Về hình thức, lắm bài của ông khá mới mẻ-từ nhịp điệp đến ngôn từ -cho thấy cảm xúc vẫn ăn nhịp với cuộc sống công nghiệp. Nhưng nhắc đến tên ông, thì nhiều người vẫn cứ nhắc đến những bài thơ xưa ! “Mùa thu say gió ngủ trên đàn” để  lưu luyến về“Buổi chiều tà có mắt ai trong”…

Cùng một thời với Hoàng Xuân Sơn, nhà thơ Triệu Từ Truyền khi đến tuổi chiêm nghiệm ra dòng thơ chính là “Những Chữ Qua Cầu Tâm Linh” (tên một tập sách viết về thơ của ông), đã khẳng định mỗi đời người thường có một dòng thơ xuyên suốt. Được vậy mới tạo nên cá tính của người thơ. Cuộc đời ông trải qua nhiều biến động, nhưng chủ đề của thơ ông vẫn nhiều ấn tượng về  những người  thiếu nữ mang nét khắc khoải siêu hình. Có lẽ do ảnh hưởng của nguồn văn hóa Pháp mà ông tiếp nhận  khi đi học. Như bài thơ ông làm từ năm 1963, khi ông mới 16 tuổi :

·        Triệu Từ Tuyền
Khuôn Mặt

Tóc con gái đại dương xanh
Sóng cuồng nộ trắng tà thanh xuân vàng
Tấm thân thu dọn điêu tàn
Núi tương lai dựng bàng hoàng đá xưa

Mặt trời trong thế kỷ xưa
Mây u ám ngọn tuổi chưa lụn mòn
Đất phun lửa ứa vết son
Khoác vai thế hệ áo tròn thời gian.
                                               
            (1963)
Bay là Đậu ?

Những bài thơ báo hiệu về sự chuyển mình của dòng thơ hiện sinh mang bản sắc Việt Nam đã tập hợp thành tác phẩm đầu tay “Đêm Lên Cơn Dài” in năm 1965, và có mặt trong Tuyển Thơ Triệu Từ Truyền 2010. Trong lời tựa của Tuyển tập, Đoàn Vị Thượng viết khá đúng khi cho rằng “Anh còn muốn tát cạn cho đến cùng ngững gì uyên áo thâm viễn nhất chứa đựng trong mỗi bài thơ mà anh chính là người tạo tác. Hình như cái “bản năng gốc” này đã chi phối anh suốt đời, cho nên, trước và sau, xưa kia và bây giờ, những gì anh viết ra cũng chỉ đều là một-một trong suy tưởng, cảm xúc và một cả trong cách thể hiện-hay như ta thường gọi, đó là sự nhất quán trong giọng điệu và bút pháp”

Sự “nhất quán” ấy không dễ gì có được, nhất là khi con người phải trải qua nghịch cảnh đau thương. Bối cảnh lịch sử như biến cố ’75 dễ làm cho người thường trở mặt, biến thành con người khác. Nhưng đáng khâm phục thay những  nhà thơ, dù trải qua khổ nhục tù đày, suýt làm mồi cho cá, nhưng sang đến xứ người, những câu, những chữ viết ra chỉ đau đáu những câu hỏi muôn đời về nỗi đau của kiếp người, không ta thán, oán thù…Với Triệu Từ truyền, ông may mắn trở về trong vị thế của một người trong “bên thắng cuộc”, nhưng gặp lại người thiếu nữ năm xưa, lại tiếp tục băn khoăn với những câu hỏi từ xa xưa:

                   *  Đậu và Bay
                  
                   lời em bay lên cùng cánh chim
                   đậu lại cuối hoàng hôn chờ qua đêm
                   bên nhánh cành tỏa nhành hương dạ lý

                   bay và đậu nhẹ nhàng như nhau,
                   bay là yêu trong xôn xao nỗi nhớ
                   yêu là đậu trong khát vọng daị hoang
                   lời nói đậu lại nơi đâu, ngàn đời ai biết được.
                   anh không nói lời yêu em dù bay lên hay đậu xuống
                   cho em đừng vội nói yêu anh

                   đậu rộn rã trong sát na hạnh phúc giữa bay câm
lặng, cánh này lời thơ, cánh kia nốt nhạc, vỗ nhịp nhàng khuyấy động hư không

ba mươi năm lãng mạn đọng nơi em, kẻ uống giọt rượu tình cuối cùng do anh chưng cất, đừng trách anh có khuôn mặt sau cơn mưa.

sau em, trì hoãn vừa chìm xuống, vội vã bị cuốn trôi, nước mắt rơi từ cánh thơ là cơn mưa thấm đẫm tim anh, tia sáng rọi từ cánh nhạc là ánh mắt em soi tỏ đáy lòng u tịch.

đậu là bắt đầu bay, bay để về nơi đậu

                                                                             (4-2000)

Tôi mới quen và chơi với Triệu Từ Tuyền từ giữa những năm ’90 của thế kỷ trước, khi anh đã tự nguyện cởi bỏ hết các lốt áo quan chức, trở về phiêu bồng với các trang chữ, tình nguyện đóng “quản lý phí” để được đóng vai chủ biên các tập san như “Giao&Mở”, “Bông Trang”. Chính trên tạp chí Bông Trang  (chủ quản là Hội VHNT tỉnh Sông Bé), ông đã thẳng tay vạch mặt có một “nhà thơ” Miền Bắc đã “đạo” nguyên một bài thơ của một nhà thơ Miền Nam xưa in trên tạp chí Bách Khoa, xưng mình là tác giả !
Năm đó Triệu Từ Truyền tự nguyện đem tới tặng Hoàng Ngọc Tuấn đang ngụ ở nhà tôi một chiếc xe gắn máy cũ để Hoàng Ngọc Tuấn khi buồn sẽ thuận tiện ra quán nhậu mà vợ anh mới mở ở quận 3. Tuấn không nhận nhưng vẫn hay tấp xe đạp vào quán của vợ chồng anh khi bạn hẹn. Sắp đến ngày giỗ Hoàng Ngọc Tuấn (5-6 Âm lịch),  Triệu Từ Tuyền cũng đồng cảm khi tôi đưa anh xem bài thơ Hoàng Xuân Sơn làm để nhớ bạn :

                       
                       *  Hình-Như-Hoàng-Ngọc-Tuấn

                                             thất thanh.  rồi nỗi đoạn trường
                                 hình như nắng đợi
                                cuối vườn chiêm bao
                               hình như giọt rượu đã trào
                               giọt nước đã tạnh
                              ngàn sao ngục hình
                             hình như.  hình như là tình
                            yêu vô lượng kiếp
                           mà hình như.  chưa
                          nhắm mắt
                         bết ngọn tóc đùa
                        khô tay gương lược
                       hết mùa lâm ly
                      hình như không cả thầm thì
                     yên lặng của gió
                    và quỳ hoa
                                                            bay.

Bài thơ lục bát cố tình ngắt vần và xuống câu theo kiểu “cách tân” nhưng tình bạn nguyên vẹn và nồng nàn như một thuở hai mươi.
                                                                       (Còn nữa)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét