Thế kỷ XIX,
thế kỷ đen tồi và đau thương của lich sử dân tộc Việt Nam xét về mặt chính trị,
kinh tế - xã hội. Nho học dần bị phá sản, giai cấp thống trị là nho sĩ dần bị
lụi tàn, chủ quyền quốc gia bị chèn ép, chà đap và sau cùng mất vào tay thực
dân Pháp. Nhưng nếu như tình hình chính trị, kinh tế - xã hội Việt Nam giai
đoạn này lâm vào tình trạng vô cùng đen tối thì ngược lại tình hình văn học
nước ta giai đoạn này lại có những thành tựu rất đáng tự hào. Bên cạnh việc văn
học chữ Nôm đạt được nhiều thành tựu, chiếm địa vị cao hơn trước; tiếng
Việt thơ ca đạt đến trình độ nhuần
nhuyễn, có đủ khả năng diễn đạt tâm hồn và cuộc sống phong phú của con người
Việt Nam Có thể nói văn học Việt Nam giai đoạn này như một vườn hoa nở rộ đầy
hương sắc với nhiều tên tuổi lớn. Một trong những tên tuổi lớn trong vườn hoa
đầy hương sắc ấy là Tùng Thiện Vương Miên Thẩm – hoàng tử thứ mười của
vua Minh Mạng. Là một cây bút tài hoa, một nhà thơ nổi tiếng, Tùng Thiện vương
đã để lại cho đời một sự nghiệp trước tác khá lớn, văn cũng như thơ. Về thơ,
chỉ riêng Thương Sơn thi tập cũng đã
gồm đến chín tập([1])
(khi khắc in bằng bản gỗ năm 1872 được gộp lại còn tám tập và chia thành 54
quyển với ít nhất là trên 2000 bài thơ).
Đó là tập thơ sáng tác bằng chữ Hán có qui mô vào loại lớn nhất thế kỷ
XIX và là tập thơ làm nên danh vị “thất Thịnh Đường”([2])
của Vương. Thương Sơn thi tập là tâm huyết của cả cuộc đời ông Hoàng Mười; là thao thức, dằn vặt
trong sâu thẳm tâm hồn một con người luôn luôn suy nghĩ về bản thân cũng như về
thế giới xung quanh mình: nhân dân, đất nước. Có thể nói, qua hệ thống cấu trúc
nội dung cũng như qua hệ thống đề tài, chủ đề, thể thơ, hình tượng thơ, Thương Sơn thi tập là tập thơ đã kế thừa
và phát huy được những giá trị nội dung cùng nghệ thuật truyền thống của văn
học trung đại. Và qua những gì mà Tùng Thiện Vương thể hiện trong thơ, ta thấy
Vương là nhà thơ có một tâm hồn rất nhạy cảm, có một đời sống nội tâm vô cùng
phong phú đồng thời còn cho thấy đó là nhà thơ đấy tài năng, đáng được xếp vào
hàng thi bá. Bên cạnh mảng thơ bộc lộ xu hướng muốn sống cuộc sống ẩn sĩ, nhàn
tản, tiêu sái, xa lánh lợi danh là mảng thơ thể hiện lòng ưu thời mẫn thế, lo
lắng xót đau cho tiền đồ của đất nước, dân tộc; bên cạnh mảng thơ phản ánh hiện
thực đen tối của thời đại, đất nước trước và trong khi bị thực dân Pháp xâm
lược là mảng thơ nói lên tình yêu tha thiết đối với thiên nhiên, tình cảm nồng
hậu đối với người thân trong đó nổi lên tình cảm đáng quí của Vương đối với bạn
.
Bạn của Vương hầu hết là những bạn văn,
những danh sĩ đương thời. Tùng Thiện Vương, như chúng ta đã biết, là một ông
hoàng thơ nổi tiếng ở Kinh đô, hơn nữa Vương lại là người hào phóng, «quí bè
bạn, giao du chỉ trọng tài đức, không phân biệt sang hèn» (Hợp tuyển thơ văn Việt Nam tập
IV quyển I – NXB Văn Học, 1984, tr. 153) nên tao nhân mặc khách nhiều nơi trên
đất nước tìm đến giao hảo. Tình cảm bạn bè gắn bó, thân mật giữa Vương với các
bằng hữu được thể hiện qua những lần họp mặt chuyện trò tâm sự, uống rượu ngâm
thơ; qua những buổi dạo chơi, những lần tao ngộ, những lúc biệt ly cũng như
những lúc bạn bè gặp chuyện vui, buồn trong cuộc sống .
Một lần cùng bạn dạo chơi Kim Long, một vùng đất
nằm phía tây kinh thành Huế, Vương đã làm thơ ghi lại chuyến ngao du thú vị ấy
:
Bạch Hổ(1) kiều biên hiển hiển
sa,
Kim
Long(2) hạng khẩu tịch dương tà.
Yên
đinh khách hoán thuyền di ngạn,
Hương
các chung thôi nguyệt đáo hoa ...
...
Xuân lai sai giác tư du tối,
Bất
phụ tân thi đáp tuế hoa.
(Đồng hữu nhân du Kim Long)
(Bên cầu Bạch Hổ cát phơi ra,
Xóm vắng Kim Long bóng ác tà.
Bãi khói khách kêu thuyền chuyển bến,
Gác thơm chuông đổ nguyệt lồng hoa ...
... Xuân đến đi chơi vui thú quá,
Vần thơ không phụ tuổi xuân qua).
(Cùng bạn
đi chơi Kim Long)
Cầu Bạch Hổ nghiêng mình soi bóng nước, lòng sông
nước cạn, bờ cát nằm phơi mình dưới chân cầu, bóng chiều buông đầu ngõ xóm, bãi
sông mờ khói sương, con thuyền chuyển bến, trăng lồng hoa, chuông ngân nga vang
vọng ... Cảnh chiều Kim Long sao mà đẹp, mà thơ làm ngơ ngẩn lòng khách du
ngoạn!
Một người bạn đường xa lặn lội đến thăm, Vương
không dấu được nỗi mừng vui trước cảnh “cố nhân lai” ấy :
… Cố nhân diệt uổng giá,
Ác tý phương thảo gian.
Đàm thi khiển trệ lự,
Hàm bôi thư tiếu nhan …
(Hỷ cố nhân Lê Quang kiến quá)
... Bạn
cũ bỏ công đến,
Cầm tay cỏ thơm vây.
Luận thơ khuây khổ lụy,
Nhấp rượu khoái tươi cười …
(Mừng
bạn cũ Lê Quang đến thăm)
Một lần tình cờ giữa đường bỗng gặp bạn cố tri,
Vương ân cần trò chuyện rồi xuất khẩu thành thơ tặng :
Tương phùng ác tý ám thương tâm,
Cọng thuyết niên lai khế khoát thâm.
Sách đắc nang trung thi bách thủ,
Qui trình cáp hảo đối quân ngâm.
(Đạo phùng cố nhân khẩu chiếm dĩ tặng)
Gặp gỡ cầm tay giấu nỗi đau,
Suốt năm qua ý hợp tâm đầu.
Lục tìm sẵn có thơ trong túi,
Thỏa thích đường về ngâm với nhau .
(Giữa
đường gặp bạn cũ đọc miệng thơ tặng)
Còn gì thích thú bằng đã lâu mới gặp lại bạn cũ dù
phải nén nỗi niềm tâm sự riêng không vui! Hơn nữa đây lại là một bạn văn nên,
trên đường về, Vương đã lấy thơ có sẳn trong túi ra đọc cho bạn nghe để cùng
nhau thưởng thức. Nguyên văn bài thơ không có một từ nào nói đến nỗi mừng vui
nhưng người đọc lại cảm thấy nỗi vui mừng toát lên từ giọng điệu bài thơ.
Hội ngộ bạn bè, Vương có dịp cùng bạn uống rượu,
ngâm thơ, hàn huyên tâm sự. Bài thơ Đồng hữu nhân dạ ẩm (Ban đêm cùng
bạn uống rượu) sau đây tả lại niềm hứng thú của Vương trong một đêm trăng đẹp
cùng bạn uống rượu ngâm thơ trên gác thâu đêm, bên ngoài, sen hồ tỏa hương thơm
ngát, chuông chùa từng hồi ngân nga vẳng lại khiến tâm hồn con người lâng lâng,
xao xuyến :
Mật tọa lương tiêu vĩnh,
Cao
bằng ỷ tứ vu.
Nguyệt
minh hàm bán các,
Liên
khí động toàn hồ ...
...
Tửu lan nhân bất mị,
Đề
đoạn hiểu phi ô.
(Đêm mát ngồi thân mật,
Ý thơ bạn đẹp, sầu.
Trăng thanh soi nửa gác,
Sen ngát tỏa đầy ao…
… Rượu tàn người chẳng ngủ,
Trời
sáng quạ thôi kêu.)
Mỗi
lần có bạn đến chơi là mỗi lần Vương có dịp chuyện trò tâm sự những buồn vui
trong cuộc sống. Bài thơ “Đồng Mai Xuyên(1) tự thoại cảm tác” (Cùng Mai Xuyên nói
chuyện, cảm xúc làm thơ) sau đây là một minh chứng :
Dữ quân đồng thị sầu trung khách,
Tiễn
chúc tương khan vô hạn tình.
Kỷ
xứ phong liêm xao thiết mã(2),
Ba
tiêu song ngoại vũ thinh thinh (thanh thanh)
(Khách sầu, tôi cũng giống như anh,
Thắp nến nhìn nhau, chan chứa tình.
Bao chỗ gió rèm rung ngựa sắt,
Ngoài hiên tàu chuối tiếng mưa nhanh).
Trong cảnh trời đêm, bên ngoài, mưa rơi thánh thót
trên tàu chuối, gió thổi xao động bức rèm có ngựa sắt đong đưa tạo nên những âm
thanh du dương réo rắt, Vương cùng bạn tự nhận mình là những khách sầu (sầu
trung khách) đốt đuốc chuyện trò tâm sự sáng đêm. Nội tâm, ngoại cảnh tương
tác, cuộc chuyện trò giữa hai người càng thêm thân thiết. Điều đó đã nói lên
tình bạn thắm thiết cũng như tâm hồn nghệ sĩ của ông hoàng Mười.
Nhưng cuộc đời biến chuyển, con người đổi dời muôn
vạn nẻo. Có tụ thì có tán, có hội ngộ thì có biệt ly nhưng hội ngộ, gần nhau
thì ít ; biệt ly, xa cách thì nhiều. Trong cuộc đời mình, Vương đã nhiều
lần chịu cảnh biệt ly, xa cách bè bạn. Thơ tống biệt, tiễn đưa của Vương có
nhiều bài thể hiện một tình bạn vô cùng tha thiết. Nhân tiễn một người bạn trở
về Bắc, Vương bịn rịn, luyến lưu khi cùng bạn nâng chén rượu giã từ. Vương như
muốn nhờ chén rượu để giữ chân bạn ở lại với mình lâu hơn chút nữa trong khi
tiếng chim tử quy khắc khoải bên tai và khúc ly ca đang réo rắt như giục giã
bạn lên đường. Cảnh buồn càng làm cho lòng người thêm cô đơn, u sầu, héo hắt :
Tống quân Bắc khứ độc di du (do)
Nang thác tiêu nhiên xuất Triệu Châu(1)
Tam bôi biệt tửu cố tình du
Bích đào xuân mộ nham hoa lạc
Thanh khuyết(2) nhật tà giang thủy lưu
(Tiễn anh ra Bắc dạ cô sầu,
Vô hạn lòng buồn, nhớ Triệu Châu.
Dứt áo nao nao ly rượu tiễn,
Chia tay não nuột khúc tình sâu.
Đào xanh xuân muộn hoa rơi hết,
Lá khuyết ngày tàn nước chảy mau ...).
(Tiễn người ra Bắc)
Một lần khác, tiễn một người bạn thân vô Nam làm
nhiệm vụ, trước lúc lên đường, Vương bày tiệc rượu chia tay :
Mãn đường ty trúc xướng đồng đề,
Thu liễu môn tiền bạch mã tê.
Bất túy cố nhân kim dạ tửu,
Minh triêu hành xứ loạn viên đề.
(Tống nhân Nam hành)
(Đàn ca rộn rã khắp nhà ngang,
Ngựa hí ngoài sân, cây liễu vàng.
Này bạn đêm nay đừng quá chén,
Sáng mai còn ruổi dặm xa đường).
(Tiễn
người vô Nam)
Bài thơ ghi lại tình cảm của Vương trong
buổi tiệc tiễn đưa. Có đàn ca, hát xướng để giúp vui cho buổi tiệc. Nhưng hình
như lòng người đưa tiễn đang ôm nỗi buồn chia biệt. Hình ảnh “thu liễu môn
tiền”, âm thanh “bạch mã tê” mang âm hưởng ước lệ của thơ cổ điển phương đông,
gợi lên biết bao buồn thương, lưu luyến trong lòng người đưa tiễn và càng làm
cho không khí buổi tiễn đưa nhuốm vẻ ngậm ngùi hiu hắt. Mặc dù mượn ruợu tiễn
đưa, có buồn thương thật nhưng Vương vẫn không quên nhắc bạn đừng nên quá chén
vì sáng mai bạn còn phải rong ruổi đường xa đến chốn quan san để thi hành nhiệm
vụ. Bề ngoài, buổi tiệc có vẻ vui nhộn nhưng tự trong sâu thẳm của tâm hồn là
một nỗi buồn vô hạn. Bài thơ, với âm thanh, hình ảnh mang tính ước lệ, tượng
trưng tạo nên một bức tranh đưa tiễn buồn mà đẹp, đẹp một vẻ đẹp cổ điển mang
phong vị Đường thi. Bài thơ cũng nói lên tâm hồn đa sầu đa cảm của nhà thơ chủ
soái Tùng Vân thi xã.
Thơ tống biệt của Vương khá nhiều và rất phong
phú. Với tâm hồn dễ xúc động, với tình cảm sâu nặng, gắn bó với bạn bè, cứ mỗi
lần tiễn đưa là Vương đều có thơ đưa tiễn. Một người bạn phải tòng quân ra nơi
chiến trận biên phòng mù bụi ... lòng
ngậm ngùi thương cảm, lúc tiễn đưa, Vương đã làm thơ trao gửi bạn :
Sa mạc chinh trần khan nhật viễn,
Sơn thành
trường dạ thính viên đa.
Cố nhân cao xướng Dương quan khúc(1),
Tráng sĩ như văn Dịch thủy ca(2).
Bất hữu đại danh
thùy vũ trụ,
Không linh tuế nguyệt dị ta đà.
(Tống
nhân tòng quân)
(...
Chiến địa bụi mù ngày thấy mịt,
Sơn thành vượn lũ tối kêu
hoài.
Dương quan khúc cũ nao lòng bạn,
Dịch thủy bài xưa não dạ ai.
Nếu chẳng lưu danh truyền vũ trụ,
Tháng năm lần lữa phí hoài thay).
(Tiễn người đi lính)
Sau khi “tiễn đưa một chén quan hà”, nơi ly đình,
nghĩ đến cảnh bạn sẽ phải trải qua : ngày, gió bụi sa trường tung mù trời đất;
đêm, nơi đồn lũy giữa núi rừng hoang vắng, nghe tiếng vượn hú suốt đêm, Vương
vừa cảm thương bạn vừa động viên bạn bằng hai hình ảnh giàu chất hàm ẩn qua hai
điển cố : khúc hát Dương quan của Vương Duy đời Đường và khúc ca của Kinh Kha
trên sông Dịch trước lúc sang Tần. Hình ảnh thơ gợi lên biết bao bi tráng cho
cảnh tiễn đưa!
Một người bạn khác sau khi đậu Tiến sĩ, xin nghỉ
phép về quê, Vương cũng tiễn đưa bằng những dòng thơ đầy lưu luyến :
Hoa phác Lương viên(1) tác tuyết phi,
Thiên oanh nhiễu thụ cố y y.
Liễu điều nhiễm tận đông phong lục,
Trực tống tình nhân đắc ý qui.
(Tống Nguyễn Vũ, Thiện Bích nhân, thành tiến sĩ hậu
thỉnh giả hoàn hương)
(Hoa mộc vườn Lương tợ tuyết rơi,
Oanh
về cố ý đậu cây ngơi.
Gió
xuân làm liễu tươi màu biếc,
Đưa
tiễn tình nhân đắc ý hồi).
(Tiễn
Nguyễn Vũ, người Thiện Bích, sau khi đậu tiến sĩ, xin nghỉ phép về quê)
Tác giả mượn những hình ảnh hoa rụng, oanh hót,
liễu xanh tha thướt để gợi tả tâm trạng buồn nhớ lúc chia xa. Cảnh thật hợp với
tình. Tác giả còn gọi bạn bằng từ “tình nhân” càng cho ta thấy tình của Vương
đối với bạn tha thiết biết chừng nào!
Vốn là một con người giàu tình cảm lại hào hiệp,
hiếu khách, nhất là tao nhân mặc khách, bất luận là ai, đã một lần gặp gỡ, qua
hàn huyên trở nên thất thiết, Vương đều dành cho họ những tình cảm đẹp đẽ. Một
lần tiễn bạn về Hà Nội, Vương đã không quên gởi lời thăm hỏi vị sư chùa Bắc
Lâm, một danh tăng được quen biết trong chuyến Bắc hành thuở nọ :
Tống quân bằng ký ngữ,
Nhất vấn Bắc Lâm thiền.
Hoàn Kiếm hồ trung nguyệt,
Niên lai kỷ hử viên.
(Tống khách vãng Hà Nội)
(Tiễn anh xin gửi lời nhờ,
Hỏi giùm sư cụ ở chùa Bắc Lâm.
Trăng hồ Hoàn Kiếm đêm
rằm,
Năm qua tròn được bao lăm
hở người?)
(Tiễn khách đi Hà Nội)
Bài thơ ngắn gọn (nguyên văn theo thể ngũ ngôn tứ
tuyệt) mà nói lên được nhiều tình ý, vừa thể hiện cái nhìn đầy chất thơ của tác
giả khi hoài niệm về cảnh hồ của đất kinh đô cũ vừa gợi tả được mối thân tình
nhẹ nhàng, kín đáo của Vương đối với vị sư chùa Bắc Lâm.
Tình cảm buồn thương nhung nhớ đối với bạn cứ da
diết trong lòng Vương sau mỗi lần tiễn biệt. Bài thơ “Tống biệt” (Tiễn biệt) – bài thơ làm theo điệu «Quan san nguyệt»
sau đây sẽ nói lên tình nhớ thương da diết ấy :
Quan sơn thu dạ nguyệt minh thì,
Ảnh nhập ly diên động khách bi.
Minh nhật ngũ canh tàn mộng giác,
Bình phân lưỡng địa chiếu tương ti (tư).
(Tống biệt - phú đắc Quan sơn nguyệt ([3]))
(Trăng sáng đêm thu nơi ải cao,
Bóng soi tiệc tiễn, khách vương sầu.
Hôm sau mộng tỉnh, canh năm hết
Hai chốn chia đều nỗi nhớ nhau).
Đưa tiễn bạn vào một đêm thu lúc trăng sáng nơi
quan ải, ánh trăng chiếu vào bữa tiệc tiễn đưa khiến khách động lòng sầu muộn.
Rồi đến lúc canh năm trời rạng sáng, tỉnh giấc mộng thì đất kia đã chia đôi,
mỗi người một ngả nhưng lòng nhớ nhau vẫn một mà soi chiếu kẻ ở người đi. Câu
cuối bài thơ chan chứa niềm thương nỗi nhớ không kém gì Kiều lúc tiễn đưa người
tình Thúc Sinh ra đi trong truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du :
Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm
trường.
Cảm động biết bao và cũng đáng quí biết bao tình
bạn của nhà thơ hoàng tộc Tùng Thiện Vương Miên Thẩm!
Cũng như thế, trên sông tiễn biệt một người bạn ra
đi, lòng Vương lại dậy lên biết bao niềm luyến thương buồn nhớ :
...
Nhân dữ qui vân viễn
Tình như thu thủy đa
Tịch dương minh cổ đạo
Lạc diệp mãn bình pha
Giải ý lân ngư phủ
Xanh châu bất nhẫn ca.
(Giang thượng tống biệt)
(... Người cùng mây
trắng về xa,
Tình ta lai láng như là nước thu.
Bóng
chiều sáng rõ đường xưa,
Con
dốc phẳng lá vàng khô rụng đầy
Thương
ngư phủ hiểu lòng ai
Chống thuyền không nỡ cất lời
hát ca.)
(Trên sông tiễn biệt)
Với nghệ thuật cổ điển thường thấy, khi trực tiếp
bộc lộ nỗi niềm tâm sự lúc chia tay – Tình ta lai láng như nước mùa thu ...,
khi gián tiếp thông qua ngoại cảnh để diễn tả nổi buồn thương của mình : đám
mây trắng bay về xa, bóng chiều chiếu sáng con đường cũ, lá rụng đầy con đường
dốc... Nhiều hình ảnh thơ hàm súc gợi lên nỗi niềm ly biệt làm xúc động
lòng người đọc trước tình cảm của người đưa tiễn.
Lần khác, một người bạn mà Vương có nhiều cảm tình
nồng hậu là Nguyễn Lê Quang nghỉ hưu về Hà Nội, Vương đã làm thơ tống tiễn với
những lời lẽ rất thiết tha :
Lạc
nhật chiếu suy thảo,
Tống
quân đa khổ ngâm.
Cùng
sầu quy cố lý,
Thùy
lão phụ sơ tâm.
Dịch
lộ hàn sơn sấu,
Quan
môn thu lộ thâm.
Trung
đồ phùng cửu nhật,
Tương vọng bích vân sầm.
(Tống Nguyễn Lê Quang(1) quy Hà Nội)
(Nắng chiều chiếu cỏ úa
Tiễn
bạn khổ ngâm nga.
Cố
lý, về sầu muộn,
Sơ
tâm, phụ lúc già.
Đường trường băng
núi lạnh,
Cửa ải phủ sương
mờ.
Gặp
phải ngày trùng cửu,
Nhớ
nhau nhìn núi xa).
(Tiễn
Nguyễn Lê Quang về Hà Nội)
Chiều xuống, ánh tà dương chiếu lên ngọn cỏ héo
úa. Tiễn bạn, đau khổ ngâm mấy vần thơ. Bạn về quê cũ, đường trạm nơi núi lạnh
vắng teo, sương thu che mờ lối quan san. Bạn đi rồi lòng Vương ngậm ngùi sầu
nhớ và chỉ biết “tương vọng bích vân sầm”.
Bài thơ gợi chúng ta liên tưởng đến Lý Bạch với Tống hữu nhân (Tiễn đưa
bạn), cũng hình thức ngũ ngôn bát cú :
Thanh sơn hoành bắc quách,
Bạch thủy nhiễu đông thành.
Thử địa nhất vi biệt,
Cô bồng vạn lí chinh.
Phù vân du tử ý,
Lạc nhật cố nhân tình.
Huy thủ tự tư khứ,
Tiêu tiêu ban mã minh.
(Núi biếc ngang thành bắc,
Sông trong lượn lũy đông.
Một lần nơi tiễn biệt,
Muôn dặm cánh cô bồng.
Bóng xế - tình bè bạn,
Mây trôi - ý ruổi dong.
Vẫy tay từ đấy biệt,
Tiếng ngựa xót xa lòng)(1).
Không những giống thơ xưa, thơ Tùng Thiện Vương
còn giống cả thơ nay. Quả vậy, nhà thơ hoàng tộc Tùng Thiện Vương cũng “sướt
mướt” thấm đẫm chất lãng mạn không thua kém gì Hàn Mặc Tử, một nhà thơ của
phong trào thơ mới những năm 30 thế kỷ XX :
Họ đã
đi rồi, khôn níu lại
Lòng
thương chưa đã, mến chưa bưa
Người
đi một nửa hồn tôi mất
Một nửa
hồn tôi bỗng dại khờ.
(Những giọt
lệ)
Thế là “họ đã đi rồi, khôn níu lại”. Hội ngộ vui
bao nhiêu thì tiễn biệt lại buồn bấy nhiêu. Có cuộc chia ly nào mà lại không buồn?
Khúc từ ca chảy lệ trong lòng kẻ ở người đi và rồi là bắt đầu nỗi nhớ nhung. “Biệt ly nhớ nhung từ đây ...”! Nỗi nhớ
nhung ấy mỗi khi có ngoại cảnh xúc tác nó lại dậy lên cồn cào, xao xuyến trong
lòng Vương. Có khi đứng một mình trong vườn nhìn hoa rơi, nhìn bóng cây mát
lạnh, nhìn những hàng dương liễu đứng lặng yên, nghe tiếng chim kêu lẻ loi...
chạnh lòng Vương lại nhớ tới bạn hiền :
Hoa phi gíác biệt sầu,
Ỷ
trượng tứ du du.
Thụ
ảnh lương như thủy,
Vân
dung bạc tợ thu.
Thùy
dương bán mẫu tĩnh,
Đề
điểu nhất thanh u.
Cố
nhân tại hành dịch,
Kim
dạ kỷ hồi đầu.
(Viên cư hữu hoài)
(Hoa rơi sầu cách biệt,
Chống
gậy nghĩ đâu đâu
Bóng
thụ mát như nước,
Dáng
vân mỏng tựa thu.
Thùy dương nửa mẫu lặng,
Chim
hót một âm sầu.
Bạn cũ bận công cán,
Đêm nay
khó ngoái đầu).
(Trong vườn tưởng nhớ)
Lòng đang buồn nhớ bạn cho nên nhìn cảnh hoa rơi,
bóng cây mát, mây thu mỏng, liễu thu im..., tất cả đều như hiu hắt, u buồn.
Thật đúng như Nguyễn Du đã viết trong Truyện Kiều:
Cảnh
nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!
Một buổi chiều, trong một chuyến đi chơi bằng
thuyền, phải trú mưa trên sông, hồn thơ lai láng mà vắng bạn, Vương đã não nề
nghĩ đến bạn trong những vần thơ đậm nét sầu :
Lạc nhật thiên nhai vạn hác u,
Sơn tiền kim dạ hữu biên chu.
Thi tình hợp tại hàn giang thượng,
Lô vĩ tiêu tiêu mộ vũ sầu.
(Vũ
túc giang thượng hữu hoài nhị tam tử)
(Non, lũng tối sầm lúc tịch dương,
Đêm nay trước núi chiếc thuyền buông.
Tình thơ lai láng trên sông lạnh,
Lau sậy vi vu mưa tối buồn).
(Trú mưa trên sông
nhớ hai ba người bạn)
Cũng vậy, một đêm, đi chơi thuyền trên sông giữa
mùa thu, trong cảnh mây nước mù mờ, sóng xao bãi vắng, tiếng chuông chùa ngân
vọng, sau cơn mưa đêm, Vương lại nao nao
nhớ đến bạn cũ :
… Bán khách đào thanh hô mộng khởi,
Nhất
giang thu sắc trục sầu lai.
Vũ
dư minh nguyệt hữu thời xuất,
Sương
lý hoàng hoa hà xứ khai ?
Viễn
đạo cố nhân thùy vấn tấn,
Đăng
tiền tao thủ trọng đê hồi.
(Chu
dạ hữu hoài)
(…Tiếng sóng nửa vời khơi mộng tưởng,
Sông thu một dải gợi sầu thương
Mưa tàn trăng sáng nơi đầu núi,
Hoa nở xứ nào ở phía sương?
Bạn cũ đường xa, ai kẻ hỏi
Trước đèn tư lự nỗi buồn vương.)
(Chơi thuyền
ban đêm hoài cảm)
Một tối cuối thu, đậu thuyền trên sông Hương, ngồi
một mình trước cảnh nước lụt đục ngầu của dòng sông, lòng Vương lại bâng khuâng
nhớ đến bạn cũ phía trời xa ... Cảnh ấy lòng này, trông vời về quê bạn, lòng
không nén được nỗi buồn nhớ. Trong cô đơn, Vương mượn chén rượu để khuây niềm
nhớ :
… Cùng thu nhất tôn tửu,
Cô khách thử thời tâm.
Chi tử quan sơn cách,
Song Ngư(1)
nhật dạ trầm.
Na kham vọng quân xứ,
Thiên lý mộ vân thâm.
(Dạ bạc hoài hữu văn kỳ bệnh sổ nguyệt
hỷ)
(… Cuối thu chén rượu lạt,
Khách
lẻ lòng buồn thiu.
Thân hữu cách xa quá
Song ngư bóng dáng tiêu
Trông vời về xứ bạn,
Nghìn dặm tím mây chiều.)
(Đêm đậu thuyền nhớ bạn, nghe bạn đau
đã vài tháng)
Nặng tình với bạn như thế nên, có những đêm không
ngủ được, Vương thức dậy một mình cất bước tản bộ dưới trăng từ khuya đến sáng
mà bồi hồi tưởng nhớ đến bạn đang ở nơi phương trời xa :
... Hữu hoài bất thành mị,
Khởi
đạp không lâm ảnh.
Dã
tự cảnh sương chung,
Giang thôn quá yên đĩnh.
Cố nhân tại thiên mạt,
Bôi tửu nan cọng bỉnh.
Bồi hồi toại chí đán,
Phi duy luyến thanh cảnh.
(Giang thôn dạ khởi bộ nguyệt)
(... Tưởng nhớ ngủ không yên,
Trở dậy dạo rừng vắng.
Báo thức chuông chùa khua,
Thuyền khói qua sông trắng.
Bạn cũ cuối trời xa,
Chén rượu khó cùng nhắm.
Bồi hồi tới sớm mai,
Đâu chỉ ham nhìn ngắm) (*10).
(Ở
xóm sông ban đêm thức dậy tản bộ dưới trăng)
Năm 1842, khi tạm biệt Kinh kỳ làm nhiệm vụ hộ giá
vua Thiệu Trị ra Bắc làm lễ bang giao, ở đất Bắc xa xôi, nhân tiễn một người
bạn trở về kinh thành, Vương đã không quên mượn lời gửi thăm các bạn cũ đang
chờ đợi mình ở nơi xa để bày tỏ tâm tình của mình với các bạn :
Xuân
thảo nhung nhung dương liễu thùy,
Tịch
dương tống khách quá tiền bi.
Trường
An thân hữu như tương vấn(1),
Mạc
thuyết sầu nhan tự khứ thì.
(Tống khách hồi Trường An(2) kiêm ký chư cố nhân)
(Mơn mởn cỏ xuân, liễu rủ buồn,
Chiều tàn tiễn khách trước triền non.
Trường An bạn hữu như thăm hỏi,
Chớ nói buồn thiu vẻ mặt còn) .
(Tiễn
khách trở lại Trường An cùng gởi các bạn cũ)
Cảnh vật ở đất Bắc, liễu xanh rủ bóng, cỏ xuân
tươi nõn nà nhưng trước cảnh ấy lòng
người nơi đất khách thêm sầu não, nhớ nhung. Tác giả nhắc bạn khi đến Kinh đô
nếu ai có hỏi thăm mình thì xin chớ nói vẻ mặt của mình vẫn còn sầu bi như lúc
ra đi. Lòng sầu nhưng lại không muốn cho các bạn biết mình sầu. Nhớ bạn và
không muốn bạn lo cho mình. Tình cảm thật sâu sắc. Ý thơ thật hàm súc và cũng
thật khéo léo trong việc bộc lộ tâm tình của mình đối với bạn.
Tình khứ lai tri ngộ của Vương đối với các bạn
thật là nồng hậu, bất tuyệt. Bạn bè của Vương, Trung Nam Bắc đều có. Ngoài Bắc
có Chu Thần, Phương Đình ... Phương Đình Nguyễn Văn Siêu – một danh sĩ tiếng
tăm lừng lẫy một thời, cùng với Chu Thần Cao Bá Quát được người đời xưng tụng
là “thần Siêu, thánh Quát” – quê ở đất bắc mà Vương thì ở đất kinh kỳ, người
trung kẻ bắc lại thêm công vụ nên mặc dù tình bạn thâm giao nhưng hai người
thường ít khi gặp gỡ nhau. Tuy xa xôi cách trở nhưng lòng Vương vẫn luôn tưởng
nhớ đến bạn bằng một tình cảm vô cùng tha thiết :
Biệt hậu sơn xuyên vô hạn lộ,
Khách
trung Yên Triệu hữu bi ca.
Viên
lâm minh nguyệt khai tôn thiểu,
Dịch
quán cao thu thính nhạn đa.
Thử
tịch tửu biên ưng mộng ngã,
Bán
lâu phong tuyết đổ Hoàng hà.
(Hoài Nguyễn Phương Đình(1) học sĩ)
Xa
xôi Yên Triệu khúc buồn vương.
Vườn
cây trăng sáng hơi men nhạt,
Quán trọ thu tàn tiếng nhạn vang.
Bên
rượu chiều nay mơ mộng thấy,
Nửa
lầu gió tuyết ngắm Hoàng giang) .
(Nhớ
học sĩ Phương Đình)
Riêng với Cao Bá Quát,
một người bạn mà từ lâu Vương đã mến vì tài, cảm vì tình, khi đọc được bài «Đằng
tiên ca» (Bài ca chiếc roi song)([4]), bài thơ
làm trong chốn ngục tù của bạn, không nén được cảm xúc, Vương đã đề vào sau bài
ca bài thơ ngũ ngôn như sau :
Phong vật cao thu đạm
Càn khôn dạ vũ trì
Dao liên hệ ngạn giả
Giải tục vịnh thiền thi(3)
Điệu tỷ thanh sương khổ
Tình kiêm lạc mộc bi
Bách tùng hữu bổn tính
Vô phụ tuế hàn ty (tư)
(Cảnh vật tàn thu nhạt,
Đất trời rả
rích mưa.
Thương thân
người mắc tội,
Thoát tục
khách ngâm thơ.
Điệu khổ tày
sương hạ,
Tình sầu nhập
nhánh khô.
Bách tùng bản
tính thế,
Đông giá vẫn
trơ trơ.)
Bài thơ không những bộc
lộ lòng thương xót cho bạn mắc phải tội một cách đáng tiếc mà còn bày tỏ niềm
cảm phục trước tính khí cứng cỏi, không nao núng tinh thần của bạn trước cảnh
ngục tù.
Cùng với những người bạn ở ngoài Bắc, Vương còn có
những người bạn tâm giao ở tận miền Nam xa xôi.
Một đêm thu
trăng sáng lại gợi nhắc Vương nhớ đến Hy Phần Nguyễn Thông, một người bạn đã
tình nguyện tòng quân vào Gia Định làm việc dưới quyền của Thống đốc Tôn Thất
Hiệp để chống giặc. Nghĩ đến cảnh đường xa diệu vợi, hình dung ra biết bao khó
khăn gian khổ bạn phải trải qua trên đường đi, cảm kích trước mục đích chuyến
về Nam của bạn, trong nỗi nhớ thương xa cách, Vương đã viết lên những dòng thơ
nhớ bạn với những tình cảm thật đậm đà da diết :
Thiên lý nam qui
khách,
Kinh tuần vị
để gia.
Lâm phong nhai
khiêu hổ,
Thảo lộ đặng
hoành xà
Thu sĩ tâm
không tráng,
Biên sầu mấn
dục hoa.
Khả kham kim
dạ nguyệt,
Tương ức tại
thiên nha (nhai).
(Thu dạ hoài Hy
Phần)
(Khách trẩy Nam ngàn dặm,
Mười
ngày chửa tới nhà.
Gió
rừng cọp nhảy múa,
Đường
cỏ, rắn nằm trơ.
Già
lão lòng không mạnh,
Tình
sầu tóc trắng pha.
Trăng
đêm nay, cám cảnh,
Nhớ
bạn hướng trời xa).
(Đêm thu nhớ Hy Phần)
Và một lần,
khi nghe Mai Xuyên từ phương Nam nắng gió đến kinh thành trong những ngày đông
giá, Vương đã gửi thư ân cần thăm hỏi :
Tương tư kỷ độ độc đê hồi,
Văn đạo cố nhân đa khả ai.
Liệu đắc hàn nghiêm sương tuyết lý,
Mai Xuyên kim nhật sấu ư mai.
(Văn Mai Xuyên(1) lai
Kinh hữu ký)
(Nhớ nhau mấy độ dạ bồi hồi,
Nghe
bạn có nhiều chuyện chẳng vui.
Rét
buốt thế này sao liệu được?
Mai
Xuyên nay hẳn ốm hơn mai).
(Nghe Mai Xuyên đến kinh gửi
lời thăm)
Bài thơ nói lên biết bao tình cảm của Vương đối với bạn! Vương vừa gửi thư bày tỏ sự nhớ nhung của mình vừa muốn chia sẻ nỗi buồn với bạn lại vừa tỏ ra lo lắng cho bạn sẽ không chịu nổi cái lạnh thấu xương của mùa đông ở đất kinh đô Phú Xuân này vì không lường trước nổi.
Bài thơ nói lên biết bao tình cảm của Vương đối với bạn! Vương vừa gửi thư bày tỏ sự nhớ nhung của mình vừa muốn chia sẻ nỗi buồn với bạn lại vừa tỏ ra lo lắng cho bạn sẽ không chịu nổi cái lạnh thấu xương của mùa đông ở đất kinh đô Phú Xuân này vì không lường trước nổi.
Tương tự như thế, cũng trong mùa đông, khi nghĩ
đến người bạn già – Nguyễn Tuan Thúc – đi sứ Trung Hoa, lần tay tính ngày tháng
từ lúc bạn ra đi đến nay ắt hẳn đã gần đến Bắc Kinh. Nghĩ đến cảnh bạn phải
chịu cái lạnh cắt da của đất Yên kinh mà lòng buồn bã xót thương cho bạn :
Lão thử quan(2) tiền bát nguyệt thu,
Xa như lưu thuỷ khứ
du du.
Kê
trình thử nhật kham trù trướng,
Phong tuyết man thiên quá Dịch châu(1).
(Tháng tám mùa thu trước ải Dơi,
Xe
như nước chảy tới xa xôi.
Đường
đi nay tính, lòng ngao ngán,
Châu
Dịch người qua tuyết ngập trời!)
(Tháng chạp, nhớ ông Hồng lô Nguyễn Tuân Thúc nhận
nhiệm vụ đi sứ Yên Kinh)
Thương bạn, lo cho cả đường đi nước bước của bạn ở
chốn Yên kinh xa xôi. Một tình bạn chân thành và đẹp đẽ biết bao của nhà thơ
hoàng tộc Miên Thẩm!
Thấm nhuần tư tưởng Khổng Mạnh, Tùng Thiện
Vương ý thức một cách sâu sắc rằng bên cạnh tam cương, ngũ thường còn có ngũ
luân. Ngũ luân gồm: Quân thần hữu nghĩa (vua tôi có nghĩa với nhau), phụ tử hữu
thân (cha con thân yêu nhau), phu phụ hữu biệt (vợ chồng có sự cách biệt để
kính nể nhau), trưởng ấu hữu tự (anh em lớn nhỏ có thứ tự), bằng hữu hữu tín (bạn bè có sự tin cậy nhau). Như vậy,
tình bạn là một trong những tình chính của ngũ luân sau tình vua tôi, tình cha
con, tình chồng vợ, tình anh em. bởi lẽ “dĩ văn hội hữu, dĩ hữu trị nhân” (dùng
văn để họp bạn, lấy bạn để giúp cho điều nhân phát triển). Là một nhà
nho chân chính, Tùng Thiện Vương đã rất xem trọng bạn bè nhất là những người
bạn tri kỷ, đồng thanh đồng khí. Thơ viết về bạn chiếm một số lượng không nhỏ trong Thương
Sơn thi tập. Và qua những điều đã phân tích, quả Tùng Thiện vương đã thể
hiện một tình cảm thật nồng hậu, thiết tha đối với bạn bè. Từ đó ta càng thấy
rõ Tùng Thiện Vương là một con người hiếu khách, nặng tình, nặng nghĩa với bạn
biết chừng nào! Tấm lòng, tình cảm đối với bạn (cũng như tài năng đức độ) của
Vương đã để lại trong lòng bạn bè những ấn tượng đẹp đẽ, sâu sắc như lời của
một trong những người bạn của Vương – Trần Thiện Chánh(3) – đã viết
tặng trong bài «Khốc Thương Sơn
Công» :
Hiếu khách Mạnh Thường chung báo quốc,
Công thi Tử
Kiến tuyệt ưu minh ...
(Hiếu khách
còn ôm lòng báo quốc
Hay thơ không mỏi dạ lo đời ...)
----------------------------------
(1) Tên một châu thuộc
tỉnh Trực Lê, không xa Yên Kinh (Bắc Kinh bây giờ) (Dẫn theo Lương An – SĐD,
trang 160)
(2) Tuân Thúc là tên tự
của Nguyễn Tư Giản (1823 – 1890). Ông người làng Du Lâm, huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc
Ninh, thuở nhỏ nổi tiếng thông minh, thi Hội đỗ Hoàng giáp, được bổ chức Hàn
lâm tu soạn. Nhiều lần được thăng chức rồi bị giáng chức. Năm 1867 được thăng
Hồng lô tự khanh và sung vào phái bộ đi sứ sang Yên kinh, nhà Thanh. Trở về
nước ông cùng nhóm Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Đức, Bùi Viện dâng sớ đề nghị một
chương trình canh tân tự cường nhưng không được nghe theo. Năm 1880, được thăng
Bộ Hộ Thị lang. Năm sau, 1881, ông từ quan về làng. Ông mất tại quê nhà sau gần
mười năm sống ẩn dật. (Theo Từ điển Văn học tập II – NXB KHXH Hà Nội – 1984)
(3) Hiệu là Tử Mẫn, người Gia Định,
đỗ cử nhân, làm quan đến chức Biện lý Bộ Hộ, thành viên của Mặc Vân thi xã do
Tùng Thiện Vương làm chủ soái.
(1)
Bạch Hổ : Tên cây cầu bắc qua sông Hộ Thành phía tây, chỗ cửa thông ra sông
Hương. Đầu thế kỉ XX, khi Pháp làm cầu xe lửa bắc qua sông Hương ở ngay gần đó
và cho mang tên Bạch Hổ thì cầu này được đổi tên thành cầu Kim Long. Cầu này nay đã được làm mới
bằng bê tông.
(2) Kim
Long : Tên một làng ở phía tây kinh thành Thuận Hóa, bên tả ngạn sông Hương,
vốn là đất xã Hà Khê, nơi trở thành phủ chính của chúa Nguyễn giai đoạn
1636-1687; về sau Hà Khê chia thành hai làng: Xuân Hòa và Kim Long. Kim Long
nay đổi thành phường Kim Long thuộc thành phố Huế.
(1) Mai Xuyên là biệt hiệu của
Phan Thanh Giản (1796 – 1867), người xã Bảo Thạnh, trấn Vĩnh Thanh (nay thuộc
Ba Tri, Bến Tre), sinh ngày 12 tháng Mười năm Bính Thìn (11-11-1796), tự Tĩnh
Bá, Đạm Như, hiệu Lương Khê, biệt hiệu Mai Xuyên, đỗ tiến sĩ năm 1826, làm quan
trải qua ba đời vua: Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức,làm đến chức Hiệp biện đại
học sĩ. Năm 1862 được cử làm chánh sứ điều đình và ký hoà ước với Pháp; năm
1863 đi sứ sang Pháp thương nghị chuộc lại ba tỉnh miền đông Nam kỳ, thất bại.
Sau khi về được sung chức Kinh lược sứ ba tỉnh miền tây Nam kỳ. Năm 1867, Pháp
tiến đến uy hiếp Vĩnh Long đế đánh chiếm luôn ba tỉnh miền tây. Cụ nộp thành
cho Pháp rồi uống thuốc độc tự vẫn ngày 4 tháng 7 năm Đinh Mão (3-8-1867). Tác
phẩm Lương Khê thi văn thảo.
(2) Sách
Vân song tư chí chép: Vua Nguyên đế (nhà Hán) làm mười thanh gươm Bạc ngọc long dùng sợi tơ treo trước mái
nhà. Đêm đến, gió thổi qua gươm va vào nhau nghe như tiếng nhạc. Người dân bắt chước, không dám dùng rồng mà
dùng ngựa thay vào cho nên từ đó bày ra ngựa sắt mà truyền lại đời sau. (theo Từ
Nguyên).
(1) Triệu Châu:
a) Tên châu
thuộc nước Liêu. Thành cổ nay ở Các Lâm, phía nam huyện Thân Thành.
b) Ngày nay
là tên huyện. Nguyên vua Mông Cổ là Quách Nhĩ La Tư đóng đô tại đó. Đến cuối
đời Thanh đổi thành huyện, thuộc tỉnh Hắc Long Giang. Sang thời Dân quốc lại
đổi thành huyện Hắc Long Giang, hạt Long Giang (theo Từ nguyên).
(2)
Thanh khuyết: Một thứ thực vật loại dương xỉ, rễ đâm dài xuống đất, mùa xuân ra
lá non, mộng cuốn lại sau thành lá dài, sắc đỏ, trong lá có phấn dùng trang
điểm được (Từ nguyên).
(3) Nùng Sơn: núi Nồng (Nùng) cũng
thường gợi là núi Long Đỗ (rốn rồng), nằm giữa tỉnh thành Hà Nội. Trước vua Lý
Thái Tổ đóng đô ở đó có dựng một chính điện ở trên núi. Triều Nguyễn đặt hành
cung vẫn theo tên cũ. Đến năm Thiệu Trị thứ ba, đổi là điện Long Sơn.. (Theo Đại
Nam nhất thống chí, tỉnh Hà Nội, Đông Minh Đặng Chu Kình dịch, Nha Văn hóa
Tổng bộ Văn hóa xã hội xuất bản, Sài Gòn, 1966, trang 30).
(1) Nguyên là bài thơ Tống Nguyên Nhị sứ An Tây (Tiễn Nguyên Nhị đi sứ
An Tây) hay là Vị Thành khúc (khúc ca
Vị Thành) của Vương Duy đời Đường như sau : 渭 城 朝 雨 挹 輕 塵
客 舍 青 青 柳 色 新
勸 君 更 盡 一 杯 酒
西 出 陽 關 無 故 人
Vị
Thành triêu vũ ấp khinh trần,
Khách
xả thanh thanh liễu sắc tân.
Khuyến
quân cánh tận nhất bôi tửu,
Tây
xuất Dương Quan vô cố nhân.
(Trời mai mưa ướt Vị thành
Xanh
xanh trước quán mấy cành liễu non.
Khuyên người hãy cạn chén son,
Dương
Quan tới đó không còn ai quen.)
(Ngô Tất
Tố dịch - Đường thi – Khai Trí xuất
bản, Saigon, 1961, trang 132)
Về sau Vị Thành khúc được thu nhặt vào nhạc phủ
gọi là khúc ca tống biệt, đến câu Dương Quan thì hát lại ba lần nên gọi là
Dương Quan tam điệp. (Theo Từ nguyên)
(2) Sử ký, Kinh Kha
truyện có chép: “Thái tử Đan nước Yên sai Kinh Kha đi giết Tần vương. Thái
tử cùng các tân khách đều mũ áo chỉnh tề tiễn Kinh Kha đến sông Dịch. Cao Tiệm
Ly thổi sáo, Kha theo đó mà ca, âm thanh trầm bổng réo rắt khiến kẻ sĩ theo
tiễn đưa phải ngậm ngùi rơi lệ. Kha tiến tới trước khách mà ca rằng: 風 蕭 蕭 兮 易 水 寒/ 壯 士 一 去 兮 不 復 還 Phong
tiêu tiêu hề Dịch thủy hàn/ Tráng sĩ nhất hề bất phục hoàn
(Gió hiu hiu chừ sông Dịch lạnh ghê/ Tráng sĩ một đi chừ không
trở về). Kha hát giọng rất khẳng khái khiến hết thảy kẻ sĩ đi theo phải trợn
mắt, tóc dựng ngược cả lên. Sau đó Kha lên xe mà đi. (theo Từ nguyên).
Đáng tiếc vụ hành thích không thành công, Kinh Kha bị giết.
(1) Vườn của Lương Hiếu Vương lập ra
để tiếp đãi khách quí. Thơ Lý Bạch có câu : Thập tải Lương viên khách.
Tùng Thiện Vương lấy theo tích ấy. Tư Mã Tương Như (tự Trường Khanh, giỏi chơi đàn và làm
phú, tác giả khúc Phượng cầu kỳ hoàng và
bài Tử hư phú) đến chơi, Vương mời ở
lại Lương viên cùng chư sinh giảng học, làm phú. Sau có bệnh, Tương Như cáo từ
về ở Mậu Lăng nên người ta gọi ông là “khách cũ vườn Lương” (Lương viên cựu tân
khách). Xưa Lương viên rất sầm uất, sau bỏ phế, đến đời Đường trở nên9* hoang
tàn, xơ xác.
(1) Không rõ tiểu sử, chỉ biết ông
làm quan đến chức thị độc, ngoài Tùng Thiện Vương ông có kết bạn với Lí Văn
Phức, sau về Hà Nội và mất thời Tự Đức.
(1) Lê Nguyễn Lưu, Thơ Đường tuyển dịch, tập I, Thuận
Hóa, Huế, 2007, tr. 316)
(1) Song Ngư : Tên hai hòn đảo
ngoài khơi cửa Hội nơi sông Lam đổ ra bể, thuộc tỉnh Nghệ An. Không rõ bạn đây
là ai, nhưng chắc quê quán ở Nghệ Nghệ An.
(1) Thơ Đường, bài Phù Dung lâu
tống Tân Tiệm của Vương Xương Linh: “洛 陽 親 友 如 相 問 / 一 片 冰 心 在 玉 壺 Lạc dương thân hữu như tương vấn / Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ.
(Lạc Dương bè bạn như thăm hỏi / Một tấm lòng băng đáy ngọc hồ - Lê Nguyễn Lưu dịch).
(2) Tên kinh đô nhà Tiền Hán. Đời
sau người ta gọi kinh đô nhà vua là Trường An. Trong bài này, Trường An chỉ Phú
Xuân, kinh đô triều Nguyễn.
(1) Tên hiệu của Nguyễn Văn Siêu
(1799 – 1872), quê ở làng Kim Lũ, huyện Thanh Trì, làm quan cho nhà Nguyễn, giữ
nhiều chức vụ cao: Chủ sự bộ Lễ, Thị giảng học sĩ, Học sĩ viện tập hiền v.v...
Không những là một nhà thơ nổi tiếng mà còn là nhà giáo dục, nhà nghiên cứu,
nhà văn tài ba. Tác phẩm: Phương Đình thi lọai, Phương Đình văn lọai,
Phương Đình tùy bút lục... (Từ điển văn học, tập II – NXB KHXH – Hà Nội,
1984 – trang 98) .
([4])
& (3)
Năm 1841, khi giữ chức hành tẩu Bộ Lễ, được cử làm sơ khảo ở trường Thừa
Thiên, do thương hại những thi sinh làm bài khá nhưng lại bị phạm huý, ông đã
dùng muội đèn sửa cho những quyển ấy cho khỏi bị đánh hỏng. Việc bại lộ, ông bị
buộc tội trảm nhưng vua Thiệu Trị giảm cho ông tử tội trảm xuống tội giảo giam
hậu (hoãn việc thi hành, giam lại đợi lệnh). Thời gian này ông vẫn làm thơ
trong đó có bài Đằng tiên ca, làm
theo loại thiền thi- một loại thơ
không hạn chế số câu dài bao nhiêu cũng được như ve ngâm không dứt.
(1) Mai Xuyên: Xin xem chú tích ở
trước .
(2) Tức cửa ải Con Dơi.
Tác giả chú : “Trong Giao châu thảo
của Trần Phu đời Nguyên, bài thơ Lão thử
quan có câu : Tòng thử định tri thân
bất tử/ Sinh tiền tiên quá Quỷ môn quan (Từ đây mới chắc mình không chết/ Lúc
sống lần đầu qua Quỷ môn)”. Nay tháng tám ông ra khỏi ải, người Thanh cho là
tháng chạp sẽ tới Yên kinh. Theo Đại Nam nhất thống chí tập IV cửa Quỷ môn ở xã
Chi Lăng, châu Ôn, tỉnh Lạng Sơn.
(1) Tên một châu thuộc
tỉnh Trực Lê, không xa Yên Kinh (Bắc Kinh bây giờ) (Dẫn theo Lương An – SĐD,
trang 160)
(2) Tuân Thúc là tên tự
của Nguyễn Tư Giản (1823 – 1890). Ông người làng Du Lâm, huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc
Ninh, thuở nhỏ nổi tiếng thông minh, thi Hội đỗ Hoàng giáp, được bổ chức Hàn
lâm tu soạn. Nhiều lần được thăng chức rồi bị giáng chức. Năm 1867 được thăng
Hồng lô tự khanh và sung vào phái bộ đi sứ sang Yên kinh, nhà Thanh. Trở về
nước ông cùng nhóm Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Đức, Bùi Viện dâng sớ đề nghị một
chương trình canh tân tự cường nhưng không được nghe theo. Năm 1880, được thăng
Bộ Hộ Thị lang. Năm sau, 1881, ông từ quan về làng. Ông mất tại quê nhà sau gần
mười năm sống ẩn dật. (Theo Từ điển Văn học tập II – NXB KHXH Hà Nội – 1984)
(3) Hiệu là Tử Mẫn, người Gia Định,
đỗ cử nhân, làm quan đến chức Biện lý Bộ Hộ, thành viên của Mặc Vân thi xã do
Tùng Thiện Vương làm chủ soái.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét