Thứ Ba, 18 tháng 5, 2010

VIỆT NAM HỒ SƠ HẬU CHIẾN ( KỲ 20)

VIỆT NAM
HỒ SƠ HẬU CHIẾN
1975 - 2010
NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ
Kỳ Hai Mươi

201 - Bùi Kiến Thành
“KẺ SĨ” THIÊN CHÚA GIÁO
Doanh nhân sinh 1932 tại miền Trung. Sống ở TP.HCM (2010).
Là giáo sinh đạo Thiên Chúa nên được đào tạo cho tương lai đưa đi du học Mỹ rất sớm từ cuối thập niên 40 nhưng sau đó bỏ ra ngoài sống đời bình thường. Nhưng cũng nhờ đó ngay trên đất Mỹ đã quen biết với cố Tổng thống Ngô Đình Diệm sau này.
Vì thế sau khi tốt nghiệp trở thành người VN đầu tiên được Mỹ đào tạo làm chuyên gia tài chính, năm 1954 được TT Diệm mời về làm trưởng phòng ở Ngân hàng Quốc gia rồi sau đó cử làm đại diện NHQG tại Mỹ lúc mới 24 tuổi, đại diện trẻ tuổi nhất trong hơn 60 đại diện các ngân hàng nước ngoài tại đây.
Đến năm 1963 TT Diệm bị đảo chánh sát hại nên cũng lãnh vạ lây bị phe đảo chánh bắt giam 15 tháng, tịch thu toàn bộ tài sản. Được thả ra mới tìm cách một mình trốn xuống tàu qua Pháp. Một năm sau mới tìm cách đưa vợ con đi đường bộ Campuchia qua Pháp. Từ đó phát huy tài năng trở thành chuyên gia tài chính hàng đầu thế giới, kinh doanh thành đạt từ Pháp sau chuyển qua Mỹ.
Nhưng vẫn nặng lòng với quê hương đất nước nên sau 75 đã tính chuyện về nước đóng góp song thời thế lúc đó chưa cho phép.
Mãi đến cuối thập niên 80 khi VN bắt đầu tiến hành Đổi mới mới có dịp tiếp cận đóng góp ý kiến về việc tái thiết xây dựng kinh tế đất nước. Năm 1991 quyết định từ bỏ tất cả – cả gia đình lẫn tài sản, sự nghịêp ở Mỹ – để trở về nước luôn nhận vai trò cố vấn cho VN về các vấn đề kinh tế, luật pháp quốc tế, đàm phán các vấn đề nhân đạo với chính phủ Mỹ… Chính là người đã đưa Tâp đoàn Bảo hiểm AIG nhà đầu tư Mỹ đầu tiên vào VN năm 1993 xây dựng khu công nghiệp Đình Vũ ở Hải Phòng, sau đó năm 2005 đã góp công sức lớn thực hiện dự án phát triển Vịnh Vân Phong ở Nha Trang.
Tất cả đều vì một mục đích chung với người cộng sản: “Không có chế độ nào được xây dựng trên một nền tảng dân chúng nghèo nàn và lạc hậu mà lại có thể đứng vững.” Và vì món nợ với quê hương: “Ơn sâu với đồng bào, dân tộc đã thôi thúc tôi. Về VN là hạnh phúc vô bờ của tôi và tôi cống hiến cho nước nhà như một lẽ hết sức tự nhiên của một con dân nước Việt, là đạo trung hiếu tiết nghĩa xưa nay, là bổn phận muôn đời của kẻ sĩ.”
Kỳ lạ sự kết hợp đạo đức Khổng giáo với mục tiêu Cộng sản trong một con người suýt mang áo linh mục đã vượt lên trên những ranh giới chính trị nhất thời: “Tôi không vận động, kêu gọi ai ủng hộ mình cả… Tôi hiểu không nên thuyết phục người ta làm chi. Chủ nghĩa, học thuyết, chính kiến phận ai nấy giữ thôi, không có cách nào nói được. Nên về phần mình tôi chỉ nghĩ dân giàu thì nước mới mạnh, ai nhất trí như vậy thì chúng ta cùng hợp tác…”

202 - Bùi Thị Hiền
VỢ LIỆT SĨ… TRINH NỮ
Nông dân sinh 1942 tại Hoà Bình. Sống ở Hòa Bình (2010).
Năm 1961 lúc 19 tuổi làm lễ cưới chồng theo phong tục Mường (cả hai đều dân tộc Mường, cùng họ Bùi) cho phép chú rể do mới vào bộ đội đang thời kỳ huấn luyện nên… vắng mặt (nhờ người cháu họ… đóng thế vai chú rể khi cử hành nghi lễ), đợi chú rể thật nghỉ phép về động phòng hoa chúc sau.
Nhưng sau đó chú rể bị bệnh rồi vừa khỏi bệnh lại được lệnh phải lên đường cấp tốc hành quân vào Quảng Bình chiến đấu chống Mỹ nên rốt cuộc đôi vợ chồng son vẫn chưa động phòng. Dù vậy cô dâu vẫn về nhà chồng lo phụng dưỡng mẹ già và nuôi 3 em chồng.
Thế rồi chưa đầy một năm sau thì được đồng đội viết thư về báo chồng đã hy sinh nhưng vẫn không tin, vẫn tiếp tục cáng đáng cả nhà chồng với nỗi mong ngóng thấp thỏm hy vọng chồng còn sống trở về. Mãi đến năm 1970 mới có thông báo chính thức chồng liệt sĩ.
Làm lễ truy điệu chồng xong lại tiếp tục làm nhiệm vụ con dâu và chị dâu vợ liệt sĩ “chưa động phòng” lo cho 3 em chồng nên người. Bà mẹ chồng thương quá mới tìm cách… gả chồng cho con dâu, năn nỉ con dâu chịu lấy chồng khác để đỡ thiệt thòi phận đời con gái có chồng mà cũng như không! Bà mẹ phải đứng ra nhận “Tội đâu mẹ chịu” mới thuyết phục được con dâu làm lại cuộc đời với một đồng đội cũ của chồng.
Lấy chồng mới nhưng vẫn không quên gia đình chồng cũ nên đôi vợ chồng mới vẫn ở lại với mẹ chồng cũ tiếp tục chăm sóc bà. Đứa con đầu lòng ra đời dưới mái ấm căn nhà chan hòa nghĩa tình mẹ già, vợ chồng, đồng đội cưu mang đó được đặt tên là Bùi Tình Nghĩa.

203 - Cam Thị Cúc
2 VỢ CHỒNG 1 CON MẮT
Thương binh sinh tại miền Nam. Sống ở Trà Vinh (2000).
Nữ du kích chiến đấu trên chiến trường Trà Cú (Trà Vinh) năm 1974 một mắt bị trúng đạn mù vĩnh viễn còn kéo theo liệt một tay và một chân, trong đầu còn ghim một mảnh đạn.
Sau 75 vào viện an dưỡng ở Trà Vinh gặp thương binh Lê Văn Lục mù 2 mắt do đánh trận ở Bến Tre bị trúng nguyên một trái đạn M79 vào mặt phá nát toàn bộ gương mặt biến thành dị dạn khủng khiếp khiến người khác không dám nhìn. Vì vậy khi có người lạ anh thường phải lấy miếng vải trắng… che ngang mặt!
Vậy mà 2 con người thương tích đầy mình đó gần như cùng chung số phận mất ánh sáng cuộc đời lại tìm đến với nhau với một đám cưới “không giống ai” năm 1979. Bởi như chị tâm sự: “Thực lòng mà nói chúng tôi nên vợ nên chồng chỉ vì một lý do muốn dựa vào nhau với tất cả những gì còn lại trên hình hài mình để ráng đi hết cuộc đời. Những số phận cùng hoàn cảnh bao giờ cũng dễ đồng cảm với nhau.”
Thế rồi với lương thương binh 2 người cộng lại được mỗi tháng 869.000 đồng đã dựng một ngôi nhà lá giữa đồng để chồng cuốc đất trồng rau kiếm sống, vợ cắt rau bó ra chợ bán được đồng nào quý đồng đó. Phân công làm vườn cho chồng cuốc đất và gánh nước, còn vợ thì tưới cây kiêm nhiệm vụ… dắt chồng đi nhờ còn được một con mắt. Chồng gánh 2 thùng nước thì vợ di trước cầm đầu đòn gánh dẫn đường, thế mà rất “ăn ý” đi qua đồi cát hay trên bờ đê gập ghềnh không hề một lần vấp ngã.
Nhưng chồng mù nên cuốc đất theo kiểu… cuốc mò được đâu hay đấy, có lúc cứ đứng một chỗ cuốc hoài mà không biết, muốn di chuyển về phía nào thì mường tượng đi theo hướng gió. Có lần ở nhà vừa giữ con nhỏ vừa cuốc đất làm nền nhà đã lỡ tay cuốc… nhầm vào cháu bé bò ra chơi lúc nào không biết, may mà kêu gào hàng xóm qua đưa đi bệnh viện cứu kịp thoát chết! Lại thương vợ sáng phải tưới cây cực nhọc nên đang đêm “trốn” ra vườn một mình gánh nước tưới cây thì có cây tưới tràn ra có cây chẳng được giọt nước nào!
Sinh được 3 con cả ba đều chết trước khi biết đi vì nhiễm CĐDC. Đến sinh lần cuối năm 1982 được cháu trai may mắn lớn lên vẫn khoẻ mạnh bình thường chính là cháu bị bố… cuốc nhầm!
Đến năm 1997 thì anh qua đời vì không còn chịu nổi bao thứ bệnh âm ỉ lâu nay. Còn lại một mình chị vẫn cố gắng lụi hụi trồng vườn táo 200 cây để nuôi con lớn khôn tuy càng ngày bệnh tật càng kéo đến từ mảnh đạn còn nằm trong đầu mà bác sĩ đã cảnh báo “có thể chết bất kỳ lúc nào”!
Tuy vậy không bao giờ đòi hỏi gì với Nhà nước, đến năm 1996 huyện mới xây cho một căn nhà tình nghĩa 12 triệu đồng.

204 - Cáp Thị Hồng
ĐỨA CON MANG TÊN MIỀN BẮC
Nông dân sinh tại Quảng Trị. Sống ở Quảng Trị (2007).
Năm 1972 là nữ du kích tham gia trận chiến 72 ngày đêm tử thủ Thành cổ Quảng Trị qua đó gặp được người thương là bộ đội quê miền Bắc, kết quả để lại mầm mống một đứa con mà trong những ngày máu lửa dữ dội cả 2 đều không biết. Thế rồi trong một trận đánh khốc liệt cả 2 mất tích nhau, tuy cuối cùng đều may mắn sống sót song người này cứ nghĩ người kia đã hy sinh!
Anh bộ đội bị trọng thương được đưa về miền Bắc cứu chữa,còn cô du kích vẫn ở lại bám trụ vùng đất lửa Hải Lăng. Sau đó đứa con trai ra đời kết tinh của một mối tình thời chiến ngắn ngủi mà ấn tượng mãi mãi không quên được đặt tên là Bắc để tưởng nhớ người cha sinh trưởng ở miền Bắc. Từ đó ở vậy một mình nuôi con không cha bất chấp ai đó nói ra nói vào.
Sau 75 từ hai miền cách xa diệu vợi cả 2 đều đi tìm… mộ của nhau vì không tin tức ngỡ đã chết rồi. Nhưng cả mộ cũng không tìm thấy, đương nhiên vì họ vẫn còn sống mà không biết! Riêng người cựu nữ du kích thỉnh thoảng vẫn đến Đài Tưởng niệm Thành cổ thắp hương tưởng nhớ người xưa.
Không ngờ như một “phép lạ” khó tin chính dưới chân Đài Tưởng niệm đó năm 2007 đã “mai mối” cho cuộc hội ngộ trùng phùng tình cờ giữa 2 người cựu chiến binh tóc đã bạc trắng nhân một chuyến về thăm chiến trường xưa sau 39 năm lạc mất nhau mà cứ tưởng đã là kẻ cõi âm người dương gian rồi. Khi đó “đứa con miền Bắc” năm nào giờ đã có thêm “đứa cháu miền Trung” cho ông nội lần đầu biết mặt.

205 - Đào Minh Vân
MINH OAN CHO CHA
Nữ doanh nhân sinh 1947 tại Thái Nguyên. Sống ở TP.HCM (2010).
Mới 6 tháng tuổi thì mẹ chết vì bệnh sốt rét ác tính trên chiến khu Việt Bắc rồi chỉ 3 ngày sau cha nhận nhiệm vụ “hoạt động đặc biệt” lên đường vào chiến trường miền Nam để lại đàn con thơ dại ở hậu phương miền Bắc.
Cha đi chiến đấu thỉnh thoảng mới có thư gửi về động viên con cái chăm lo học hành chứ không nói rõ mình đang làm gì, ở đâu. Thế rồi đến cuối năm 1969 nhận tin cha hy sinh và mãi đến năm 1971 mới nhận được lá thư cuối cùng cha gửi về. Tuy nhiên vẫn không biết được chi tiết cụ thể cha đã chiến đấu và bỏ mình như thế nào kể cả từ các cơ quan, đơn vị liên hệ.
Vì thế sau 75 đau đáu nhớ thương cha – “người cha không nhớ nổi gương mặt” – đã cùng con gái bỏ nhà ở Hà Nội vào TP.HCM dạy học để có điều kiện truy tìm tin tức cha. Nhất là sau khi nghe tin đau lòng có người nói ông đã “chiêu hồi” chế độ cũ!
Ròng rã hơn 30 năm đã một mình làm công việc đó qua tìm gặp hơn 400 đồng đội cũ của ông khắp nơi cũng như tìm kiếm hàng trăm tài liệu có liên quan đến ông kể cả qua tới thư viện đại học ở Mỹ. Kết quả đã xác minh được cha mình tên thật Đào Phúc Lộc chính là tướng Hoàng Minh Đạo người được xem sáng lập ra ngành tình báo quân đội cách mạng đã bị địch phục kích bỏ mình trên sông vàm Cỏ Đông thuộc Tây Ninh năm 1969. Bởi ông hoạt động trong ngành này nên mọi hành tung, thông tin về ông đều được giữ bí mật ngay cả ở miền Bắc lẫn miền Nam, từ đó mới che giấu thông tin về ông đối với cả người thân đồng thời gây ra thông tin sai lạc về ông.
Giống như những gì bà phát hiện và viết thành bộ sách 3 cuốn về cuộc đời cống hiến của ông (dựa vào đó một bộ phim tài liệu truyền hình đã được thực hiện), sau đó Nhà nước đã chính thức công nhận công lao to lớn của ông.
Nghĩa vụ một người con hoàn thành nhưng qua đó bản thân còn rút ra được một bài học nhân sinh sâu sắc và cao cả: “Tôi đã mất mát rất nhiều từ các cuộc chiến. Cuộc chiến chống Pháp lấy mất đi của tôi người mẹ, kháng chiến chống Mỹ thì bốn chị em tôi mất người cha. Thật sự lúc đầu tôi nghĩ nếu tôi biết người lính nào đã sát hại cha tôi tôi sẽ trả thù… Nhưng dần thì tôi cũng bình tâm lại và hiểu rằng đó là chiến tranh và ai ở 2 phía đều có những mất mát đau thương… Tôi đã 4 lần đến thăm Bức tường Tưởng niệm chiến tranh VN ở Washington với những câu hỏi tự đặt ra về những cái chết sao vô lý như vậy…”

206 - Ngọc Thứ Lang
NGÀY TÀN CỦA “BỐ GIÀ”
Dịch giả tên thật Nguyễn Ngọc Tú sinh 1930 tại miền Bắc – Mất 1979 ở Phú Khánh (49 tuổi).
Trước 75 thời trai trẻ từng là một tay chơi cờ bạc công tử giang hồ thứ thiệt ở Sài Gòn – Chợ Lớn, sau do vướng vào một cuộc tình bi thảm (người yêu tự tử chết) nên rơi vào khủng hoảng tinh thần phải tìm quên nhờ nàng tiên nâu thuốc phiện.
Nhưng cũng chính từ kinh nghiệm một thời từng trải trong giới xã hội đen chế độ cũ nên đã dịch tác phẩm “Bố già” (“Godfather”, có chuyển thành phim nhựa) của nhà văn Mỹ gốc Ý lừng danh Mario Puzo viết về bọn mafia Ý quá đạt với toàn ngôn ngữ đúng điệu dân anh chị. Tác phẩm in năm 1971 từ đó nổi tiếng với thêm vài tác phẩm dịch khác cùng đề tài mafia của cùng tác giả Mỹ này. Tất cả những dịch phẩm đó đều được thực hiện… bên bàn đèn!
Sau 75 vẫn sống đời độc thân lang thang đói nghèo (thất nghiệp) lại nghiện hút quá nặng khiến bị bắt đi cai nghiện nhiều lần. Cuối cùng chết trong trại cai nghiện, đúng 10 năm trước khi cuốn “Bố già” của mình được chính thức tái bản tại TP.HCM mà cả bây giờ ai cũng công nhận không người nào dịch hay hơn anh!

207 - Ngô Chính
BỆNH NHÂN ĐẶC BIỆT
Nữ thường dân Việt kiều Canada sinh 1968 tại VN. Sống ở Canada (2007).
Định cư tại Canada, đầøu năm 2007 đang sống ở Canada được biết mình mắc bệnh nan y (bệnh não) nên cùng chồng và 3 con nhỏ trở về nước thăm gia đình bà con lần cuối.
Không ngờ về đến quê nhà thì trở bệnh nặng rơi vào hôn mê, toàn thân tê liệt phải thở máy. Sau nhiều tháng trời chạy chữa tại VN không đi tới đâu, chi phí bệnh viện lên cao tới mức chồng không trả nổi. Thế nên ông chồng đành phải chọn biện pháp gửi bà ở lại bệnh viện cho người thân chăm sóc để mang con qua lại Canada mở cuộc vận động kêu gọi thân bằng quyến hữu góp tiền trả viện phí đồng thời đưa bà trở lại nhà mình ở Canada để nói lời vĩnh biệt. Đồng thời chuẩn bị chôn cất bà tại đây để cho con cái gần gũi hương khói.
Kết quả là đã gom góp được 60.000 USD trong vòng 10 ngày đủ để thuê cả một chuyên cơ y tế đưa bà về Canada kèm theo đầy đủ phương tiện phục vụ bệnh nhân gồm giường bệnh, cáng bệnh, ống thở, ống truyền dịch, dụng cụ làm vệ sinh…

208 - Ngô Công Đức
“HOÀN THÀNH NHIỆM VỤ LỊCH SỬ” CÙNG BÁO TIN SÁNG
Nhà báo sinh 1936 tại Vĩnh Bình (Trà Vinh) – Mất 2007 (72 tuổi).
Nguyên nhà báo dân biểu đối lập trong nhóm trí thức và nhà hoạt động xã hội Thiên Chúa giáo Nam bộ thuộc “Lực lượng thứ ba” – giữ lập trường “trung lập” kêu gọi hoà bình, chống chế độ Thiệu - Kỳ nhưng không theo Cộng sản - nên sau một chuyến đi Pháp năm 1971 đã bị chế độ cũ cấm về nước. Nhưng ở nước ngoài vẫn tiếp tục hoạt động chống đối như thời ở trong nước kể cả ra báo hải ngoại. Từ đó được xem là có khuynh hướng thiên tả, gần gũi Cách mạng.
Sau 75 về nước ngay với nguyện vọng đóng góp xây dựng đất nước độc lập thống nhất và hòa giải dân tộc. Nhanh chóng được chế độ mới tin tưởng cử làm người đứng đầu tập hợp lực lượng trí thức văn nhân, nhà hoạt động xã hội không cộng sản ở đô thị nhưng có tư tưởng tiến bộ – “trí thức tại chỗ” - làm quen với Cách mạng. Xem như một cây cầu nối giữa quần chúng thành thị với chế độ mới để thu hút nhân tài, thu phục nhân tâm những ai chưa có cơ hội “giác ngộ cách mạng”. Nhật báo Tin Sáng - nối tiếp bộ cũ do chính mình sáng lập và điều hành từ năm 1968 (có viết mục tiểu phẩm ký tên chung Tư Trời Biển chuyên “đánh” chế độ Thiệu – Kỳ rất được độc giả hoan nghinh) đến 1972 bị chế độ cũ đóng cửa – được phép tái bản ở TP.HCM ngay tháng 8.1975.
Đây là tờ báo “tư nhân” duy nhất cả nước quy tụ hầu hết nhân vật tiếng tăm trong “Lực lượng thứ ba” trước đây tham gia như Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Văn Binh, Hồ Ngọc Cứ, Lý Chánh Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Lý Quý Chung, Dương Văn Ba, Châu Tâm Luân, Hoàng Ngọc Biên, Diễm Châu, Cao Thanh Tùng và cả Nguyễn Xuân Oánh cựu Phó Thủ tướng thời trước. Báo được người đọc miền Nam nồng nhiệt đón nhận vì thấy lại phong cách báo thời cũ khác hẳn báo Cách mạng mà họ không quen do cách viết, cách tuyên truyền, cách tổ chức chuyên mục và chuyên đề, cách trình bày phong phú đa dạng, uyển chuyển linh hoạt, nhẹ nhàng hơn chứ không nặng chính trị khô khan. Đặc biệt dưới sự điều hành của nhà báo thể thao kiêm thư ký tòa soạn Chánh Trinh (Lý Quý Chung), báo có chuyên trang thể thao hấp dẫn mà báo Cách mạng và cả báo miền Bắc lúc đó hoàn toàn chưa có…
Công việc đang có vẻ thuận buồm xuôi gió thì đùng một cái đến năm 1981 xảy ra… mâu thuẫn nội bộ trong báo chia làm 2 phe “đánh” nhau về lập trường quan điểm, một bên là nhóm Lý Quý Chung “thân chính quyền” nhắm “đảo chính” chủ báo và nhóm Dương Văn Ba muốn giữ vị thế độc lập với chính quyền. Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt lúc đó là Bí thư Thành ủy TP.HCM yêu cầu đôi bên hòa giải nhưng kết quả không bên nào chịu bên nào nên cuối cùng báo được lệnh… giải thể với thông báo chính thức “đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử”! Một nhiệm vụ “lót đường” cho Cách mạng đi tới!
Rõ ràng một lần nữa căn bệnh kinh niên mất đoàn kết nội bộ đã lập lại đẩy Tin Sáng đi đến kết thúc sự nghiệp mà lẽ ra nếu khôn khéo đã có thể kéo dài. Nếu kéo dài nó sẽ giúp ngăn chặn phần nào hiện tượng vượt biên bùng nổ sau đó làm chảy máu chất xám đáng tiếc.
Nhưng ngoài lý do chủ quan kể trên, còn một số lý do khách quan khác mà trước hết là cuộc đấu tranh đường lối trong nội bộ Đảng chuyển qua cứng rắn tả khuynh hơn do ảnh hưởng biến động ở Liên Xô cũ và các nước Đông Âu. Từ đó trong dư lụân và đặc biệt trên Tin Sáng đã xuất hiện một số bài báo bị xem là có “mùi xét lại” dù chỉ mới trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, dù báo có một “biên ủy tối cao” do Thành ủy cử đến buổi tối xét duyệt bài vào giờ chót trước khi báo in ra và dù tác giả bài báo có cả ông Trần Bạch Đằng từng giữ cương vị tuyên giáo cao trong Đảng (bài về vở kịch “Nguyễn Trãi ở Đông Quan” của Nguyễn Đình Thi mới công diễn ở Hà Nội thì bị ngưng)…Ông chủ báo và đa phần thành viên chủ chốt trong báo đều là người Công giáo càng bị nghi ngờ đi theo đường hướng đấu tranh chống Cộng của Giáo hội Ba Lan và Công đoàn Đoàn kết ở Ba Lan lúc đó. Ai biết được Tin Sáng rồi có trở thành một “hội chứng” Nhân văn Giai phẩm như ở miền Bắc sau 1954 hay không?
Cho nên vụ lục đục nội bộ trong báo khiến “tự thua” trên sân nhà quả là một dịp thuận lợi, một cái cớ “trời cho” để chính quyền làm chuyện một công đôi việc gỡ được mối lo hậu họa “bất chiến tự nhiên thành”!
Về phần ông chủ báo sau đó rút về làm nghề cũ kinh doanh, sản xuất sơn mài rồi phát triển qua các ngành khác nói chung thành công (còn góp phần thành lập ngân hàng ngoài quốc doanh đầu tiên VPB). Gần như tuyệt đối không xuất hiện trên sân khấu chính trị nhưng vẫn chấp nhận ở lại không bỏ đi “tái” lưu vong như nhiều bạn bè đồng nghiệp khác (Châu Tâm Luân, Hoàng Ngọc Biên, Diễm Châu…).
Sự im lặng “ở ẩn” ở đây cũng như nhiều người cùng chí hướng ngày xưa như Nguyễn Xuân Óanh, Lý Chánh Trung tự biết hoài bão và thực tế không bao giờ trùng khớp nhau, bánh xe lịch sử khắc nghiệt như thế nào mà trên đó mỗi người dù có công lao đến đâu, thành tích lớn thế nào cũng chỉ là một “hạt cát” cá nhân với phần đóng góp càng vô cùng nhỏ bé. Nỗi cay đắng trước thời cuộc, thế sự không như ý muốn - thậm chí còn ngược lại – cũng khó nói lên vì lòng tự trọng không cho phép mình phản bội lý tưởng đã chọn lựa từ đầu và sự sáng suốt buộc phải chấp nhận đường đi của lịch sử không thể khác hơn. Tâm sự chung của một lớp người trí thức cũ ở lại phấn đấu với quê hương “giận thì giận mà thương thì thương”!
Cả đến cuối đời dường như vẫn còn ấp ủ mơ ước quay lại nghề báo nhưng đã muộn, thời cơ qua rồi mà tuổi tác và sức khỏe không cho phép nữa. Chỉ có mong muốn giúp quê nhà thì năm 2008 đã được gia đình thực hiện là lập Quỹ Học bổng Ngô Công Đức mỗi năm trao cho học sinh sinh viên nghèo Trà Vinh.

209 - Ngô Hoàng Đợt
LIỆT SĨ SỐNG LẠI 8
Nông dân sinh 1952 tại Cà Mau. Sống ở Long An (2008).
Mới 14 tuổi đã vào du kích ở Cà Mau năm 1966 nhưng chưa tới một năm sau bị bắt trải qua nhiều nhà tù Cà Mau, Bạc Liêu và cuối cùng đưa ra giam ở đảo Phú Quốc.
Mãi đến năm 1974 được trao trả tù binh tại Tây Ninh nhưng do hậu quả bị tra tấn nên đã mất trí nhớ, lúc bị bắt còn nhỏ không còn giữ giấy tờ tùy thân nên không biết sẽ lưu lạc về đâu. May thay được một người bạn tù lớn tuổi từng kết nghĩa trong tù thương tình dẫn về quê mình ở Long An nuôi dưỡng rồi gã cháu gái làm vợ. Hai vợ chồng sống cảnh nông dân nghèo song hòa thuận, êm ấm sinh được 5 con
Trong lúc đó gia đình ở Cà Mâu mất liên lạc cả chục năm, sau ngày Giải phóng vẫn không thấy về rồi lại chính thức nhận được giấy báo tử kèm bằng Tổ quốc ghi công. Cha buồn qua đời, còn lại mẹ và các em đành lập bàn thờ “vọng” lấy ngày nhận giấy báo tử làm ngày liệt sĩ hy sinh.
Tuy nhiên liệt sĩ “chưa chết” đó có lúc tỉnh trí vẫn nhớ lại man mác gốc gác mình nên năm 1982 và 1991 đã 2 lần một mình tìm về Cà Mau lần dò dấu tích gia đình cũ. Nhưng cả 2 lần nửa chừng đều phải quay về do bệnh tái phát mà tiền bạc dằn lưng cũng cạn hết rồi.
Rút kinh nghiệm năm 2008 đi một chuyến nữa lần này có con trai và người em vợ “hộ tống” may mắn đạt kết quả tìm được mẹ già và các em sau 41 năm biệt vô tông tích. Người em gái khi đó hoảng hồn cứ chăm chăm xem anh mình có… đi hỏng đất không (ma)!
Tự tay mình dọn dẹp… bàn thờ mình xuống, chỉ giữ lại tấm bằng Tổ quốc ghi công làm… kỷ niệm. Bà mẹ thì nửa khóc nửa cười mừng vì tự dưng lại có thêm 5 cháu nội.

210 - Ngô Phan Lưu
TỪ SĨ QUAN NGỤY THÀNH NHÀ VĂN NÔNG DÂN THỨ THIỆT
Nông dân sinh 1946 tại Phú Yên. Sống ở Tuy Hòa (2010).
Đang học ĐH Văn khoa Sài Gòn ngành Triết thì bị chế độ cũ gọi đi lính trường Bộ binh Thủ Đức… Nhờ đó sau 75 chỉ bị cải tạo “nhẹ” do hàm chuẩn uý mới ra trường.
Sau đó chỉ còn lối thoát dung thân né tránh thế sự đơn giản nhất để không bị chế độ mới săm soi nghi ngờ là chấp nhận về quê cũ Phú Yên (xã Hòa Mỹ Đông)… làm ruộng!
Làm ruộng tay lấm chân bùn thực sự mới mong có cái mà ăn để tồn tại. May nhờ có học hành nên biết học nghề nhanh, rút kinh nghiệm giỏi và lại biết áp dụng kiến thức khoa học vào nghề nông nên làm ăn tốt. Là một “lão nông” chính hiệu tay cày tay cuốc nhưng tối về nhà một tay vẫn cầm sách (đọc cả sách Tây nữa chứ) nên được bà con làng xóm tôn là nhà “học giả đồng quê” với cả một câu vè tự hào: “Hòa Mỹ có ông Ba Lưu/ Chuyên đời làm ruộng lại liều viết văn”!
Đến thời Đổi mới dễ thở hơn mới nhớ về giấc mộng thời trai trẻ học Văn khoa là muốn bước chân vào con đường sáng tạo văn học. Từ đó bắt đầu năm 1995 tranh thủ thời gian nông nhàn tập tành viết lách, ban đầu làm thơ, viết bài đọc sách, phiếm luận văn hóa rồi chuyển qua viết truyện gửi đăng báo.
Được báo hoan nghinh nhờ chất độc đáo riêng - chan hòa nửa nông dân nửa triết gia! – nên khi được đăng rồi ngày càng viết nhiều hơn theo tính thực tế của một nhà nông chính hiệu cầøn cù ăn chắc mặc bền: “Nghề văn khá mong manh trong chuyện kiếm cơm, phải viết nhiều mới đủ cơm ăn chứ! Viết văn cũng như làm ruộng, trước hết phải siêng năng. Tui có thế mạnh chuyện này vì là dân làm ruộng mà!”
Kết quả thành công không mơ thấy nổi: 1997 in tập thơ “Bếp lửa chiều đông”, 2004 là tập truyện ngắn “Người không giăng câu Kiều” và hoành tráng nhất là năm 2007 với 2 truyện ngắn đã đoạt giải nhất cuộc thi truyện ngắn của báo Văn Nghệ – Hội Nhà văn VN, giải thưởng văn chương danh giá nhất.
Bây giờ thì nhà văn lão nông đã có thể giảm tay cày để tập trung hơn vào việc viết lách nhưng nội dung vẫn là từ vốn sống đời nhà nông mà mình đã thuộc nằm lòng cộng với tầm nhìn của một trí thức Tây học lỡ làng để từ đó nhìn ra mảng đề tài độc đáo “dự báo về những tan rã giá trị ở nông thôn thời nay”.
Bên cạnh đó những tri thức triết học từng làm quen một thời cũng góp phần làm nên chiều sâu của tác phẩm khi hòa quyện vào đó là mối quan tâm về chủ đề cái Ác hiện diện trong con người và đời sống: “Viết cái Ác là một vấn đề cực kỳ gay go. Cái Ác mình phải dũng cảm đối mặt để qua đó phát huy cái Thiện. Viết như vậy nặng đấy, u ám nhiều đấy nhưng ca ngợi tôi viết không được, trốn tránh cái Ác tôi viết không có chiều sâu. Tất nhiên cái Ác ở đây viết trên nền tảng cái Thiện, lòng Thiện...”

CAO HUY KHANH
(Còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét