Nhạc sĩ Trúc Phương tên thật là Nguyễn
Thiện Lộc. Ông sanh năm 1939 tại xã Mỹ Hoà, quận Cầu Ngang, tỉnh Trà
Vinh (Vĩnh Bình) ở vùng hạ lưu sông Cửu Long, miền Nam Việt Nam. Cha ông
là một nhà giáo sống thầm lặng và nghiêm khắc. Nhưng tâm hồn của chàng
trai Thiện Lộc thì rất lãng mạn, yêu thích văn nghệ nên đã tự học nhạc,
và bắt đầu sáng tác những bài hát đầu tiên lúc vừa 15 tuổi.
Xung quanh nhà ông có trồng rất nhiều tre
trúc, nên từ nhỏ ông đã yêu mến những âm thanh kẽo kẹt của tiếng tre va
chạm với nhau và sau này đã chọn tên là Trúc Phương để nhớ về thời thơ
ấu của ông với những cây tre trúc. Cuối thập niên 1950, ông sinh hoạt
văn nghệ với các nghệ sĩ ở ty Thông Tin tỉnh Vĩnh Bình một thời gian
ngắn, rồi lên Sài Gòn dạy nhạc và bắt đầu viết nhạc nhiều hơn. Bài hát
“Chiều Làng Quê” được ông sáng tác vào thời gian này để nhớ về khung
cảnh thanh bình ở làng xóm của ông ,một bài khác cũng rất nổi tiếng với
giai điệu trong sáng, vui tươi là “Tình Thắm Duyên Quê”.
Không tiền bạc và không một ai thân quen ở
đô thành Sài Gòn, ban đầu Trúc Phương ở trọ trong nhà một gia đình giàu
có bên Gia Định và dạy nhạc cho cô con gái của chủ nhà. Không bao lâu
sau thì cô gái này đã yêu chàng nhạc sĩ nghèo tạm trú trong nhà, vì con
tim cô ta đã dần dần rung động trước tài năng của Trúc Phương.
Biết
được chuyện này, ba mẹ của cô gái bèn đuổi Trúc Phương đi nơi khác. Sau
chuyện tình ngang trái này, Trúc Phương càng tự học thêm về âm nhạc và
càng sáng tác hăng hơn. Nhưng những bài hát sau này lại nghiêng về chủ
đề tình yêu đôi lứa với những nghịch cảnh chia lià.
Trúc Phương sáng tác rất dễ dàng, nhưng
với bản tính trầm lặng, bi quan và khép kín sau những cuộc tình dang dỡ,
những bài hát sau này của ông thường mang âm điệu u buồn, thê lương như
phảng phất nỗi sầu của cổ nhạc miền Nam. Nổi tiếng nhất là “Nửa Đêm
Ngoài Phố” với tiếng hát liêu trai Thanh Thúy. Sau đó là “Buồn Trong Kỷ
Niệm” với những câu hát đớn đau, buốt nhói tim gan người nghe như : “Đường
vào tình yêu có trăm lần vui, có vạn lần buồn. Đôi khi nhầm lẫn đánh
mất ân tình cũ, có đau chỉ thế, tiếc thương chỉ thế. Khi hai mơ ước
không chung lối về …”.
Có người cho là bài hát này ông đã viết ra sau khi bị thất tình một cô ca sĩ lừng danh thời đó.
Nhạc của Trúc Phương có một giai điệu rất
đặc biệt của riêng ông, mà khó lầm lẫn với người khác được. Nhạc của
ông có âm hưởng cổ nhạc miền nam, Nó có vẻ trầm buồn, ray rức, ưu tư
trước thời cuộc dạo đó (là chiến tranh triền miên) và buồn phiền vì
những mối tình dang dở, trái ngang. Nên khi soạn hòa âm cho những bài
hát của Trúc Phương, nhạc sĩ hòa âm phải sử dụng ít nhất là một trong
vài loại nhạc khí cổ truyền của miền Nam như đàn bầu, đàn tranh, hay đàn
cò (hoặc violon) thì mới có thể diễn tả hết cái hay của giòng nhạc Trúc
Phương và người nghe lại càng thấm thía với nỗi muộn phiền, nhức nhối
tim gan của ông sau này.
Điều trớ trêu là tuy tên tuổi và tài năng
sáng chói, nổi bật so với những người viết nhạc thời bấy giờ, nhưng
tình duyên của nhạc sĩ Trúc Phương thì vô cùng lận đận. Khoảng năm 1970,
Trúc Phương được một thiếu nữ vô cùng xinh đẹp, cao sang đài các đem
lòng yêu thương ông, do sự rung cảm truyền đạt từ tài năng và những tác
phẩm tuyệt vời của ông. Kết cuộc là cả hai đã nên duyên chồng vợ. Tuy
sống trong cảnh nghèo nàn, nhưng đời sống của họ rất là nghệ sĩ. Đó là
những năm tháng hạnh phúc nhất trong cuộc đời của Trúc Phương và sức
sáng tạo nghệ thuật của ông càng sung mãn hơn bao giờ hết với hàng chục
bài hát ra đời mỗi năm.
Nhưng niềm vui của đôi uyên ương này lại
không kéo dài được lâu bền. Bởi vì sau một thời gian chung sống với
nhau, những tình cảm ban đầu trở nên phai lạt dần theo năm tháng và hai
người đã lặng lẽ chia tay nhau. Câu hát ngày nào lại rơi đúng vào trường
hợp này “khi hai mơ ước đã không cùng chung hướng về” và “đường vào
tình yêu có trăm lần vui, nhưng có vạn lần buồn” ? Giờ thì nhạc sĩ Trúc
Phương âm thầm đau khổ trong cô đơn và lại vùi đầu vào men rượu để sáng
tác thêm nhiều bài hát trong nỗi đau thương cùng cực, pha chút chán
chường cho nhân tình thế thái.
Bạn bè thường gặp ông ngồi yên lặng bên
những ly rượu nơi một quán nhỏ ở đường Tô Hiến Thành, quận 10, gần nhà
của ông. Có lẽ đó là một cách làm cho nhạc sĩ tạm quên đi những cay đắng
của tình đời. Đó cũng chính là lúc bài hát “Thói Đời” được sáng tác với
những câu như “Bạn quên ta, tình cũng quên ta, nên chung thân ta giận
cuộc đời, soi bóng mình bằng gương vỡ nát, nghe xót xa ngùi lên tròng
mắt”… và “Người yêu ta rồi cũng xa ta … “Cỏ ưu tư” buồn phiền lên xám
môi …”. Thực ra phải nói là “cỏ tương tư” tức “tương tư thảo” là tên gọi
văn hoa của thuốc lá.
Khi những người đang yêu nhau, nhớ nhau,
hẹn hò nhau thì châm điếu thuốc thả khói mơ màng, nhìn rất thơ mộng và
nghệ sĩ [ngó trên tay thuốc lá cháy lụi dần, anh nói khẽ gớm sao mà nhớ
thế (Hồ Dzếnh)]. Nhưng đối với Trúc Phương trong “Thói Đời” thì điếu
thuốc lá “cỏ tương tư” lại biến thành ra “cỏ ưu tư” làm cho đôi môi trở
nên màu xám xịt qua những nỗi đau thương, nhung nhớ ngập tràn. Những
giọt rượu nồng của cõi “trần ai” này lại càng gợi thêm “niềm cay đắng”
để cho nỗi ưu tư “in đậm đường trần” và ông đã than thở “mình còn ai đâu
để vui ? khi trót sa vũng lầy nhân thế ”?
- “Thói đời” nhạc Trúc Phương trình bày Tuấn Vũ
Bài hát “Thói Ðời” đã gây xúc động cho
hàng triệu con tim cùng chung số phận nghiệt ngã của cuộc đời. Với riêng
bản thân Trúc Phương thì “Thói Đời” lại như là một lời tiên tri thật
chính xác cho quãng đời còn lại của ông suốt gần 25 năm sau đó
(1971-1995).
Sau năm 1975 thì sự nghiệp sáng tác nhạc
của ông dừng lại, tất cả những ca khúc của ông đều bị cấm phổ biến và
trình diễn.. Không có nghề nghiệp gì trong tay, ông làm đủ mọi việc để
sinh sống.Với hai bàn tay trắng, ông trở về quê cũ sống nhờ vả bạn bè,
mỗi nơi một thời gian ngắn. Có người hỏi sao ông không về quê ở hẳn với
thân nhân, Trúc
Phương đã trả lời “Má của tôi thì già yếu đang ở dưới quê Cầu Ngang
(Trà Vinh), nhưng bà nghèo quá, lại phải nuôi đám cháu nheo nhóc, không
đủ ăn … nên tôi không thể về đó để làm khổ cho bà thêm nữa .”
Ở dưới tỉnh nhà Trà Vinh với bạn bè xưa
cũ một thời gian, Trúc Phương lại tìm đường về Sài Gòn. Ban ngày ông làm
thuê, làm mướn đủ mọi thứ nghề và lang thang khắp nơi. Ông có tâm sự
lại vài lời xót xa, nghẹn ngào, xúc động trên một đoạn video clip ngắn
ngủi về đời sống của chính bản thân ông lúc đó như sau :
“Sau cái biến cố cuộc đời, tôi sống cái
kiểu rài đây mai đó,”bèo dạt hoa trôi”… Nếu mà nói đói thì cũng không
đói ngày nào, nhưng mà no thì chẳng có ngày nào gọi là no…Tôi không có
cái mái nhà, vợ con thì cũng tan nát rồi, tôi sống nhà bạn bè, nhưng mà
khổ nổi hoàn cảnh họ cũng bi đát, cũng khổ, chứ không ai đùm bọc ai
được… đến nửa lúc đó thì vấn đề an ninh có khe khắc, lúc đó thì bạn bè
tôi không ai dám “chứa” tôi trong nhà cả, vì tôi không có giấy tờ tùy
thân, cũng chẳng có thứ gì trong người cả. Tôi nghĩ ra được một cách..
là tìm nơi nào mà có khách vãng lai rồi mình chui vào đó ngủ với họ để
tránh bị kiểm tra giấy tờ…
Ban ngày thì lê la thành phố, đêm thì
phải ra xa cảng thuê một chiếc chiếu, 1 chiếc chiếu lúc bấy giờ là 1
đồng… thế rồi ngủ cho tới sáng rồi xếp chiếc chiếu trả người ta.. thế là
mình lấy 1 đồng về…. như là tiền thế chân… Một năm như vậy, tôi ngủ ở
xa cảng hết 9 tháng… Mà nói anh thương… khổ lắm… .Hôm nào mà có tiền để
đi xe lam mà ra sớm khoảng chừng năm giờ có mặt ngoài đó thế rồi thuê
được chiếc chiếu trải được cái chỗ lịch sự chút tương đối vệ sinh một tí
mà hôm nào ra trễ thì họ chiếm hết rồi, những chỗ sạch vệ sinh họ chiếm
hết rồi, tôi đành phải trải chiếu gần chỗ “thằng cha đi tiểu vỉa hè”,
thế rồi cũng phải nằm thôi. Tôi sống có thể nói là những ngày bi đát… mà
lẽ ra tôi nên buồn cho cái hoàn cảnh như thế nhưng tôi không bao giờ
buồn… Tôi nghĩ mà thôi, còn sống cho tới bây giờ và đó cũng là một cái
chất liệu để tôi viết bài sau này..
Có thể nói rằng một điều là suốt mấy chục
năm trời và cho đến hôm nay đã có rất nhiều ca sỹ, trung tâm băng nhạc,
hãng đĩa đã thu âm, hát lại nhạc của ông, nhưng chắc chắn là ít có
người đã biết tin ông âm thầm từ giã cõi đời trong cảnh nghèo nàn, bi
đát và cô đơn trong căn phòng trọ tồi tàn, nhỏ hẹp ở quận 11, Sài Gòn
vào ngày 18 tháng 9 năm 1995, tài sản của ông có được lúc đó chỉ là một
đôi dép..
Nhạc Trúc Phương, bên cạnh những bản viết
về quê hương, còn ghi lại biết bao cuộc tình lãng mạn ướt át nồng
nàn.”Nửa đêm ngoài phố” lang thang, tình cờ làm quen một người con gái
lạ, rồi để lòng vương vấn mãi : “Buồn vào hồn không tên, thức giấc nửa đêm nhớ chuyện xưa vào đời. Ðường phố vắng đêm nao quen một người..” hoặc “Trở lại chuyện hai chúng mình. Khi em với anh…”
làm quen, hẹn hò cùng nhau đi tới mòn lối, khiến nó trở thành “Con
đường mang tên em”. Cũng có những lúc cô đơn, rút về nhốt mình nơi nhà
trọ, nhưng Ðêm gác trọ chỉ nói lên nỗi buồn bâng quơ có vương chút phấn
chấn nhờ thể điệu Tango, mà TP ít khi dùng trong hầu hết các nhạc phẩm
của mình. Rồi có lúc người yêu xưa tìm đến, cùng nhau ôn chuyện cũ, nhắc
lại Chuyện ngày xưa, được ghi lại như sau : “Hôm nào em đến thăm,
mà quên mang tiếng cười, lặng yên không nói. Hai mươi tuổi đời qua mất
rồi.. (ÐK) : Thôi em nhé, xin trả về niềm cô đơn trước, cho anh bước
xuôi ngược, khi hai chúng mình, vòng tay trót buông xuôi, dù gặp nhau ta
cúi mặt bước mà đi ”
Tâm hồn Trúc Phương như luôn vương vấn
điều gì u uất cho nên hầu hết nhạc ông lúc nào cũng có âm điệu buồn
buồn. Ta thử ca lại vài bài nhạc tình khác, như Buồn trong kỷ niệm : “Ðường
vào tình yêu có trăm lần vui có vạn lần buồn. Ðôi khi nhầm lỡ đánh mất
ân tình cũ…(đoạn kế) Mình vào đời nhau lúc môi còn non, tuổi mộng vừa
tròn. Hương thơm làn tóc, nước mắt chưa lần khóc. Ðến nay thì đã, đắng
cay nhiều quá. Thơ ngây đi mất trong bước buồn giờ mới hay..” Dường như hình ảnh người tình trong nhạc Trúc Phương không phải là của một người, nhưng tất cả đã xa.
“Ai cho tôi tình yêu, của ngày thơ ngày mộng. Tôi xin dâng vòng tay mở rộng, để đón người đi vào tim tôi bằng môi trên bờ môi..” Thế nhưng không biết đã yêu thương được bao lâu thì Trúc Phương lại “Xin
giã biệt bạn lòng ơi, trao trả môi người cười. vì Hai lối mộng hai
hướng trông. Mình yêu nhau chưa trót. Thì chớ mang nỗi buồn theo bước
đời. Cho dù chưa lần nói…thì đành xa nhau. Ðể chốn nao với chiều mưa gió
lộng. Ta dừng vui bến mộng… Bao lần đi, gối mõi chân mòn. Tâm tư nặng
vai gánh, đường trần cho đến nay, chỉ còn, bờ mi khép kín. Giấc ngủ nào
tìm quên ? Giấc ngủ nào gọi tên ?.” Ðôi khi ông có chút cay đắng
cho Thói đời, vì Người yêu ta rồi cũng xa ta nhưng không oán trách người
mà chỉ than thân một mình. Những Chiều cuối tuần đã xa: “Hôm nao tôi
lên đường phố cũ, chiều xưa, lần hẹn hò. Trao
nhau, niềm vui cuối tuần…” Trên gác nhỏ, cô đơn, trằn trọc : “Ðêm chưa
ngủ, nghe ngoài trời đổ mưa từng hạt rơi. Gác nhỏ đèn le lói bóng dáng
ai trên tường loang…” Trong lúc Mưa nửa đêm : “Ai biết ai vì đời,
cùng ngược xuôi chung lối mòn. Ngày tôi hai mươi tuổi, em đôi tám trăng
tròn. Ðêm lạnh còn nghe chăn gối lẽ nằm thao thức…” nhớ về Bóng nhỏ
đường chiều, chỉ còn là kỷ niệm: “Ta đến nơi hẹn hò, cùng gặp nhau trên
phố nhỏ. Ta nhẹ dìu nhau trong tiếng thở..”
Tưởng nhớ nhạc sĩ Trúc Phương
(Bài viết do ca sĩ; Thanh Thúy cung cấp, 2013)
Ngày 18 tháng 9 tới đây, thấm thoát đã
tròn 18 năm (năm 2014 là 19 năm, ngày mất của Trúc Phương) – là ngày nhạc
sĩ Trúc Phương giã biệt cuộc đời để về một vùng trời miên viễn khói
sương. Chẳng biết có khi nào hồn ông có dịp về thăm lại căn nhà xưa ở Cư
xá Lữ Gia Phú Thọ Phường 15, Quận 11 hay không, đó là nơi Ông đã ở
những ngày cuối đời.
Chỗ đó, nơi ông sống không đúng nghĩa là
một ngôi nhà. Nó thật ra, chỉ là một căn phòng nhỏ được sửa lại từ một
căn bếp của một ngôi nhà vốn cũng đã nhỏ rồi. Tận cuối ở Quận 11. Ông có
6 người con : bốn trai và hai gái. Người nhạc sĩ lừng danh SG năm xưa
đã ở đó những ngày cuối đời cùng với cô con gái đầu lòng tên Loan, và 2
cậu con trai tên Lê (thứ năm), Lâm (thứ sáu).
Ông có một cậu con trai lớn tên Linh (đã
vượt biên đến Mỹ năm 1981 và hiện là 1 tay lead guitar tên tuổi trong
làng nhạc Cali đang cộng tác với vũ trường Bleu mỗi tối thứ năm hàng
tuần) và một cậu con trai nữa tên Lam (thứ tư) đi Úc từ năm 1990.
Căn phòng nhỏ hẹp này cũng là nơi nhà văn
Hồ Văn Xuân Nhi ghé nhiều lần để mang theo thư từ của Trần Quốc Bảo gửi
cho Ông cùng nhiều người thân thiết khác như Thanh Sơn, Mặc Thế Nhân,
Lê Hựu Hà, Quốc Dũng, Nguyễn Ánh 9, Đynh Trầm Ca, Ngọc Sơn, Hoàng
Trang.. Căn phòng nhỏ với một cái giường lớn, cái tủ áo quần nhỏ, hai
cái ghế, một cái bàn, một buồng tắm và cái giàn bếp chút xíu, tất cả
chung một căn phòng chỉ độ tám mét vuông. Nơi đây là cuộc đời của người
nghệ sĩ thiếu nhiều may mắn này từ sau biến cố 1975.
Sự nghiệp viết nhạc của Trúc Phương không
phải là một sự nghiệp nhỏ. Những bài Ông viết, đã thành danh cho chính
bài hát đó, đã thành danh cho chính Ông và đã thành danh cho tên tuổi
của một nghệ sĩ: Thanh Thúy. Đã có trên 65 bài hát, không phải là một sự
nghiệp tầm thường. Nếu chúng ta đã nghe những bài hát rất thông dụng
như Tình thắm duyên quê, Hai lối mộng, Chuyện chúng mình, Con đường
mang tên em, Buồn trong kỷ niệm, Chiều cuối tuần, Ai cho tôi tình yêu,
Tàu đêm năm cũ, Kẻ ở miền xa, 24 giờ phép, Mưa nửa đêm, Thói đời.. nhiều
lắm, trong số đó có bài hát đã làm nên tên tuổi Thanh Thúy, ca khúc Nửa
Đêm Ngoài Phố…. Làm thành một sự nghiệp như Trúc Phương đã có, cũng là vĩ đại rồi, cho một người viết nhạc.
Người ta thường quen thuộc nhạc phẩm và
ca sĩ nhiều hơn là tác giả của bài ca đó.Làm nhạc sĩ thường nghèo hơn ca
sĩ, và riêng Trúc Phương, đã từng là một nhạc sĩ không dư giả gì từ cái
thời Sàigòn trước 1975, và 20 năm sau đó (1975-1995) Ông lại càng nghèo
khó hơn bao giờ hết. Tuy nghèo thế nhưng Ông vẫn luôn giữ cho mình một
sĩ khí, không hề ngửa tay xin tiền ai, cầu cứu ai. Dù bạn bè Ông ở hải
ngoại rất nhiều, dù Ông biết nếu cần viết thư lên tiếng sẽ có nhiều nghệ
sĩ bạn bè hải ngoại có thể giúp Ông, nhưng Trúc Phương đã không làm
điều đó suốt 20 năm sau ngày 30/4/75.
Ông không hề lên tiếng cho thân phận
mình. Ai còn nhớ thì tốt, thì ghi nhận tình nghĩa đó. Ai quên Ông thì
thôi. Ông không kiếm đến ai, nhắc ai phải nhớ đến Ông.
Lần cuối cùng, Hồ Văn Xuân Nhi và Trần
Quốc Bảo gặp được nhạc sĩ Trúc Phương tại căn phòng nhỏ hẹp cuối Quận 11
này là một ngày mùa Hè nóng như thiêu đốt năm 1995, trước ngày Ông mất
khoảng 3 tháng. Năm cuối cùng ấy, Ông tròn 63 tuổi. Ông đã già và trông
dáng tiều tụy hơn tuổi của mình nữa. Vì bịnh hoạn. Tai không còn nghe
rõ, chân như đi không nổi, chứng bịnh sưng phổi và với hoàn cảnh đó, Ông
đã mất đi sau lần 2 người gặp Ông ở căn nhà nhỏ này.
Nhắc
lại chuyện quá khứ, 60 năm trước, khoảng năm 1950, Trúc Phương đã bắt
đầu viết nhạc. Khi đó Ông còn là một cậu học sinh vốn quê quán Trà Vinh,
huyện Cầu Ngang. Nhạc Trúc Phương thường viết theo điệu Boléro, với
những nội dung tình yêu đơn thuần của đám đông dân chúng, bình dân và
đơn giản. Tình yêu của những người đi lính, hay tâm sự của lính. Tình
yêu của trai gái, lời nhạc của Trúc Phương không dùng từ ngữ văn chung
ẩn sâu, mà biểu lộ thật những tâm tình trai gái yêu nhau rất bình dân,
tha thiết và nồng cháy. Thời đó, những năm thập niên 50, 60 và đầu 70,
đất nước còn chinh chiến điêu linh. Nhạc Trúc Phương man mác hình ảnh
chiến tranh và tình yêu với giòng tâm sự người lính chiến xa người yêu,
xa thành phố hay những chuyện của 2 người yêu nhau rồi mất nhau. Lời
viết như những lá thư tình trai gái trao nhau, chứ không phải như những
bài thơ văn chương sâu kín chữ nghĩa. Sau 1975, Trúc Phương vẫn còn sáng
tác thêm một số bài nói về tình yêu cây lá, tình yêu quê hương nhưng
hầu hết ca khúc này, như Ông xác nhận, không thành công lắm, chỉ với lý
do, Ông không còn cảm hứng dồi dào như những bài tình ca đã được đón
nhận từ trước 1975. Thời xưa, Trúc Phương viết nhạc cho Lính và cũng đã
đi lính tuy không bao lâu. Chỉ từ năm 1970, rồi đến 1972 giải ngũ. Cùng
đi lính một thời, một đơn vị với Thành Được.
Ông viết nhạc và tự mưu sinh với nghề
nghiệp. Trúc Phương viết nhạc và thường hát nhạc của Ông nhất, đó là ca
sĩ Thanh Thúy. Ít có giọng hát nào hát nhạc của Ông hay hơn Thanh Thúy,
mặc dù không phải chỉ có Thanh Thúy mới hát nhạc Trúc Phương quyến rũ.
Về giọng nam thì có Duy Khánh, Chế Linh. Đó là trước năm 1975, còn hôm
nay thì nhạc Trúc Phương có nhiều người hát thành công như Hương Lan,
Tuấn Vũ, Phương Hồng Quế, Như Quỳnh..
Sau 1975, Trúc Phương ở lại và tìm đường
vượt biên. Thất bại rồi bị bắt. Nhưng vẫn cứ tiếp tục tìm đường ra đi,
liên tiếp 5, 6 năm trường, cuối cùng thì Ông chấp nhận số phận làm kẻ ở
lại. Cuộc sống khốn đốn từ đó. Những ngày cùng cực nhất bắt đầu đến với
Trúc Phương. Gia đình Ông đổ vỡ. Trúc Phương với những ngày sống lênh
đênh không nhà ở, không giấy tờ tùy thân, không việc làm, không gia
đình. Không ai dám chấp chứa Ông, vì Ông có những án tù đã từng nhiều
lần mưu toan vượt biển. Lây lất hết chỗ này đến chỗ khác, sống khó khăn
nhưng Ông không hề ngửa tay xin tiền ai. Bạn bè ở ngoại quốc rất thân,
rất đông, có người từng xem như ruột thịt của Ông, ông vẫn ngậm đắng một
mình với cuộc sống không viết thư cầu xin điều gì và “người đó” cũng
chẳng bao giờ biên thư về thăm hỏi Ông. Lời tâm sự của Trúc Phương ngày
đó có niềm cay đắng trách móc trong đó.
Nhưng không phải ai cũng quên Trúc
Phương. Khi đọc tin về Ông trên báo Thế Giới Nghệ Sĩ, trên báo có ghi
địa chỉ Ông bên nhà, nhiều nghệ sĩ đã viết thư thăm hỏi và gửi tiền về
biếu Ông. Tình nghĩa nặng nhất là Hương Lan mà Trúc Phương đã xem như
con nuôi. Ngày Hương Lan về VN đã ghé thăm Ông. Rồi Thanh Thúy, Phương
Hồng Quế, Giao Linh, Hoàng Oanh, TQB.. và
Trúc Phương đã viết thư nhờ báo Thế Giới Nghệ Sĩ chuyển lời cảm tạ đến
những bằng hữu đó. Ông rất xúc động và quý vô cùng những ân tình đó.
oOo
Lần chúng tôi gặp gỡ nhạc sĩ Trúc Phương
sau cùng lần đó trong ngôi nhà nhỏ bé của Ông, trời Sàigòn nắng như
thiêu như đốt. Những điều viết lại này, phát xuất từ tấm lòng thương quý
người nhạc sĩ thiếu may mắn chứ không phải do Ông yêu cầu. Nếu có, đó
là lời yêu cầu người viết chuyển lời cảm tạ, ơn nghĩa đến những người
còn nghĩ đến Trúc Phương, và khi bắt tay giã từ lần sau cùng đó, người
viết vẫn không thể nào quên được, trong đôi mắt tuyệt vọng buồn thảm của
Ông bỗng rạng ngời một nụ cười hy vọng tin yêu. (theoLê Đình Thìn)
Yên Huỳnh chuyển tiếp
Chép lại từ trang http://cafevannghe.wordpress.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét