Chủ Nhật, 31 tháng 10, 2010

HUẾ, THÁNG CHÍN - NGUYỄN MIÊN THẢO


Anh đắm đuối trong mắt em
Quán cà phê vắng người
Chiều tháng chín không mưa

Em hóa thành chiếc lá
Bay ngoài đồng nội
Anh đi tìm
Bắt gặp nụ hôn xanh

Đường phố vắng tanh
Chỉ còn em và anh
Chiều Thu chết đứng

Thứ Bảy, 30 tháng 10, 2010

NGÔI ĐỀN HOA SEN TẠI ẤN ĐỘ

Ngôi đền lộng lẫy được thiết kế theo hình một hoa sen ở New Delhi - Ấn Độ. Ảnh: Internet

Ở New Delhi - Ấn Độ, có hẳn một ngôi đền lộng lẫy được thiết kế theo hình một hoa sen. Tại đây, hoa sen được thể hiện rất đa dạng, cánh sen được cách điệu làm mái vòm hành lang, làm hoa văn trên cửa, có khi cánh sen hóa thành những hồ nước. Đền Hoa Sen được xem là kỳ quan của sự sáng tạo trong kiến trúc.Thành phố New Delhi là một trong những nơi có lượng khách tham quan mỗi ngày cao nhất thế giới. Và một trong những điểm tham quan nổi tiếng mà du khách không thể bỏ qua chính là đền Hoa Sen, tọa lạc ở Kalkaji, phía nam thành phố, mỗi ngày có khoảng 150 ngàn lượt du khách đến tham quan kiến trúc độc đáo này.?
Đền được gọi là đền Hoa Sen vì hình dáng trông giống như một đóa hoa sen đang hé nở.
Kỳ quan sáng tạo này do kiến trúc sư Fa-ri-bo Sah-ba người Canada gốc Iran mất 10 năm thiết kế và xây dựng. Đền cao 35m, chiếm diện tích khoảng 105,000 m², đền có sức chứa 2500 người.
Khoảng 800 kỹ sư, kỹ thuật viên, nghệ nhân và công nhân đã giúp sức thực hiện công trình xây dựng phức tạp nhất thế giới này.
Công trình làm bằng đá cẩm thạch, xi măng, đô-lô-mít và cát. Đền có kết cấu độc đáo với 3 dãy, mỗi dãy có 9 cánh hoa sen nên đây là công trình xây dựng đòi hỏi kỹ thuật rất cao.
Chỉ một năm sau khi xuất hiện, năm 1987, đền Hoa Sen được xếp hàng thứ ba trong số các kiến trúc độc đáo, to lớn nhất thế giới. 9 hồ nước phản chiếu công trình bao quanh bên ngoài có hình những chiếc lá xanh của hoa sen.
Công trình kiến trúc đền Hoa Sen là kỳ quan sáng tạo của con người, là khu vườn xanh giúp du khách thư giãn nhờ vào không khí yên bình tĩnh lặng nơi đây

Hoa Nhi (THVL)

Thứ Sáu, 29 tháng 10, 2010

CAO HUY KHANH - VIỆT NAM HỒ SƠ HẬU CHIẾN 1975 - 2010 ( KỲ 43 )


NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ

431 - Đỗ Thanh Nhuận
MẤT VỢ VƯỢT BIÊN, MẤT CẢ CON ĐI BẢO LÃNH!
Cán bộ về hưu sinh 1948 tại Quảng Nam – Mất 2009 ở TPHCM (62 tuổi).
Thời sinh viên ĐH Vạn Hạnh ở TPHCM có tham gia phong trào đô thị chống Mỹ – Thiệu nên sau 75 được vào làm nhân viên Nhà Văn hóa Thanh niên. Lúc đó đã có vợ 2 con.
Nhưng vợ có quan điểm khác đã cùng con trai đầu vượt biên qua Mỹ để lại chồng nuôi con gái.
Nhiều năm sau vợ bảo lãnh cho con gái qua nhưng chồng mình thì… không bảo lãnh! Vẫn nén nỗi đau cho con đi qua với mẹ, còn mình tiếp tục ở lại tìm niềm vui qua công việc, nhất quyết không lấy vợ khác.
Đến khi về hưu mới thấy buồn đời cô độc không còn ai thân thích, cũng không nhà cửa nên về sống với mẹ già.
Chất chứa biết bao tâm sự cô đơn cộng với tuổi già thêm bệnh già nên đuối sức dần trong cuộc bôn ba trần thế bấy giờ mới thấy quá mệt mỏi. Khi mất chỉ có con gái từng sống 2 cha con đùm bọc với nhau một thời bao cấp khốn đốn trở về nhưng trễ khiến cũng không nhìn được mặt người cha tội nghiệp lần cuối.

432 - Đơn Dương
PHIM VÀ ĐỜI
Diễn viên điện ảnh Việt kiều tên thật Bùi Đơn Dương sinh 1957 tại Đà Lạt. Sống ở Mỹ (2010).
Sau 75 làm nhân viên một xí nghiệp dược ở TPHCM rồi qua giới thiệu của người anh rể chuyển qua làm quen với điện ảnh bắt đầu bằng một vai phụ trong bộ phim truyện “Bức tượng” của đạo diễn Lê Dân năm 1982.
Tuy không học trường lớp điện ảnh chuyên nghiệp nào nhưng có tài năng bẩm sinh diễn xuất đặc biệt có chấùt nội tâm sâu lắng nên từ đó liên tiếp xuất hiện trong nhiều bộ phim truyện nhựa lẫn truyền hình. Đạt nhiều thành công đáng kể trở thành một nam diễn viên điện ảnh được đánh giá cao đặc biệt qua các phim truyện gây tiếng vang như “Ông Hai cũ”, “Đời cát”, “Mê thảo”, “Ba mùa”… Tổng cộng trong 20 năm đã đóng 38 phim, một con số sự nghiệp đáng nể trong tình hình nền điện ảnh VN sau chiến tranh còn khá nghèo nàn.
Đặc biệt dù bản thân gia đình hầu như không có dính líu gì đến cộng sản, có người thân đi nước ngoài song lại đóng rất đạt vai… bộ đội từ thương binh đến sĩ quan, chính ủy! Như vai ông Hai cũ một nhân vật của nhà văn và nhà lý luận kiêm chính trị Trần Bạch Đằng hay vai nam nhân vật chính sĩ quan bộ đội về quê sau chiến tranh trong “Đời cát” bộ phim đoạt giải lớn Liên hoan Phim VN năm 2000.
Đến năm 2002 xảy ra một bước ngoặt trong sự nghiệp là qua phim “Bốn mùa” do một đạo diễn Việt kiều Mỹ thực hiện (đoạt giải Liên hoan phim Mỹ Sundance) đã được một hãng phim Mỹ mời qua đóng 2 bộ phim “Rồng xanh” (Green Dragon) và “Chúng ta là lính” (We were soldiers) có nội dung liên quan đến VN. “Rồng xanh” kể chuyện về một trại tị nạn của người Việt vượt biên ở Thái Lan, còn “Chúng ta là lính” (có sự tham gia của diễn viên “bom tấn Hollywood” là Mel Gibson) nói về cuộc chiến Việt – Pháp và Việt – Mỹ đã qua, cả 2 không ít thì nhiều đều có dụng ý xuyên tạc chống lại chế độ cộng sản hiện hành tại VN.
Vì thế tuy chỉ đóng vai phụ (vai một thông dịch viên trong phim đầu và vai một sĩ quan cấp tá chỉ huy tiểu đoàn đánh Điện Biên Phủ trong phim sau (vai này ám chỉ một nhân vật có thật sau là thượng tướng – nay đã quá cố - chỉ huy một cánh quân tấn công vào Sài Gòn tháng 4.1975) nhưng khi về nước đã bị dư luận báo chí “đánh” tơi tả, ghép tội là “phản bội”! Tuy không bị chính quyền chính thức có biện pháp “trừng phạt” nhưng cũng khó chịu nổi sức ép quá đáng đó nên phải cầu cứu Holllywood can thiệp bảo vệ mình!
Kết quả năm 2003 được phép qua Mỹ định cư (theo người chị ruột bảo lãnh) với lý do trần tình: “Tôi không bao giờ muốn rời bỏ quê hương nhưng họ đã không cho tôi một lối thoát, họ cắt niềm đam mê diễn xuất của tôi, cấm không cho tôi đóng phim, nhục mạ gia đình tôi…”
Tuy nhiên qua Mỹ rồi nhiều năm vẫn chẳng thấy xuấùt hiện đóng phim gì nữa cũng như ước mơ cùng bạn bè lập một hãng phim riêng không thành. Có thể vì không chọn được phim hay vai phù hợp như tự giải thích hoặc do đã mất “giá trị thời sự” rồi?
Thay vào đó cuộc sống riêng lại bị mang tai tiếng về chuyện tình yêu, hôn nhân. Đầu tiên là chuyện năm 2008 cưới vợ mới là một bà chủ thẩm mỹ viện có cổ phần trong Thúy Nga Paris đã 64 tuổi (lớn hơn 14 tuổi, nguyên là phát thanh viên đài Sài Gòn chế độ cũ), từ đó dẫn đến vụ một ngươì tình cũ cũng là một nữ doanh nhân Việt kiều khác đâm đơn kiện ra tòa về tội lường gạt cả tình lẫn tiền (tống tiền).
Năm 2009 toà án Mỹ xử vắng mặt phải bồi thường 200.000 USD nhưng kháng cáo nên vài tháng sau tòa lại… hủy án!

433 - Lina Tăng
CON LAI TÌM CHA TRÊN ĐẤT MỸ
Thợ làm móng Việt kiều tên thật Tăng Hoàng Yên sinh 1959 tại Nha Trang. Sống ở Mỹ (2010).
Khi mẹ có thai mình thì cha là một lính Mỹ đã về nước. Vì vậy sinh ra và lớn lên với nỗi mặc cảm nặng nề vừa là con hoang vừa là con lai (da trắng).
Lên 6 tuổi thì mẹ lấy chồng khác nên phải về Cà Mau sống với cha mẹ nuôi. Sau đó lớn lên làm nghề buôn bán lặt vặt qua ngày, lấy chồng sinh được một con trai.
Mãi đến năm 1994 cả gia đình được đi Mỹ theo diện con lai. Định cư ở bang North Carolina vợ làm nghề làm móng (nail), chồng thợ hớt tóc, sinh thêm được một con gái nữa.
Năm 2000 và 2006 về thăm quê nhà được mẹ khuyến khích tìm cha ở Mỹ để cho con “lấp khoảng trống hụt hẫng trong lòng lâu nay”. Vì thế đã lên mặng đăng ký nhờ một website chuyên tìm ngươì thân ở Mỹ giúp đỡ.
Kết quả giữa năm 2010 cuối cùøng đã truy ra được ngươì cha nay đang ở bang Tennessee chỉ cách mình 7 tiếng đồøng hồ chạy xe.
Lúc đó ngươì cha mới bộc bạch khi lên đường quay về Mỹ không hề hay biết mình đã để lại giọt máu ruột thịt ở VN và bây giờ ông sẽ làm tất cả những gì có thể để chuộc lại sự “vô tâm” kéo dài đăng đẳng 41 năm.

434 - Linda Lê
ÁM ẢNH NGƯỜI LƯU VONG TÂM THẦN
Nhà văn nữ Việt kiều Pháp sinh 1963 tại Đà Lạt. Sống ở Pháp (2010).
Cha kỹ sư gốc Bắc, mẹ thuộc gia đình quý tộc mang quốc tịch Pháp nên từ nhỏ đã học trường Tây “nói tiếng Pháp giỏi hơn tiếng Việt”.
Năm 1968 đã tận mắt chứng kiến cảnh chết chóc thảm khốc trong trận chiến Mậu Thân tại Đà Lạt nên từ đó mang mối ám ảnh chết chóc kéo dài đến sau này cả khi đã trưởng thành trở thành nhà văn: “Tôi có cảm giác mang trong mình một xác chết. Chắc chắn đó chính là Việt Nam mà tôi mang trong mình như xác chết một đứa trẻ.”
Sau biến cố đó, để “chạy trốn” chiến tranh cả gia đình về Sài Gòn sống. Nhưng tại đây tuổi thơ lại bị một tổn thấùt nữa là cha mẹ chia tay nhau, sống với mẹ dù rất thương cha, người được mình xem như đã “tạo nên huyết mạch trong dòng máu văn chương chảy trong tôi”.
Sau ngày giải phóng miền Nam, năm 1977 nhờ quốc tịch Pháp nên mẹ và bà ngoại được qua Pháp mang theo ba chị em. Ra đi với nỗi buồn thương người cha vẫn ở lại: “Tôi buồn đến mức có cảm giác một phần con người mình đã ở lại VN.”
Tại Pháp học ngành văn chương ở những trường nổi tiếng như Henry IV, Sorbonne… Từ đó đi vào con đường văn chương, làm biên tập nhà xuất bản rồi bắt đầu sáng tác truyện ngắn và tiểu thuyết, viết tiểu luận, tất cả đều bằng tiếng Pháp. Năm 1986 xuất bản tác phẩm đầu tiên “Sự dịu dàng của ma cà rồng”. Tiếp theo là nhiều tiểu thuyết, tập truyện khác đều đặn ra mắt gồm “Phúc âm tội ác” 1992, “Vu khống” 1993, “Lời nói của kẻ khờ” 1995, “Ba số mệnh” 1997, “Thư chết” 1999, “Rạng đông” 2000, “Lại chơi với lửa” 2002, “Mặc cảm Caliban”, “Hồi tưởng” 2007, “Tìm điều mới mẻ” 2009… Đã được trao tặng giải uy tín Femina, giải của Viện Hàn lâm Pháp… Tổng cộng 18 tác phẩm đã in tại Pháp, có truyện được dịch ra tiếng Anh.
Không thể không thấy dấu ấn cuộc đời bản thân trong tác phẩm từ mẫu nhân vật quen thuộc đến chủ đề khai thác. Trước hết đó là nhân vật lưu vong sống trên một quê hương xa lạ khó hòa nhập được kể cả tiếng nói và cả chữ nghĩa như bản thân mình gần như đã quên hết tiếng Việt nên phải “viết bằng một thứ tiếng không phải bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của mình khác nào làm tình với xác chết.” Aáy lại là những người có tâm lý bất ổn định, như người tâm thần, có khi thành người điên, người tự tử luôn!
Những nhân vật đó luôn sống trong mối ám ảnh về cái chết, sự tan rã, phân hủy; sống với nỗi cô đơn và những cơn ác mộng giằng xe tâm hồn. Trong khung cảnh, không khí của nhà xác, bệnh viện tâm thần…
Tất cả được thể hiện bằng một kỹ thuật hiện đại, bút pháp tinh tế, đậm chất suy tư, phân tích sâu sắc – hơi khó đọc - được giới phê bình quốc tế ví như một “bài diễn văn tang lễ khổng lồ”. Gợi nhớ đến nhà văn nữ Pháp cấp tiến nổi tiếng quá cố Marguerite Duras, người cũng từng trải qua thời tuổi trẻ ở nước VN thuộc địa Pháp những năm đầu thế kỷ 20, từ đó về Pháp viết nên thiên tình sử “Người tình” (L’amant, được đạo diễn Pháp J.J.Arnaud chuyển thành phim năm 1992, bộ phim nước ngoài đầu tiên quay ở VN sau chiến tranh chống Mỹ).
Bản thân cũng được mô tả là người thích sống ẩn dật, trốn tránh đám đông cũng như những vinh quang phù hoa. Năm 1995 sau khi về nước đưa tang người cha thân thương (suốt thời gian qua chỉ thư từ chưa hề gặp mặt, cha định qua thăm thì bệnh qua đời) từng bị khủng hoảng khiến quay lại Pháp phải vào viện điều trị tâm lý.
Chỉ le lói chút ánh sáng hy vọng cho mình – tự nhận làø người “sáng suốt chứ không bi quan” – là mối hoài cảm về quê hương tìm lại, thiên đường ấu thơ của mình: “Người lưu vong không được biết và không thể biết về Đất Nước của mình đã bị buộc phải lìa bỏ nhưng khao khát muốn biết và nỗi nhớ vô hình về nơi chốn ấy khiến nó trở nên thiêng liêng ngay cả trong nỗi buồn và sự tuyệt vọng. Chính vì vậy tôi cố ý viết hoa từ Đất Nước.”
Năm 2010 đã trở về giao lưu với độc giả đồng bào nhân ra mắt tác phẩm thứ ba được dịch ra tiếng Việt (tác phẩm dịch đầu tiên năm 1989 ở miền Nam).

435 - Nguyễn Viết Vĩnh
LIỆT SĨ SỐNG LẠI 18
Thương binh sinh 1948 tại Hải Phòng. Sống ở Hải Phòng (2010).
Vào bộ đội Hải quân năm 1965, được đưa vào chiến trường Cửa Việt ở Quảng Trị làm nhiệm vụ đánh tàu Mỹ. Năm 1968 trong một lần chuẩn bị bộc phá đánh tàu bị nổ làm văng mất xác nên được đơn vị báo về quê đã hy sinh.
Nhưng thực ra vẫn còn sống, bị địch bắt trong tình trạng thương tích đầy mình, nặng nhất là ở đầu. Bị chuyển vào giam ở Đà Nẵng rồi ra nhà tù Phú Quốc. Trong thời gian này do cứng đầu chống đôi nên bị tra tấn dữ làm toàn thân gần như tê liệt, đầu óc mụ mẫm hết.
Năm 1973 được trao trả tù binh về Nam Hà (cũ) an dưỡng rồi xuất ngũ một năm sau. Nhưng không về quê do nghe tin bố mẹ đã chết không còn ai nên ở lại TP Hải Phòng xin làm công nhân.
Sau 75 nhân một lần đi thu mua hàng ở quê mới biết bố còn sống nên lúc đó mới quay về “thanh minh” mình còn sống chứ chưa phải là liệt sĩ!
Sau đó sống yên ổn ở quê lấy vợ đẻ con bình thường. Tuy nhiên hoàn toàn chưa được hưởng chế độ gì bởi hầu như không còn nhớ gì hết về quảng thời gian chiến đấu ở Quảng Trị rồi bị bắt thế nào.
Mãi đến năm 2006 nhân xem chương trình truyền hình kỷ niệm lực lượng Hải quân trong đó có hình ảnh vùng Cửa Việt ngày xưa mới dần dần gợi nhớ lại tất cả. Tuy vậy đến nay vẫn chưa được ai quan tâm lo cho chế độ dù hoàn cảnh gia đình rất khó khăn chỉ sống dựa vào bà vợ một mình gồng gánh nuôi chồng phát bệnh từ thời chiến tranh đã xa rồi hàng chục năm.

436 - Nguyễn Việt Chiến
NHÀ BÁO “HY SINH” VÌ CHỐNG TIÊU CỰC
Nhà báo sinh 1949 tại miền Bắc. Sống ở Hà Nội (2010).
Từng vào bộ đội gần cuối cuộc chiến. Hòa bình lập lại xuất ngũ gia nhập làng báo thủ đô. Ngoài làm báo còn làm thơ, viết truyện ngắn, bình thơ.
Nhưng được biết hơn cả qua nhiều bài điều tra phóng sự “đánh” tiêu cực xã hội (đối tượng thường là cán bộ lãnh đạo cấp cao) thập niên 90 trở đi trên báo Thanh Niên. Tuy nhiên phải trả giá khá đắt khi bị bắt ra tòa năm 2008 với tội danh viết bài chống tiêu cực thiếu chứng cứ khiến trở thành gây phản ứng dư luận không đúng. Báo chí bênh vực nhưng phản ứng chính quyền không ăn thua, thậm chí lãnh đạo báo còn bị kỷ luật nội bộ. Đành lãnh án tù nhưng khoảng hơn một năm sau được đặc xá!
Mới 40 tuổi mà đã “già đi nhanh chóng” với trong người còn nhiều chứng bệnh để lại từ một thời máu lửa. Nhưng vẫn tâm sự rằng mình “đã được sống một cuộc đời hữu ích” bởi lịch sử chưa nói lời cuối cùng:
“những ngọn sóng đất đai lưu giữ mọi thăng trầm
người chép sử nghìn năm là bùn đất
kiên trì và nhẫn nại
máu của người là mực viết thời gian.”
(Thời đất nước gian lao).

437 - Nguyễn Việt Yên
NGUỜI ĐI BẰNG… 2 ĐẦU GỐI
Người khuyết tật sinh 1978 tại Bắc Ninh. Sống ở Bắc Ninh (2006).
Bố là bộ đội chiến đấu trên chiến trường Tây Ninh những năm 1960. Sau 75 ra quân về quê lấy vợ nhưng sau khi sinh con được hơn một năm rưỡi, thấy con bị di chứng CĐDC thành dị dạng với 2 chân co lại cong queo rất kỳ quái nên chán đời bỏ nhà bỏ 2 mẹ con ra đi mất dạng!
Còn lại một mình mẹ vẫn cố cưu mang con, cõøng con đi học hết cấp tiểu học, khi lên cấp 3 thì thuê phòng trọ cho ở gần trường để con có thể đến trường bằng cách lết đi… trên 2 đầu gối.
Tốt nghiệp trung học liền lên Hà Nội học nghề vô tuyến điện tử, may được một thầy giáo ở ĐH Bách khoa thương cảm đón về nhà dạy học nghề này miễn phí trong 3 năm. Được một trại thương binh tặng cho chiếc xe lăn đẩy tay để thoát khỏi cảnh đi bằng 2 đầu gối, mừng quá tới mức có lúc tự “đẩy lái” xe về quê thăm mẹ đi từ 2 giờ sáng đến 9 giờ mới tới nơi!.
Học thành nghề rồi mới về quê mở cửa hàng sửa chữa đồ điện tử vô tuyến.
Từ năm 2001 quen biết với một cô gái ở làng bên và giữa 2 người đã chớm nở tình yêu. Dù bị gia đình ngăn cản nhưng cuối cùng cô gái vẫn quyết định chấp nhận gắn đời mình với chàng trai có 2 chân mà cũng như không này và đám cưới đã diễn ra đầu năm 2007.
Trong đám cưới có mặt… người cha đau khổ đã bỏ ra đi ngày nào nay trở về chứng kiến ngày vui của đứa con bất hạnh đã tìm thấy hạnh phúc và niềm tin yêu cuộc sống song ông… chẳng dám nán lại lâu!

438 - Nguyễn Vĩnh Nghiệp
“ÔNG BỤT CỦA NGƯỜI NGHÈO”
Cán bộ về hưu sinh 1930 tại Cà Mau – Mất 2007 ở TPHCM (78 tuổi).
Là cán bộ lãnh đạo – bí danh “Sáu Tường” - từng làm Chủ tịch UBND TPHCM sau một quá trình đấu tranh nội bộ không kém phần khó khăn, trắc trở (bị nghi ngờ “đầu hàng” địch khi bị bắt giam những năm 60). Sau được “minh oan” đưa lên làm Chủ tịch TP và trong thời thời gian đó có công mở đường xây dựng huyện Duyên Hải, khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng, Viện tim TP…
Tuy nhiên chỉ được hơn 3 năm (1989-1994) thì xin từ nhiệm vì mắc bệnh viêm thanh quản mãn tính nói năng khó khăn.
Nhưng đó lại là bước ngoặt diệu kỳ trong cuộc đời, sự nghiệp khi quay qua tập trung sức lực, trí tuệ cho công việc xây dựng phong trào làm từ thiện giúp đỡ đồng bào nghèo khắp nơi, một trong những hậu quả chiến tranh để lại di chứng quá nhiều – bắt đầu từ Hội Bảo trợ bệnh nhân nghèo TPHCM. Từ đó được nhiều người biết tiếng như là một “Anh hùng của dân nghèo” còn hơn thời làm Chủ tịch Thành phố!
Không còn quyền lực vẫõn không ngại đi làm công việc “xin tiền” làm từ thiện khắp nơi với nhiều chương trình, dự án thành công như vận động mổ mắt miễn phí, tài trợ mổ tim cho trẻ em nghèo, học bổng cho sinh viên nghèo… khắp mọi miền đất nước, qua cả nước bạn Lào và Campuchia. Từ hạt nhân này, phong trào ngày càng lớn mạnh cả nước (sau đó thêm cuộc vận động làm “Đám tang từ thiện”), lan ra tận nước ngoài ghi một nét son trong lịch sử thời Hậu chiến VN.
Riêng người đi đầøu sáng lập ra nó thì mang trong người 2 căn bệnh ác tính – ngoài viêm thanh quản còn ung thư tủy sống – nhưng vẫn nhịn đau ngày đêm đi làm từ thiện với chỉ vài viên thuốc Anagin rẻ tiền mang theo trong va li lên đường. Bởi với ông: “Cuộc sống hòa bình hôm nay đã phải đổi biết bao xương máu, nước mắt của đồøng bào, đồng đội… Giải phóng đã mấy chục năm nhiều nơi đồng bào vẫn còn khổ quá. Nên còn sức thì phải ráng làm để trả ơn phần nào những người đã cưu mang mình…”
Vàø còn thêm một nỗi đau giấùu kín trong lòng là người con trai duy nhất (trong 5 người con) là cháu đích tôn duy nhất (mình cũng là con trai duy nhất) đi bộ đội đã hy sinh năm 1987 khi làm nhiệm vụ ở biên giới Tây Nam lúc mới 19 tuổi với người cha đang là một “ông lớn” ở thành phố. Bởi người cha đó đã chấp nhận từ trước: “Chiến tranh cay nghiệt với mọi người, mình không thể bảo vệ con mình để con người khác phải hy sinh…”

439 - Nguyễn Xuân Dũng
BẬC THẦY KARATE CÒN NẶNG NỢ ĐỜI
Võ sư sinh khoảng 1945 tại Huế – Mất 2007 ở Mỹ (63 tuổi).
Từ nhỏ đã đi tu làm chú tiểu trong chùa Diệu Đế ở Huế. Năm 13 tuổi cơ duyên gặp được võ sư karate người Nhật Suzuki nhận làm đệ tử chân truyền tại Huế, một trung tâm xuất phát quan trọng môn võ này ở VN. Năm 20 tuổi được cử làm trưởng tràng đời thứ hai Karate Huế.
Từ đó năm 1970 bắt đầu vào Sài Gòn lập võ đường dạy đệ tử thu hút cả ngàn môn sinh kể cả người nước ngoài. Vươn lên tầm cỡ huyền đai đệ bát đẳng karate quốc tế.
Sự biến 30.4.75 xảy ra làm cả gia đình phải di tản qua Mỹ.
Trên đất Mỹ tạm gác sự nghiệp võ thuậât qua một bên lao vào học ngành điện tử. Tốt nghiệp kỹ sư điện tử ra thành lập công ty làm hàng điện tử gia công rồi dần dần phát tiển thành công thiết kế hệ thống máy tính AT thế hệ mới và sản xuất bản mạch in điện tử đạt doanh số hơn 30 triệu USD/năm, tạo công ăn việc làm cho trên 200 công nhân. Song song đó còn nghiên cứu, bảo vệ thành công luận án tiến sĩ ngành quản trị
Năm 1994 quay về nước đầu tư làm một công nghệ dây chuyền điện tử đầu tiên về hàn, dán linh kiện điện tử. Và chính lần quy cố hương này đã mở ra bước ngoặt mới trong cuộc đời gợi nhớ lại thời vàng son theo nghiệp tổ karate.
Từ đó giao hẳn công việc kinh doanh cho gia đình, cộng sự quyết “rửa tay gác kiếm” chốn thương trường để quay về với võ học. Được mời làm Chủ tịch Hội Nghiên cứu võ học thế giới. rồi từ karate Nhật Bản chuyển qua tìm hiểu đạo thiền vốn xuất xứ từ đạo Zen Nhật gần gũi với đạo Phật. Được một chân sư pháp môn thiền đặt cho pháp danh Tuệ Hải.
Cảm hứng mới đã giúp dịch và chú giải một bộ kỳ thư của tác giả thiền nổi tiếng Nhật Bản. Và từ dòng cảm xúc đó, trong một chuyến về nước đã ngồi ở khách sạn viết một mạch tập sách nửa tự thuật nửa cảm nghĩ võ học - đạo học mang tên “Gió về Tùng môn trang” nhắc nhớ nhiều kỷ niệm thời thơ ấu ở Đà Lạt tạo được nhiều ấn tượng nơi người đọc.
Tuy nhiên cát bụi trần gian vẫn còn vướng gót chân người tưởng đã ngoảnh mặt với trần thế lại đẩy ông quay lại với công việc kinh doanh định tổ chức đầu tư tài chính vào VN. Một công việc “phản thiền” nhanh chóng đưa đến kết quả bất ngờ bị đột quỵ qua đời ngay trước khi chuẩn bị lên máy bay về nước ký kết hợp đồng!

440 - Nguyễn Xuân Hùng
LÀM HÀNG TRĂM BÀI THƠ VỀ LIỆT SĨ
Công chức về hưu sinh 1941 tại miền Bắc. Sống ở Hà Tây (2006).
Đã tham gia cả 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Sau 75 chuyển qua làm công chức Bộ Công nghiệp.
Năm 1981 về hưu từ đó có thì giờ rảnh rỗi mới nảy ra ý sưu tầm tài liệu về các liệt sĩ đã hy sinh trong chiến tranh làm cơ sở để sáng tác thơ ca ngợi từng người. Xong gửi theo đường bưu diện đến địa chỉ gia đình, thân nhân liệt sĩ mà mình sưu tầm được, xem như để “làm một điều gì đó thật ý nghĩa để xoa dịu một phần những nỗi đau mà chiến tranh gây ra.”
Hơn 25 năm làm nhà thơ nghiệp dư không biết đã viết bao nhiêu bài thơ đơn sơ mộc mạc như vậy:
“… Trong đêm đen lưới đạn giặc như nêm
Nữ bác sĩ máu đầm mình ngã xuống
Trước đạn hung thù dưới tuổi ba mươi…”
(về Đặng Thùy Trâm)
Nhưng kết quả rất được các người thân liệt sĩ từ nhiều tỉnh thành trong cả nước biết ơn, trả lời cảm tạ tấm lòng của ông đã giúp họ khuây khỏa đôi chút về nỗi mất mát lớn của gia đình mình. Thậm chí, một số gia đình nhờ đó còn xin được cung cấp thêm chi tiết về tin tức liệt sĩ mất tích – từ tài liệu ông có được – để lên đường đi tìm phần mộ, hài cốt thân nhân vẫn chưa tìm thấy sau chiến tranh.
(Còn tiếp)

Thứ Năm, 28 tháng 10, 2010

Ở CUỘC MƠ HỒ - HOÀNG LỘC


tình kia đã tới nước này
kể như khóc mướn thương vay đã đành
nhớ người sảng sốt đời anh
nhớ chi cả những thứ mình lãng quên
0
leo gần tới chỗ chênh vênh
bỗng dưng tuột xuống đáy ghềnh
chẳng may ?tình kia phải chịu nước này
thì em cũng đã buông tay mất rồi
0
ta về đắng ngắt bờ môi
câu thơ bỗng khác ý lời của thơ
mới hay suốt cuộc mơ hồ
yêu em mà chẳng bao giờ có em…

HL

Thứ Tư, 27 tháng 10, 2010

PHƠI TRẢI THU SANG - CAO THOẠI CHÂU

Khi cái lạnh quay về bất chợt
Anh cũng tự cho mình một chút hoang mang
Những bến bãi giờ này hiu quạnh nhất
Dăm cánh cò tư lự ven sông
0
Hồn anh cũng tự nhiên đầy sóng vỗ
Chao đảo như đang có một con thuyền
Tự nhiên muốn đi tìm bến đỗ
Phút khởi hành thấy thiếu một dòng sông
0
Tình thu sầu làm mọi thứ hoang mang
Không hẹn mà trở về đúng lúc
Thậm chí đúng trong từng giây phút
Cùng với lòng phơi trải lúc thu sang
0
Anh lặng nghe cơn gió sớm lên đường
Cuộc chia tay với hàng cây lặng lẽ
Em hỡi,mình anh còn lại đó
Đất trời quạnh quẽ một mình anh
CTC

Chủ Nhật, 24 tháng 10, 2010

MAI MỐT ANH TRỞ VỀ - CAO TẦN


Mai mốt anh về có thằng túm hỏi
Mày qua bên Mỹ học được củ gì
Muốn biết tài nhau đưa ông cây chổi
Nói mày hay ông thượng đẳng cu li

Ông rửa bát chì hơn bà nội trợ
Ông quét nhà sạch hơn em bé ngoan
Ngày ngày phóng xe như thằng phải gió
Đêm về nằm vùi nước mắt chứa chan

Nghệ thuật nói bỗng hóa trò lao động
Thằng nào nói nhiều thằng ấy tay to
Tiếng mẹ thường chỉ dùng chửi đổng
Hay những đêm sầu tí toáy làm thơ

Ông học được Mỹ đất trời bát ngát
Nhưng tình người nhỏ hơn que tăm
Nhiều đứa hồn nhiên giống bầy trẻ nít
Còn hồn ông: già cốc cỡ nghìn năm

Bài học lớn từ khi đến Mỹ
Là ngày đêm thương nước mênh mang
Thù hận bọn làm nước ông nghèo xí
Hận gấp nghìn lần khi chúng đánh ông văng

Nếu mai mốt bỗng đổi đời phen nữa
Ông anh hùng ông cứu được quê hương
Ông sẽ mở ra nghìn lò cải tạo
Lùa cả nước vào học tập yêu thương

Cuộc chiến cũ sẽ coi là tiền kiếp
Phản động gì cũng chỉ sống trăm năm
Bồ bịch hết không đứa nào là ngụy
Thắng vinh quang mà bại cũng anh hùng
Tháng 3-77
CT

Thứ Bảy, 23 tháng 10, 2010

ĐÊM SAY - NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO



Thì anh cứ trở về nghiêng chén xuống dòng sông
Thời gian xõa tóc sau bờ vai bối rối

Anh mắc nợ một đời trai trẻ
Khi trên đầu tóc đã điểm màu sương

Những kỷ niệm thơ trinh từ thuở giảng đường
Chực trở về gọi tên rối rít...

Khi Huế đã vào xuân
Dòng sông trầm tư chảy ngược thời quên - nhớ

Em
Mái tóc dài mắc nợ
Một đời anh

Nếu mai anh có về
Đêm say đừng nghiêng chén
Dòng Hương in bóng hình em còn trẻ
Vẫn một mái tóc dài
Buông thả đắm say anh
NTAĐ

Thứ Sáu, 22 tháng 10, 2010

NGUYÊN PHÓ CHỦ TỊCH NƯỚC NGUYỄN THỊ BÌNH KIẾN NGHỊ DỪNG VIỆC KHAI THÁC BAUXIT Ở TÂY NGUYÊN

Trước khi ĐBQH Dương Trung Quốc gửi thư kiến nghị về dự án bauxite, nhiều trí thức, nhà khoa học đã tham gia ký tên vào Bản kiến nghị yêu cầu ngưng khai thác bauxite ở Tây Nguyên. Một trong những người tham gia ký bản kiến nghị đó là nguyên Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình. Trao đổi với PV Thanh Niên, bà Bình khẳng định từ trước tới nay bà vẫn giữ quan điểm cần nghiên cứu xem xét kỹ lưỡng vấn đề khai thác bauxite ở Tây Nguyên.
Cũng tham gia ký tên vào bản kiến nghị trên, ông Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Bộ TN-MT, cho biết bản kiến nghị nêu ra 5 yêu cầu chính, như quyết định ngưng ngay việc xây dựng Nhà máy Tân Rai ở Lâm Đồng để nghiên cứu tiếp cách xử lý; tạm hủy DA đang đàm phán với đối tác nước ngoài về Nhà máy Nhân Cơ ở Đắk Nông; tạm thời đình chỉ việc triển khai toàn bộ tổng DA hiện thời về việc khai thác bauxite ở Tây Nguyên để tổ chức nghiên cứu lại một cách khoa học; lập nhóm nghiên cứu độc lập với những nhà khoa học, các chuyên gia có uy tín, các nhà hoạt động xã hội độc lập nghiên cứu lại toàn bộ vấn đề bauxite Tây Nguyên và cuối cùng là những kết quả nghiên cứu này cần được trình bày trước QH và đem ra trưng cầu ý kiến nhân dân.
Theo ông Võ, các nước lớn hiện nay có chính sách đóng cửa khai thác tài nguyên trong nước, đi mua tài nguyên thô của các nước nghèo. “Nhưng VN đã thoát khỏi nước nghèo và trở thành nước có thu nhập trung bình. Chúng ta không nhất thiết phải bán quặng thô”, ông Võ nhìn nhận.
Mai Hà (TNO)

Thứ Năm, 21 tháng 10, 2010

CAO HUY KHANH - VIỆT NAM HỒ SƠ HẬU CHIẾN 1975 - 2010 (KỲ 42 )


NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ

421- Má Mười
NUÔI 125 TRẺ MỒ CÔI, KHUYẾT TẬT
Cán bộ về hưu tên thật Trần Thị Cẩm Giang sinh 1938 tại Sài Gòn. Sống ở TPHCM (2010).
Sinh ra trên quê hương đất thép Củ Chi nên từ năm 14 tuổi đã vào mật khu làm giao liên cộng sản. Lấy chồng cũng du kích sinh con dưới địa đạo.
Năm 1973 bị địch bắt, giam cầm qua nhiều nhà tù ở Sài Gòn, đến ngày giải phóng mới được giải thoát.
Sau 75 mới bắt đầu học chữ để làm cán bộ.
Về hưu quay về quê Củ Chi sống trong căn nhà dòng tộc để lại từ đời xưa. Đáng lẽ nghỉ ngơi tuổi già nhưng nhìn ra chung quanh chạnh lòng thấy có quá nhiều trường hợp trẻ em mồ côi, khuyết tật hậu quả chiến tranh bị nhẫn tâm bỏ rơi nên mới nhận nuôi vài trẻ em nghèo trong xóm. Rồi thêm vài đứa nữa gom nhặt bên đường.
Không ngờ tiếng lành đồn xa “Má Mười” nuôi trẻ bất hạnh vô gia cư nên dần dà có nhiều người, nhiều nơi đem trẻ mồ côi, khuyết tật tìm được đây đó đem đến không thể không nhận. Thậm chí có bà mẹ sinh xong không nuôi nổi đã lén đem đặt con… trước cửa nhà nhờ nuôi giùm!
Từ đó năm 2002 mở rộng căn nhà ở quê của mình thành một trung tâm nuôi dưỡng trẻ mồ côi, khuyết tật bị bỏ rơi đặt tên là “Mái ấm Thiện Duyên”. Tính đến nay tổng cộng có đến 125 em như vậy cùng sống chung dưới một mái nhà làng. Trong số này có 73 em bị bại não nằm một chỗ, khoảng hơn 30 em bị khuyết tật nhẹ được cho đi học đàng hoàng.
Để gồng gánh cả đàn con nuôi như thế, bản thân dù già cả rồi vẫn làm việc tối ngày kiếm tiền lo cho các con, làm đủ thứ nghề từ làm tương chao, muối tiêu đến nuôi heo, nuôi dế, trồng nấm… Cũng may đuợc nhiều đoàn từ thiện tìm đến thăm viếng, giúp đỡ. Cả hàng xóm láng giềng cũng xúm vô phụ má một tay. Phần má chỉ cầu mong “Trời thương cho má ít bệnh tật để má làm lụng…”

422 - Ngô Quang Kiệt
TỔNG GIÁM MỤC CHỐNG TIÊU CỰC
Tu sĩ Thiên Chúa giáo sinh 1952 tại Lạng Sơn. Sống ở Hà Nội (2010).
Năm 1954 theo làn sóng di cư vào Nam, tu học tại Long Xuyên và phục vụ ở nhà thờ chánh tòa Long Xuyên.
Sau 1975 tiếp tục làm công việc mục vụ cũ, đến 1991 được thụ phong linh mục cũng tại Long Xuyên. Năm 1993 được đưa đi đào tạo tại Học viện Công giáo ở Paris - Pháp tốt nghiệp tiến sĩ triết học và thần học. Trở về nước, năm 1999 được đề bạt về làm giám mục ở quê hương cũ Lạng Sơn và Cao Bằng.
Thuộc thế hệ trẻ được đặt nhiều kỳ vọng nên năm 2003 được giao kiêm luôn giám quản địa phận Hà Nội để đến năm 2005 chính thức được Vatican bổ nhiệm làm Tổng Giám mục Hà Nội kiêm Tổng Thư ký Hội đồng Giám mục VN.
Trở thành nhân vật cao cấp thứ tư trong hàng giáo phẩm Công giáo VN lại tương đối trẻ nên hoạt động rất nhiệt tình, năng động, thực tế luôn cố gắng sâu sát gần gũi với đời sống, tâm tư nguyện vọng giáo dân. Hết lòng đấu tranh vì quyền lợi giáo dân, giáo hội dù có khi phải đối đầu với chính quyền: “Tự do tôn giáo là quyền, không phải là cái ân huệ xin-cho”.
Từ đó từ cuối năm 2007 đã tham gia đấu tranh – dưới nhiều hình thức – chống các tệ nạn tiêu cực của cán bộ quan chức có dấu hiệu tham nhũng, đặc biệt trong lĩnh vực đất đai đang là “cơn sốt” thời này. Trong đó nổi cộm có việc đòi lại một số cơ sở, đất đai trước kia thuộc quyền sở hữu của giáo phận Hà Nội sau này bị Nhà nước trưng dụng nhưng nay có nguy cơ bị biến thành tài sản tư nhân hoặc sử dụng sai mục đích thay vì phải phục vụ cho lợi ích cộng đồng.
Cuộc đấu tranh lên đến cao điểm vào năm 2009 gây thành một phong trào chống đối nguy hiểm kéo theo giáo dân nhiều tỉnh khác đẩy mâu thuẫn với chính quyền Hà Nội thành nặng nề. Từ đó nhân một lời phát biểu thiếu cẩn trọng đã bị phía “đối tác” cố tình xuyên tạc gây phản ứng của dư luận làm mối quan hệ giữa Giáo hội và Nhà nước bị đe dọa căng thẳng mất đoàn kết.
Ngoài ra hẳn là cũng vì thế mà dù giữ cương vị ứng cử viên (TGM Hà Nội giáo phận lớn nhất miền Bắc) vẫn không được Vatican tấn phong hồng y (phải có sự đồng ý của Nhà nước VN) thay Hồng y Phạm Đình Tụng của miền Bắc vừa qua đời theo đúng tiêu chuẩn mỗi miền một hồng y
Từ đó tháng 5.2010 đành gửi đơn từ chức lên Vatican với lý do sức khoẻ và được chấp nhận cho qua Roma chữa bệnh. Lặng lẽ ra đi với lời xin lỗi gửi lại giáo dân yêu quý mình: “Tôi đã làm tất cả vì lợi ích của Giáo hội… Tôi không bị áp lực gì, chỉ bị áp lực của lương tâm, trách nhiệm.”
Đây được xem là kết quả cuộc gặp gỡ giữa Chủ tịch Nước và Giáo hoàng Jean-Paul II vào cuối năm 2009! Cũng có thể từ đó tân TGM Hà Nội - Chủ tịch Hội đồng Giám mục VN Nguyễn Văn Nhơn lên thay dù đã 72 tuổi so với người tiền nhiệm chỉ mới 58 tuổi - sẽ được tấn phong hồng y bảo đảm đúng tiêu chuẩn VN có 2 hồng y.
Dù sao cũng may mắn là nguyên TGM “đòi đất” này không giống trường hợp TGM Nguyễn Văn Thuận trước đây đi Roma chữa bệnh rồi bị… cấm trở về nước. Bản thân ông đã quay lại Hà Nội tháng 8.2010 để sống đời… hưu trí!

423 - Nguyễn Văn Thuấn
LIỆT SĨ SỐNG LẠI 17
Nông dân sinh 1957 tại Thái Bình. Sống ở Thái Bình (2006).
Bộ đội tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng miền Nam, sau đó còn tiếp tục chiến đấu trên mặt trận Campuchia.
Năm 1977 trong một trận đánh bị trúng đạn vào gáy bất tỉnh trong khi đồng đội chưa kịp biết thì được một người dân Campuchia nhân hậu cứu đem về nhà săn sóc, chữa trị rồi nhận làm con nuôi.
Từ đó trở thành giống như người Campuchia luôn từ cách ăn mặc đến nói năng, hàng ngày đi rừng kiếm củi, giăng câu kéo lưới phụ giúp bố nuôi ở vùng Biển Hồ.
Nhưng vết thương quá nặng gây nên mất trí nhớ. Còn ở quê nhà đến năm 1992 mới có giấy báo tử liệt sĩ.
Đến năm 1995 với mảnh đạn vẫn còn ghim trong đầu mới bắt đầu hồi phục trí nhớ chút đỉnh. Muốn tìm về lại VN nhưng không có tiền.
Mãi đến năm 2000 mới gom đủ tiền được cha nuôi đưa ra tận bến xe về TPHCM rồi ngược đường ra Bắc. Một mình lặn lội tìm về tận làng xưa, ban đầu không ai nhận ra kể cả người em ruột do đã 26 năm xa cách (nay chỉ còn cân nặng 39kg), hơn nữa tưởng đã hy sinh rồi.
Nhờ sự giúp đỡ của gia đình, hàng xóm, bạn bè lấy được vợ là cô giáo sinh được một con trai dù khi làm đám cưới không làm được giấy đăng ký kết hôn do… không còn giấy tờ tùy thân nào cả! Ngay giấy CMND cũng phải 2 năm sau mới làm được. Riêng chế dộ thương binh thì thủ tục quá nhiêu khê gian nan nên đành… chịu!

424 - Nguyễn Văn Trung
TAN VỠ ẢO TƯỞNG “TRÍ THỨC DẤN THÂN”
Giáo sư đại học, nhà nghiên cứu văn hóa đa năng sinh 1930 tại Hà Nam. Sống ở Canada (2010).
Là người Công giáo di cư vào Nam 1954 nên sau đó được đi du học ở ĐH Công giáo Bỉ, Pháp lấy bằng triết học rồi về nước dạy đại học ở Huế và Sài Gòn (từng làm khoa trưởng Văn khoa Sài Gòn).
Vừa dạy học vừa viết báo khởi đầu từ tạp chí Đại học của ĐH Huế rồi khi chuyển vào Sài Gòn ra sách và tham gia thành lập một số tạp chí theo khuynh hướng tiến bộ như Đất Nước, Hành Trình…
Là một chuyên gia về nhà văn và nhà tư tưởng hiện sinh lớn Jean-Paul Sartre của Pháp, đã góp phần truyền bá tác phẩm cũng như triết lý của bậc thầy này qua nhiều cuốn sách “chuyển ngữ” khôn khéo, dễ đọc các tác phẩm của Sartre. Từ việc phổ biến Sartre đến gần như “nhập tâm” làm luôn theo Satre trong quá trình 2 giai đoạn đời người sống và viết - từ giai đoạn đầu hiện sinh bi quan về thân phận con người đến giai đoạn sau chuyển biến qua cấp tiến thiên tả kêu gọi đấu tranh giải phóng con người khỏi áp bức xã hội.
Bản thân đã trải qua những chuyển biến tương tự như bậc thầy của mình, nhất là trong giai đoạn sau ở Sài Gòn cổ vũ cho triết lý “trí thức dấn thân” cụ thể hóa trong xã hội miền Nam từ cuối những năm 1960 là chống chế độ Thiệu – Kỳ theo Mỹ, phê phán Công giáo vọng ngoại theo Pháp, có cảm tình với Mặt trận Giải phóng miền Nam nói riêng, cộng sản nói chung. Trở thành một đại diện trí thức lớn ở miền Nam có lập trường “phản kháng” – cũng là một cụm từ của Sartre! – trong nhóm trí thức Công giáo tiến bộ của Lý Chánh Trung, Nguyễn Ngọc Lan… Từ đó tạo một ảnh hưởng tinh thần, học thuật cho giới trí thức trẻ, sinh viên miền Nam thờì này, mở đường cho một số đi theo con đường cách mạng chống Mỹ.
Sau 75 ở lại, ban đầu từng bị nghi kỵ bắt giam sau nhờ giới trí thức Pháp can thiệp mới được thả ra. Tuy không được cho dạy đại học nữa nhưng vẫn được chế độ mới sử dụng như một chuyên gia “nhân sĩ” và trong vai trò đó đã cố gắng có đóng góp như bao người trí thức khác vốn nuôi hy vọng được góp phần xây dựng lại quê hương đổ nát, dân tộc chia rẽ sau chiến tranh: “Sau 75 tôi không còn lên tiếng công khai, thẳng thắn chân thành theo xác tín của tôi và những hiểu biết của tôi thời đó về những vấn đề thời cuộc. Nhưng không phải im lặng hoàn toàn, chỉ không công khai mà trong nội bộ, thường do yêu cầu nói theo quan điểm của mình, vì thế các phát biểu vẫn thẳng thắn và chân tình.”
Trong thời gian này vẫn viết “để đó” về nhiều đề tài nghiên cứu văn hoá, văn học dân tộc, văn hóa dân gian, ngôn ngữ, tôn giáo VN đặt trong sự quy chiếu với thế giới… Trong đó có 2 tập hồi ký về 2 thời kỳ 1955-1975 và 1975-1995.
Đến thời Đổi mới rất ủng hộ, từng được cho phép đi Mỹ rồi vẫn trở về.
Nhưng qua thời gian dần tự nhận thấy rằng trong cơ chế quan liêu bảo thủ quá chặt chẽ của chế độ cộng sản lúc đó mình cũng chẳng làm được gì, chẳng đóng góp được gì, vẫn chỉ đóng vai trò “góp ý” nhưng chưa chắc được nghe theo! Từ đó bấy giờ mới có kinh nghiệm thực tiễn đối chiếu với lý thuyết “trí thức dấn thân” của cái gọi là “tân Marxism” do Sartre cổ súy thì đôi bên cách biệt nhau một trời một vực: “Thực tế đất nước hiện nay (năm 1988) đã quá rõ để cho tôi và mọi người VN quay nhìn lại quá khứ gần đây, thấy được những ảo tưởng, sai lầm của mình bất cứ ở xu hướng nào hay từ sự lựa chọn nào.”
Tự “kiểm điểm” đã nhận “trách nhiệm tinh thần” trước đây từng khơi gợi, cổ súy cho một thành phần giới trí thức trẻ thành thị đi theo cách mạng và cả sau Giải phóng chấp nhận ở lại như mình để rồi rốt cuộc đối diện với thực tế chế độ cách mạng “dzậy mà không phải dzậy”phải rước lấy bao thất vọng ê chề!
Cuối cùng đành chấp nhận ra đi… muộn theo diện bảo lãnh (có con vượt biên!) qua Canada năm 1994 với lời thanh minh chỉ “đi tạm thời”! Đi nhằm có thêm kinh nghiệm nước ngoài để “dấn thân cụ thể vào những hoạt động tranh đấu xã hội thật cần thiết, ích lợi cho VN trong tình cảnh gọi là toàn cầu hóa hiện nay.”
Ở nước ngoài lại tiếp tục viết, tiếp tục dòng suy nghĩ, nghiên cứu từ trước – viết và dịch rất nhiều chủ yếu phổ biến trên mạng – về đủ lãnh vực, đề tài từ chuyện thời cuộc chính trị đã qua – bài “Tưởng niệm VNCH” – đến các vấn đề văn hóa, văn học dân tộc, đạo Công giáo và đạo Phật trong mối quan hệ dân tộc, cả vấn đề lý luận văn học lẫn dich thuật… Thậm chí còn sẵn sàng “bút chiến” với những tác giả hải ngoại phản bác quan điểm của mình, điều cho thấy có lẽ do bản tính hay nói thẳng viết thẳng không nương nhẹ ai nên bản thân thường có nhiều “kẻ thù” kể cả trong giới Phật giáo lẫn giới Công giáo của mình. Đã bị phe cực đoan ở nước ngoài liệt vào hàng “Việt gian Cộng sản”!
Một trường hợp oái oăm của không ít người bị rơi vào bởi “không ở phe nào”. Vì muốn cố gắng giữ vị trí nhà trí thức độc lập giữa các phe phái chính trị, có phê phán chế độ cộng sản nhưng không chống đối quá khích kiểu “chống Cộng” hải ngoại mà chỉ nhắm nêu cao chủ nghĩa dân tộc chung nhất – trên mọi lãnh vực - mà người yêu nước thực thụ nào cũng hướng về.

425 - Nguyễn Hùng Trương
“ÔNG KHAI TRÍ”
Chủ nhà sách sinh 1926 tại Sài Gòn – Mất 2005 ở TPHCM (80 tuổi).
Ông chủ nhà sách lớn nhất miền Nam trước 1975 – Nhà sách Khai Trí lập năm 1952 nằm ngay trung tâm Sài Gòn gần chợ Bến Thành có trong kho đến 5 triệu cuốn sách do ông chọn lựa đa số đều có giá trị - đến 1975 bị Nhà nước tịch thu quản lý dù có nguồn tin cho ông là người “thân Cộng” từng làm kinh tài cho Cách mạng!
Bù lại Nhà nước cấp cho ông một căn nhà nhỏ sống tạm qua ngày. Tuy vậy vẫn vui vẻ chấp nhận sống bình thản, thậm chí còn hăng hái tham gia các hoạt động văn hóa của chế độ mới như giao lưu, giới thiệu sách, triển lãm…
Tuy nhiên con cái đã vượt biên từ trước ở nước ngoài không muốn để ông ở lại một mình vò võ tuổi già sức yếu trong căn nhà vắng vẻ nên tìm hết cách bảo lãnh ông qua. Và cuối cùng thì ông cũng phải ra đi qua Mỹ năm 1991.
Nhưng thật bất ngờ chỉ một thời gian ngắn người quen biết cũ lại gặp ông ở… Sài Gòn, không phải về chơi dăm bữa nửa tháng mà là định… ở luôn! Tức là “tái định cư” cho Việt kiều đã một lần ra đi (chứ không phải kiểu “tái định cư” cho bà con bị giải tỏa mặt bằng cứ kiện lui kiện tới hoài).
Nhưng thời đó khoảng trước năm 2000, ông không được giải quyết liền được mà theo đúng thủ tục quy định phải chờ “xuất ngoại vĩnh viễn “ được 5 năm đã mới xem xét cho giải quyết quy hồi cố quận. Bởi thế cứ ở 6 tháng hết hạn visa là lại mất công bay về Mỹ cỡ một tuần đủ để xin giấy tờ đi “du lịch” lại về VN (bây giờ chuyện này đỡ rồi chỉ cần qua Thái Lan là được đóng dấu gia hạn nhanh chóng).
Ấy thế mà ông già vẫn chịu khó đi đi về về hoài – có năm ở lại đến 11 tháng - cho đến ngày được phép “ở luôn”: “Đi đâu cũng không bằng nhà mình. Ơ đây tôi muốn đến chơi nhà ai tôi cứ đến không cần báo trước, không gặp thì tôi qua nhà khác chơi… Xứ mình sống tình cảm lắm…”. Có lẽ ông là một trong những người tiên phong trong trào lưu “tái định cư” từ nước ngoài bắt đầu thế kỷ 21.
Không dám nói làm vậy là “yêu nước” mà thực chất là do ông quá yêu sách Việt, báo Việt. Vì tình yêu đó mới làm nên thương hiệu “Nhà sách Khai Trí” tồn tại hơn 20 năm ở Sài Gòn. Vì tình yêu đó mà trước 75 đã trở thành nhà mạnh thường quân hào sảng phóng tay bảo trợ cho ra đời một số báo chí có giá trị như tập san Văn Sử Địa, tuần báo Thiếu Nhi cũng như in “chùa” cho biết bao nhà văn nhà thơ nghèo khác. Có thể xem “Ông Khai Trí” là “ông tổ” của phong trào các nhà tài trợ văn hóa hiện nay.
Rồi cũng vì tình yêu đó mà sau này khi đã mất nhà sách – công cụ hoạt động lớn nhất của mình – mới chuyên tâm quay qua làm nghề tay trái là soạn sách loại sưu tầm cóp nhặt những mẩu chuyện hay đẹp của con người, cuộc đời làm bài học giáo huấn thế hệ trẻ như cụ Nguyễn Hiến Lê từng làm trước đây (loại sách dịch). Đáng chú ý trong sự nghiệp sưu tầm của mình vẫn ưu tiên dành cho những nhân vật VN kể cả những “gương doanh nhân” hải ngoại lẫn trong nước sau 1975.
Trong 10 năm từ 1993 đến 2003 tận dụng thời gian cuối đời còn lại được trở về sống lại trên quê hương đã tuyển chọn và biên soạn khoảng 15 cuốn sách với bút danh mới Nguyễn Hùng Trương gồm “Thơ tình Việt Nam và thế giới chọn lọc”, “Quê em mến yêu”, “Làm con nên nhớ”, “Chánh tả cho người miền Nam”, “Huế mến yêu”, “Những bài thơ hay trong văn chương Việt Nam”...
Nói như Phạm Quỳnh “Tiếng Việt còn, dân ta còn” thì yêu sách Việt, báo Việt như thế còn quá cả yêu nước!
Thật dễ thương mà cũng đáng thương hình ảnh ông già gần 80 tuổi ngẩng đầu lên chỉ căn nhà nhỏ một lầu của mình nằm ngay ngả tư Điện Biên Phủ - Nguyễn Thị Minh Khai ở TPHCM mà ao ước rằng “có thể làm lại Nhà sách Khai Trí” ở đây cũng được, “một nhà sách VN tối tân để có thể hãnh diện với thế giới.” Làm không phải chỉ vì lợi nhuận thuần túy mà vì “Một nhà sách tốt là nơi bày hàng giới thiệu văn hóa nước mình… Cái quan trọng là dân trí. Dân trí có được mở mang thì mình làm ăn với nước ngoài mới không thua thiệt.”
Than ôi không còn kịp nữa rồi như ông từng cau mày tiếc rẻ “20 năm qua nếu được tiếp tục làm về văn hóa tôi sẽ làm được nhiều việc cho quê hương xứ sở.”
Nhưng cũng không cần thiết nữa bởi trước sau gì thì Nhà sách Khai Trí cũng sẽ có chỗ đứng trong lịch sử thôi như những “Thư xã”, Tủ sách Hàn Thuyên, Nhà sách Sông Hương trước đây…

426 - Nguyễn Văn Tuấn
TAI ƯƠNG DỒN DẬP TAI ƯƠNG
Thường dân sinh 1958 tại Hà Nội. Sống ở Hà Nội (2007).
Nguyên là bộ đội lái xe trên chiến trường Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế.
Sau 75 ra quân đi làm công nhân đến năm 1989 thì bị tinh giản biên chế xoay qua làm đủ nghề kiếm sống từ phụ xe đến… trông trẻ. Sinh được 2 con thì vợ mắc bệnh tim mất sớm.
Nợ nần tứ phía chưa trả nổi thì đến năm 2003 bị trượt chân cầu thang vỡ xương chậu liệt chân hết đi làm luôn! Nhà ngoài 2 con thơ còn một bà mẹ già 84 tuổi nữa lấy gì để sống qua ngày đây hỡi trời?

427 - Nguyễn Văn Tuyên
HỌA SĨ VẠN ĐÒ SÔNG HƯƠNG
Họa sĩ sinh 1947 tại Huế. Sống ở Huế (2010).
Sinh ra từ một gia đình làm nghề chài lưới sống trên đò sông Hương khu vực làng thượng nguồn vạn đò Thọ Khương (phía trên chùa Thiên Mụ). Được cha mẹ cho lên bờ ăn học, năm 1968 tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thụât Huế. Từng đoạt giải triển lãm Huế 1969, có triển lãm đầu tiên năm 1970 cũng ở Huế.
Nhưng sự nghiệp hội họa bị đứt đoạn vì thời cuộc bắt đầu từ cuối những năm 60 khi tham gia vào các hoạt động biểu tình, xuống đường chống chiến tranh đòi hòa bình của lực lượng tiến bộ ở Huế khiến bị cảnh sát rượt đuổi truy bắt. Thêm tội trốn lính nên phải bỏ trốn xuống… vạn đò nơi đã sinh ra mình.
Nhưng cuối cùng vẫn bị bắt đi tù Côn Đảo vì tội đăng tranh phản chiến trên báo Cách mạng bí mật. Đến 1974 mới được thả ra về lại vạn đò cũ song vẫn chưa yên lại bị… bắt lính chế độ cũ.
Giải phóng rồi thành ra thành phần “nửa nạc nửa mỡ”, hoạ sĩ tiến bộ nhưng lại đeo lon… binh nhì lính Cộng hòa thôi đành về làm dân quèn sống bám vào “vạn đò quê tôi”. Phải xoay xở làm thêm đủ thứ nghề linh tinh để kiếm sống qua ngày nuôi vợ con như bán xăng, bán phân, làm công nhân cây xanh trong đó có nghề tương đối “thuận tay” nhớ nghề cũ nhất là… sơn xe đạp!
Mãi đến năm 1996 một chuyên gia mỹ thuật chỗ quen biết cũ từ Hong Kong tìm tới gợi ý đặt mua tranh, từ đó mới vẽ trở lại.
Vẽ say đắm phóng bút như sự giải phóng bao nhiêu cảm hứng khát vọng bị trầm tích lâu nay với toàn đề tài về sông Hương và vạn đò (nên không có nhan đề cho từng bức) nơi nuôi nấng và cứu vớt đời mình. Bằng một phong cách độc đáo vẽ sơn dầu theo kiểu tranh lụa mơ màng, huyền hoặc, lãng đãng khói sương, có khi bằng ngón tay nhúng màu thay cho cọ vẽ. Từ đó đã tham gia triển lãm chung ở Mỹ năm 1996, 1997, trưng bày tranh ở Huế, Đà Nẵng…
Nguồn sáng tạo như đã trở lại dù có muộn màng, mỗi ngày đam mê vẽ từ 5 giờ sáng đến tối vẫn từ ven bờ thượng nguồn sông Hương phóng mắt nhìn ra vạn đò. Mãi mãi trung thành với vạn đò sông Hương: “Hễ cầm cọ lên là hiện ra con đò. Vẽ chi cũng ra đò.”
Bởi vạn đò sông Hương không chỉ là đề tài, ám ảnh mà còn là ơn cứu rỗi nữa: “Mờ sáng trên sông nghe tiếng chuông chùa hay lắm... Nhờ rứa mà tui vẫn giữ được lòng dạ nhẹ nhàng…”

428 - Nguyễn Văn Tư
“TRỜI KHÔNG LẤY ĐI TẤT CẢ”
Nông dân sinh tại Nam Định. Sống ở Nam Định (2009).
Bộ đội đánh Mỹ trên chiến trường miền Nam, sau đó qua mặt trận Campuchia.
Xuất ngũ về quê làm nghề đi biển, lấy vợ sinh được 4 con. Cả 4 con – 3 trai 1 gái - khi mới sinh ra không vấn đề gì song sau đó lớn lên đều mắc bệnh trí óc chậm phát triển, trở nên ngây ngây ngô ngô, chân tay co quắp nằm một chỗ có lẽ do hậu quả CĐDC từ ông bố thời chiến tranh. Riêng đứa con gái năm lên 7 tuổi bị động kinh rớt xuống ao chết đuối không ai hay. May là đứa con trai đầu tương đối bị nhẹ nhất, chỉ thỉnh thoảng mới lên cơn co giật.
Lo chạy chữa bệnh cho con không kết quả, đã vậy nghề đi biển ngày càng vất vả khó kiếm sống càng đẩy cuộc sống gia đình vào chỗ cùng quẫn. Năm 1993 thấy phong trào nuôi trồng thủy sản mới bắt đầu bèn làm đơn xin được cải tạo một bãi sình lầy bỏ hoang ngoài cửa sông Sò để nuôi tôm cá. Được phép rồi,ø bắt tay vào công đoạn đầu tiên là phải đắp đập ngăn nước mặn quanh bãi lầy rộng 3 hecta tính ra dài đến 700m.
Tất cả vào thời đó đều làm bằng tay móc bùn lên vác đắp vào đập, có khi vừa đắp được một đoạn thì nổi sóng lớn tràn vào cuốn phăng hết! Lại móc, vác làm lại từ đầu. Cả 2 vợ chồng cùng làm với đứa con đầu lớn lên đã gầøn hết bệnh trở nên bình thường rồi. Cứ thế kéo dài 3 năm trời mới xong, sau đó vay tiền ngân hàng đầu tư nuôi thủy sản.
Vất vả mấy năm rút kinh nghiệm, đến năm 1996 mới bắt đầu khấm khá trở thành trang trại đàng hoàng, lập thêm cơ sở sơ chế hải sản ngay tại chỗ, mua cả xe tải chở hàng.
Nhưng mừng nhất là đứa con trai đầu duy nhất hết bệnh nay 30 tuổi đã có vợ sinh con lành mạnh như mọi đứa trẻ khác: “Cám ơn trời, đúng là ông trời không cho ai tất cả nhưng cũng không lấy đi của ai tất cả.”

429 - Nguyễn Văn Út
TRÚNG SỐ MỸ 101 TRIỆU USD
Việt kiều sống ở Mỹ (2004).
Sống ở TP Carrolton ở bang Texas cùng gia đình vợ và một con gái.
Năm 2004 mua 5 vé số giải Mega Millions (giải “Tiền triệu” do nhiều bang cùng hợp tác tổ chức, mỗi vé thường từ 5-6 USD), đến sáng hôm sau ngày xổ chưa dò mà để quên trên bàn bỏ đi ra siêu thị mua đồ. Đến siêu thị mới nghe người ta kháo nhau rằng trong thành phố mới có dân trúng số lớn 101 triệu USD (ở Mỹ nơi bán vé được trang bị hệ thống theo dõi bán vé cho ai, nếu có ngườì trúng còn được thưởng khá nữa), bèn nhìn lướt qua dãy số trúng thì nhớ là vé mình có… trùng 2 con số liền vội vã chạy bay về nhà bốc vé lên xem thấy quả là… trúng thật! Đứng tại chỗ kêu vợ ra ôm khóc mùi mẫn!
Chấp nhận chỉ lãnh trọn gói một lần nên còn được 62,060.880 triệu USD (ở Mỹ quy định trúng từ 5.000 USD phải đóng thuế từ 25% trở lên) thay vì nếu muốn ôm đủ số tiền phải lãnh từng đợt mỗi năm trải qua từ 25-30 năm. Cũng là người dân đầu tiên trong bang Texas trúng lớn giải này. Nên nhớ xác suất trúng ở trên là 1/135.145.920!
Trả lời phỏng vấn báo chí cho biết sẽ trích tiền xây một ngôi chùa trong vùng, rồi cùng vợ con về VN giúp đỡ người thân và trẻ mồ côi đồng thời xây một trường học ở làng quê vì lần về trươc thấy trườøng học ở xa quá khiến trẻ em nghèo không đến trường được.
Đây không phải là trường hợp trúng số Mỹ lớn nhất mà đúng hơn là lãnh tiền trúng số lớn nhất thôi bởi người đạt kỷ lục trúng số Mỹ lớn nhất là Lan Bill Nguyễn 37 tuổi ở bang Nam Dakota năm 2006 trúng số đến 116,8 triệu USD giải Powerball lớn nhất nước Mỹ. Tuy nhiên lãnh một lần được 51,584.566 USD thua Mr Uùt nêu trên có lẽ do quy định mỗi giải khác nhau về chuyện thời hạn lãnh đủ tiền trong bao nhiêu năm, về mức thuế phải đóng…
Mr Nguyễn này và vợ 30 tuổi (có con trai 6 tuổi) trước đó mở tiệm làm móng tay sống chung với mẹ, sau đó lập tức bán lại tiệm này cho nhân viên cũng người Việt mới qua rồi cả nhà… biến mất (sợ bị “lộ mặt” trên báo đài)! Nhưng cô nhân viên người Việt bảo đảm “Dứt khoát họ sẽ về VN để giúp đỡ người thân, bạn bè…”
Xếp hạng kế tiếp là Nguyễn Văn Hiếu ở bang Louisiana vào tháng 8.2010 trúng vé số cũng giải Powerball 85,7 triệu USD lãnh một lần 45,77 triệu USD. Ông đang sống cùng gia đình tổng cộng 10 người đến Mỹ đã hơn 20 năm.
Trúng số lãnh ít nhất có Đoàn Văn Quang và Trần Dũng ở bang Nebraska năm 2006 cùng góp tiền mua chung vé số với 6 đồng nghiệp Mỹ đều là công nhân nhà máy chế biến thịt, trúng giải Powerball kể trên 365 triệu USD. Tất cả đồng ý lãnh một lần chia ra mỗi người được khoảng 15,5 triệu USD. Đào Văn Quang sinh năm 1950, Trần Dũng trẻ hơn sinh 1972, cả hai đều đến Mỹ năm 1988.
Người duy nhất trúng số Mỹ chấp nhận lãnh rải đều ra trong nhiều năm là Trần Hiếu (sinh 1970) đến Mỹ năm 1987, ở New York trúng 1 triệu USD năm 2008 chịu chia ra mỗi năm chỉ nhận 50.000 USD (thực lãnh sau khi trừ thuế còn 34.000 USD) trong 20 năm. Theo anh chừng đó cũng đủ cho anh về quê hương thăm mẹ già 64 tuổi. Đã có 2 con, là chuyên viên ngành cơ khí, lúc đó làm quản đốc phân xưởng một nhà máy cán thép.
Có truờng hợp độc đáo là 2 vợ chồng Việt kiều ở bang Oregon vào tháng 9.2010 trúng số giải Quick Pick Megabucks 15,4 triệu USD đồng ý “cưa đôi” tiền nhưng mỗi người chọn một cách lãnh: Một người lãnh một lần được 2,58 triệu USD, người kia theo phương án lãnh chia đều trong 25 năm sẽ gom tổng cộng khoảng 7 triệu USD nhiều hơn song trước mắt mỗi năm chỉ nhận được 206.360 USD.

430 - Nguyễn Văn Vượng
NGƯỜI CHỐNG THAM NHŨNG LỚN TUỔI NHẤT
Cựu chiến binh sinh 1929 tại miền Bắc. Sống ở Hà Nội (2009).

Đại tá về hưu từng là chiến sĩ quyết tử bảo vệ Hà Nội mở đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, sau đó kéo dài đời binh nghiệp đến tận Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng hoàn toàn Miền Nam.
Đến khi về hưu ở tuổi “cổ lai hy” mắt đã lòa với một mảnh đạn còn nằm trong lồng ngực vẫn chưa yên lại phải đi tiên phong chống tham nhũng ở một làng ven Hồ Tây đối đầu với thế lực những quan chức đương quyền địa phương.
Ròng rã bảy năm trời từ năm 2001 đến 2007 vượt qua bao rào cản, đe doạ vẫn không sờn lòng trong cảnh “Bao nhiêu năm dài đơn độc, không có ai đứng cạnh tôi, không ai động viên tôi” ngoài bà vợ cũng gần 80 nguyên nữ dân công Điện Biên Phủ. Vẫn kiên quyết kiện tới cùng lên tới cấp Bí thư Thành ủy Hà Nội cuối cùng mới thành công.
Qua 5 vụ tố cáo tham nhũng đất đai đã giúp đem trả lại quyền sở hữu cho cộng đồng với lời tâm sự: “Nhiều người hỏi tôi đã 80 tuổi rồi, cái tuổi gần đất xa trời mà sao còn chống tham nhũng hăng say đến vậy. Tôi trả lời tôi là bộ đội Cụ Hồ giặc ngoại xâm tôi còn đánh được huống chi lũ giặc tham nhũng ngại gì mà không đánh?”.
(Còn tiếp)

Thứ Tư, 20 tháng 10, 2010

ĐỀ NGHỊ LÀM RÕ VẤN ĐỀ BÔXIT - DƯƠNG TRUNG QUỐC

Nhân Quốc hội họp phiên cuối năm,đại biểu QH Dương Trung Quốc đề nghị:
"Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội trả lời báo chí là sẵn sàng đáp ứng các thông tin về tình hình biển Đông cho đại biểu Quốc hội. Tôi nghĩ việc công khai các thông tin như vậy là trách nhiệm của Chính phủ, đó cũng là cách tốt nhất để mọi người dân chia sẻ với Chính phủ về vấn đề này, đặc biệt trong lúc cử tri đang rất quan tâm. Về dự án Luật về biển, Chính phủ cứ nói chuẩn bị chưa xong. Tại sao chuẩn bị bao nhiêu kỳ họp rồi mà vẫn chưa xong? Chính phủ phải đáp ứng yêu cầu của Quốc hội chứ sao lại bảo Quốc hội phải chờ Chính phủ.
Ngay chuyện bôxit cũng vậy, người dân còn băn khoăn thì Nhà nước phải gỡ, một là để cho có thông tin đầy đủ, hai là nghe ý kiến của dân để lọc ra những điều có ích. Tôi vừa viết một lá thư cho Chủ tịch Quốc hội đề nghị làm rõ vấn đề bôxit. Trong thư tôi có nhắc tới kiến nghị của ông Nguyễn Trung và nói rằng đó là những ý kiến của công dân rất có trách nhiệm. Dân lo lắng điều gì thì Chính phủ, Quốc hội phải làm rõ, vì an lòng dân là quan trọng."
Theo TTO

Thứ Ba, 19 tháng 10, 2010

GIỚI THIỆU TÁC PHẨM MỚI NHÀ THƠ LỮ THƯỢNG THỌ

ĐÓN ĐỌC
THIÊN CỔ THI
THƠ LỮ THƯỢNG THỌ
NHÀ XUẤT BẢN THUẬN HÓA

TIỄN KINH KHA

Đưa người bầu rượu rung trong gió
Lạnh một dòng sông, lạnh Kiếm Thần
Ba nghìn tân khách bên sông Dịch
Một chiếc đò qua, mấy kẻ buồn?

Gươm vỗ không kêu không chém được
Thép lạnh đưa hồn đến cõi xa
Rượu uống chưa say, bầu dốc ngược
Ướt nhèm Thân thế dưới trăng tà.

Trăng ngà đẹp như bàn tay mỹ nữ
Ai vô tình mà cất một lời khen
Vợ của bạn đẹp qua từng giọt rượu
Tráng sĩ mà không dằn được cơn thèm

Ai đưa người ta không đưa người
Còn rượu đây ta uống một mình thôi
Không đưa đón, bởi không cần đưa đón
Mà tháng năm vẫn cứ lạnh lùng trôi

Đò ra giữa dòng, biết mình là dại
Ai thay ai? Mà ai mượn tay ai.
Kẻ chống kiếm nhìn lối về thăm thẳm
Trong túi chiến bào, khô một bàn tay.
12 / 1990

LTT

Thứ Hai, 18 tháng 10, 2010

KHÔNG LỜI ĐỒNG VỌNG - ĐÔNG HÀ

Gọi gì cũng không lời động vọng
T nghe thương nhớ cứ xoay vòng
mỏi mắt chớp đời ơi biển động
đâu là mình giữa mênh mông
0
để sáng nay có loài mắt chớp
mở không ra mà đếm u sầu
u sầu nở muộn mười năm nữa
ai đứng chân cầu đời nước xuôi
0
Gọi gì cũng không lời động vọng
T treo thương nhớ dưới hiên nhà...
ĐH

Chủ Nhật, 17 tháng 10, 2010

TƯỞNG TƯỢNG - VŨ HỮU ĐỊNH

ngồi tưởng tượng mùa chim bay trốn gió
anh nhớ anh buồn lúc thấy em đi
anh nghe lũ chim gọi đàn bay mất
gió bay theo đem lạc dấu xuân thì

ngồi tưởng tượng lúc đàn chim sợ hải
ngó chớp bên đông báo gió mùa hung
anh giục giã lòng anh lẩn quẩn
thấm cơn mưa,nghe được giọt não nùng

em để lại chút hương nào phảng phất
anh tìm quanh đây một chút nghìn năm
nghe nồng mặn như môi vừa gặp lại
là mùi hương em gửi đên tự nghìn trùng

nẻo em bước, đường em đi,chốn tới
một chốn nào xa anh cũng thấy gần
đời để lại cho anh ngoài ô cửa
một hình mây,bóng núi,tin sông

ngồi tưởng tượng rằng em đang vẫy gọi
trên đồi tranh gió ngược bước anh về
em khóc rũ tóc lẩn màu sắp tối
đường anh đi gió dạt bước lầm mê

anh ở lại ngó trời qua ô cửa
chợt biết tin mây, ý gió,lòng mùa
anh ở lại sống những ngay thui thủi
ngày hôm nay nghe như một ngày xưa

VHĐ

Thứ Bảy, 16 tháng 10, 2010

TRÁI TIM CHẾT RẤT THẬT THÀ - NGUYỄN MIÊN THẢO


nhiều khi ngày tới bất ngờ
mới hay còn sống đến giờ , lạ chưa
cuộc đời khi nắng khi mưa
chưa từng bão tố là chưa biết gì

từ ngày em bỏ ra đi
câu thơ cũng úa huống gì là ta
trái tim chết rất thật thà
tự nhiên sống lại vẫn là nỗi đau

từ ngày hai đứa xa nhau
ta tình nguyện đứng phía sau cuộc tình
nhiếu khi em rất lạ thường
yêu ta như thể lại dường không yêu

đã xoay đủ cả trăm chiều
phía nào ta cũng cô liêu một mình
NMT

Thứ Sáu, 15 tháng 10, 2010

GIỚI THIỆU TÁC PHẨM MỚI NHÀ THƠ CAO THOẠI CHÂU


ĐÓN ĐỌC

VỚT LÁ TRÊN SÔNG

TẠP BÚT CAO THOẠI CHÂU

Gồm 38 bài viết tản mạn .
Nhạc sĩ,nhà báo Nguyễn Phú Yên giới thiệu
Nhà xuất bản Hội Nhà Văn


“ Chúng ta không tìm thấy một cánh bướm Lão Trang
nào nhưng cũng không tìm thấy bóng dáng người khách lạ hiện
sinh nào cả. Chẳng có viễn tượng gì ghê gớm,đơn giản văn chương
của anh chỉ ươm mầm cảm xúc và suy tưởng từ thực tế cuộc đời
quá đỗi thân thiết đã cho anh cả một trường thiên ngọt ngào lẫn đau thương
. . .
Vì thế cho nên Cao Thoại Châu hiểu ra và lắng nghe lời nhắn nhủ
của André Gide khi nhà văn nói với nhân vật của mình:”Nathanael
ơi,hãy ngắm nhìn những nơi anh đi qua,nhưng đừng bao giờ dừng lại…
điều quan trọng ở trong cái nhìn của anh chứ không phải ở vật anh
nhìn”( Thực phẩm trần gian).
Cao Thoại Châu nghe ra và anh cũng
không dừng lại đâu.Anh đang bước đi đấy trong cuộc đời,cả về trước
lẫn về sau,bằng cái nhìn riêng của anh,tiếng nói riêng của anh,có lúc
hào sảng nhưng cũng có lúc tê tái.Nhưng không hề chi,bởi cuộc đòi
vốn như vậy.Điều quan trọng là những gì anh để lại cho ta – văn
chương của anh – bởi như người xưa nói,thốn tâm thiên cổ,tấc lòng
lưu vọng ngàn năm''

NGUYỄN PHÚ YÊN

Thứ Năm, 14 tháng 10, 2010

CAO HUY KHANH - VIỆT NAM HỒ SƠ HẬU CHIẾN 1975 - 2010 ( KỲ 41 )

NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ

411 - Lê Hùng Dũng
THẦY THUỐC “CHA NUÔI”
Lương y sinh tại Hà Tĩnh. Sống ở Hà Tĩnh (2010).
Xuất thân từ gia đình 4 đời làm nghề thầy thuốc Đông y, từ nhỏ đã được cha truyền nghề và đi bộ theo cha vào tận những bản làng vùng cao hẻo lánh chữa bệnh cho đồng bào dân tộc.
Lớn lên gia nhập bộ đội vào chiến trường miền Nam dùng nghề thuốc tham gia ngành quân y chữa trị cho bộ đội.
Sau 75 đang còn ở miền Nam thì nhận được tin cha qua đời vội về quê thọ tang, lúc đó mới nhận được thư cha để lại lời dặn “Khói lửa chiến trường đã tắt, con hãy về khám và chữa bệnh giúp những người dân nghèo quê mình…” Liền xin ra quân trở lại quê nhà tiếp tục nghề truyền thống gia tộc.
Từ đó miệt mài chữa bệnh cho mọi người đủ các thứ bệnh gan, thận, dạ dày, đại tràng, vú, viêm xoang, bị rắn cắn, chó dại cắn… Đặc biệt quan tâm đến bệnh nhân đồng bào dân tộc vốn ít hiểu biết và thiếu thốn điều kiện chăm sóc y tế. Còn nghiên cứu chế tác hàng trăm loại thuốc dùng dược liệu dân tộc.
Làm nghề hoàn toàn miễn phí kể cả cấp thuốc Nam cho bệnh nhân mang về vì thiên chức nghề nghiệp cha đã dạy dỗ: “Tiền bạc bao nhiêu rồi cũng hết, hãy để niềm vui của người thầy thuốc là mỗi lúc mở mắt thấy mình đã cứu được một người chứ đừng mong phú quý… Làm thầy thuốc trước tiên là phải có cái tâm, đối xử với bệnh nhân như con cái mình vậy…”
Vì cứu người mà không nhận đền ơn như vậy nên nhiều bệnh nhân sau khi được chữa khỏi đã xin được nhận ông làm cha nuôi suốt đời.

412 - Nguyễn Thế Vinh
“ĐỘC THỦ QUÁI KIỆT” GUITAR – HARMONICA
Giáo viên khuyết tật sinh 1970 tại Bình Thuận. Sống ở Bình Dương (2010).
Năm 1974 lúc mới lên bốn đã mồ côi cha mất trong chiến tranh, còn lại một mình mẹ nuôi 4 con thơ dại.
Qua năm 1977 đến lượt mẹ qua đời phần vì buồn phiền phần kiệt sức lao lực nuôi con nhỏ. Chưa hết, tiếp đó người anh trai cũng bệnh mất sớm khiến ba anh em (còn một chị một em trai) phải nương tựa vào nhà ông ngoại nông dân tay lấm chân bùn.
Năm tên 8 tuổi đi chăn bò phụ giúp ông ngoại thì bị ngã gãy tay, vết thương không nặng song do ở nhà quê không tiền bạc không phương tiện đi bệnh viện mà nhờ lang băm chữa thuốc Nam bậy bạ nên rốt cuộc tay bị nhiễm trùng gây hoại tử. Đến khi đưa vào nhà thương thì chỉ còn cách phải cưa cụt cánh tay phải!
Từ đó phải cắn răng kiên trì phấn đấu với một cánh tay còn lại làm đủ mọi việc từ đỡ đần công việc cho nhà ông ngoại vừa theo học trường làng vẫn tốt nghiệp cấp 3 như học sinh bình thường.
Nhận bằng tốt nghiệp trung học xong liền khăn gói vào TPHCM tìm đường sống, đầu tiên học nghề vẽ quảng cáo. Nhưng rồi được bạn bè khuyến khích đã đánh liều thi đại học không ngờ đậu thật vào ĐH Kinh tế TP. Thế là vừa học vừa làm thêm nghề dạy kèm để có tiền trang trải việc học đồng thời tự nuôi sống mình lẫn đứa em trai đã đưa vào sống cùng mình.
Năm 1994 tốt nghiệp đại học song do bị khuyết tật nên kiếm việc làm khó khăn đành làm đỡ nghề sửa ĐTDĐ một thời gian. Sau đó mới được Bình Dương nhận về làm giáo viên.
Trong suốt thời gian trên, con người một tay này còn chứng tỏ rất đa năng nhiều tài hoa vì ngoài đủ thứ nghề lăn lộn trường đời kể trên còn niềm đam mê âm nhạc từ nhỏ, bất chấp một tay vẫn đàn guitar (dùng một ngón gảy đàn và 4 ngón còn lại bấm phím) và thổi harmonica cực kỳ sành điệu. Không chỉ thế tự mình còn nghĩ ra một phong cách biểu diễn độc đáo có một không hai là cùng lúc vừa một tay đàn vừa ghé miệng thổi harmonica (được một cái giá đỡ gắn chặt vào thùng đàn) hoà tấu thật ăn ý. Phải mất 3 năm trời ròng rã mới luyện được chiêu văn nghệ lạ lùng này.
Đặc biệt chuyên “trị” nhạc Trịnh “Ca khúc da vàng” gần gũi với tâm sự một cuộc đời bị xô đẩy vùi dập trong chiến tranh suýt nữa thì tàn lụi.
Ngón nghề biểu diễn trên bắt đầu được công chúng biết đến và khen ngợi từ năm 2004 qua những buổi biểu diễn gây quỹ từ thiện. Từ đó càng phát triển thành một nhóm nghệ sĩ khuyết tật (thêm một nhạc sĩ khiếm thị, một nữ ca sĩ nghiệp dư khuyết tật…) chuyên đi lưu diễn hướng về giới khán giả khuyết tật.
Không dừng ở đó, còn có tâm nguyện thành lập một trung tâm chăm lo cho trẻ mồ côi và khuyết tật đồng cảnh ngộ như mình ngày xưa. Và vào giữa năm 2010 được sự giúp đỡ của các mạnh thường quân, ước nguyện đã thành sự thật với sự ra đời của Trung tâm Nuôi dưỡng trẻ mồ côi và khuyết tật Hướng Dương tại Bình Dương.

413 - Nguyễn Thị Nhất
43 NĂM MỚI NHẬN XÁC CON
Nông dân sinh 1919 tại Quảng Ngãi. Sống ở Quảng Ngãi (2010).
Chồng kháng chiến chống Mỹ hy sinh năm 41 tuổi, còn lại một mình nuôi cả bầy con.
Lớn lên các con trai tiếp tục truyền thống gia đình vào du kích và bộ đội đánh Mỹ. Ba người tử trận thành liệt sĩ trong đó có hai người chết chỉ cách nhau 2 ngày năm 1968 mà một người mất xác trong đồn địch.
Trước đó vào năm 1964 thì 2 con gái 1 con trai khác đã bị pháo địch giập xuống tan xác ngay trên miệng hầm tránh bom. Bởi làng quê nơi đây – xã Nghĩa Lâm huyện Tư Nghĩa – là điểm “tập kết Cộng sản” xem như vùng oanh kích tự do khiến sau chiến tranh trở thành “Làng dioxin” của Quảng Ngãi với hơn 400 nạn nhân CĐDC nhiều nhất tỉnh.
Với đến 7 đứa con chết trong chiến tranh làm đám giỗ liên tục quá nhiều làm không nổi nên mẹ làm chung lễ kỵ một ngày trong năm. Nhưng bản thân “đêm nào má cũng mơ thấy các con”, luôn tưởng tượng rằng từng đứa con đó nếu còn sống thì bây giờ đã “cho mẹ có cháu bồng rồi”!
Đến tháng 9.2010 trong một đợt khai quật ở Quảng Ngãi tìm được 93 hài cốt liệt sĩ mới phát hiện thấy xác còn lại của đứa con bỏ mình mất tích trong chiến cuộc năm Mậu Thân 68 lúc mới 18 tuổi để đem về cho mẹ. Niềm an ủi cuối cùng cho bà mẹ già đã 91 tuổi.

414 - Nguyễn Thị Oanh
NHÀ TIÊN PHONG CÔNG TÁC XÃ HỘI
Nhà hoạt động xã hội sinh 1931 tại Gò Công – Mất 2009 (79 tuổi).
Là con áp út trong gia đình Công giáo có đến 15 anh chị em, lớn lên đi du học Mỹ lấy bằng cử nhân xã hội học năm 1955, sau đó học tiếp ngành phát triển cộng đồng ở Philippines.
Trở về Sài Gòn tham gia hoạt động trong các phong trào xã hội của giới Công giáo tiến bộ.
Sau 75 trong khi cả 14 anh chị em đều lần luợt ra nước ngoài thì một mình vẫn ở lại sống đời độc thân tiếp tục đeo đuổi lý tưởng phát triển ngành xã hội học và công tác xã hội còn ít được biết tới dưới chế độ mới cộng sản: “Gần cả cuộc đời chọn mục đích sống vì cộng đồng, phần thưởng với tôi là hạnh phúc từ niềm vui của người được mình giúp đỡ…”
Vừa nghiên cứu lý thuyết vừa tích cực vận động học viên đi vào thực tiễn hoạt động xã hội phục vụ cộng đồng, đặc biệt hướng đến những đối tượng bị thiệt thòi như người nghèo, người khuyết tật, nạn nhân ma túy, HIV… Còn quan tâm đến cả nhiều vấn đề đạo đức xã hội, đạo đức học đường vốn đang xuống cấp “có hệ thống” đáng báo động .
Từ đó năm 1989 tham gia thành lập các nhóm công tác xã hội, Hội Xã hội học, lập hội quán sinh hoạt chuyên môn, viết sách, viết báo… Bộ môn xã hội học dần dà cũng đã được hình thành ở cấp đại học.
Tâm nguyện trước khi mất muốn lập quỹ học bổng cho trọn vẹn một cuộc đời cống hiến: “Đời tôi sống cũng vui mà chết cũng vui.”
Sau khi mất, tâm nguyện đó đã được học trò thực hiện từ năm 2010 với học bổng cấp hàng năm cho giới sinh viên ngành công tác xã hội.

415 - Nguyễn Văn Thái
NGƯỜI MOHICAN CUỐI CÙNG
Việt kiều sinh 1948 tại VN. Sống ở Canada (2008).
Là dân Công giáo đạo gốc nên sau 1975 đi vượt biên 2 lần bị bắt, đến lần thứ ba mới toại nguyện đến Philippines năm 1990. Và ở lại trại tị nạn này ròng rã suốt… 18 năm trời trong cảnh cô đơn không vợ con, người thân hay bạn bè!
Lần lượt nhiều người được bảo lãnh qua Mỹ hoặc Châu Au, chỉ có mình - và một số ít người đồng cảnh ngộ - không được cứu xét cho qua định cư các nước Châu Au vì chẳng có thân nhân nào ở đó bảo lãnh.
Mãi đến năm 2008 nhờ các cuộc vận động của những tổ chức người VN hải ngoại (tập trung ở Mỹ) mới trở thành một trong những người cuối cùng rời trại Philippines (chuẩn bị đóng cửa luôn) được Canada xem xét chấp nhận khi mình ngót nghét đã 60 tuổi rồi!

416 - Nguyễn Văn Thành
LIỆT CỘT SỐNG VẪN CÓ CON
Thương binh sinh tại Nghệ An. Sống ở Nghệ An (2007).
Bộ đội chiến đấu ở Quảng Trị, năm 1973 bị trúng đạn cối trọng thương với 7 mảnh đạn ghim vào người trong đó nặng nhất là một mảnh đâm vào cột sống làm liệt nửa ngươì và cả tứ chi, mức độ thương tật tới 93%.
Sau 2 năm điều trị nằm liệt một chỗ thấy khó có thể qua khỏi mới xin về quê để ở gần gia đình… chờ chết!
Trong thời gian nằm “chờ chết” như thế ở quê không ngờ gặp một cô gái tự nhiên sinh lòng thương cảm tình nguyện đến nhà chăm sóc tận tình mọi chuyện từ thay đổi tư thế nằm cho anh (không tự mình làm được), bón cơm bón cháo cho ăn đến thay đồ, giặt giũ áo quần… Tình yêu từ đó nhen nhúm giữa đôi bên.
Tuy nhiên mặc cảm mình bệnh tật quá nặng quá “ác” với chấn thương cột sống khó thể làm nhiệm vụ của người chồng nên có lần đã “trốn” đi đến một trại thương binh không cho ai biết với mục đích “để cho cô ấy đi lấy chồng, không thể trả ơn được thì chết sẽ phù họ cho em”. Nhưng cô gái mất anh tuyệt vọng ngã bệnh khiến người thương binh cuối cùng không cầm lòng nổi phải quay về.
Từ đó vì mối tình kỳ diệu không cản ngăn nổi đã bước vào cuộc chiến đấu với bản thân cố gắng vươn lên vượt qua bệnh tật: Cắn răng nhịn đau tự tập luyện xoay trở tư thế nằm trên giường, tự xoa bóp vận động tay và chân dần cử động được, rồi nhờ cô đỡ ngồi dậy sau đó tự ngồi lên được để dìu ngồi vào xe lăn, tiếp đó tự lê người ngồi vào xe lăn ban đầu được cô đẩy đi rồi dần dà tự lái đi được…
Không chết mà sống lại được rồi, năm 1977 đám cưới được tổ chức trước sự ngạc nhiên của bao nhiêu ngườì. Càng ngạc nhiên hơn khi sau đó hai vợ chồng sinh được 3 con 2 trai 1 gái! Và người chồng người cha bây giờ đã chống nạng đi lại được ra nghề sửa đồng hồ.

417 - Nguyễn Văn Thạnh
CÁN BỘ CHỐNG TIÊU CỰC… QUÁ SỚM!
Cán bộ về hưu sinh 1930 tại Hậu Giang. Sống ở Cần Thơ (2010).
Thuộc gia đình cách mạng lâu năm có một Bà mẹ VN Anh hùng, gia đình có 11 liệt sĩ 5 thương binh nên tham gia hoạt động rất sớm từ thời chống Pháp đến thời chống Mỹ.
Sau 75 là Trưởng ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Kiên Giang kiêm Chủ nhiệm báo Kiên Giang.
Nhưng do bản tính cương trực thẳng thắn đã sớm tỏ thái độ bất bình tố cáo một số lãnh đạo tỉnh hồi đó có biểu hiện tiêu cực tiếp tay bọn buôn lậu đường biển trong đó nổi cộm vụ án “Bỉnh Họt” năm 1981 khiến Trung ương phải cử đoàn về điều tra. Kết quả lãnh đạo tỉnh vẫn bình chân như vại còn mình lại… bị cách chức Trưởng ban Tuyên huấn điều qua làm Phó Chủ tịch UB Mặt trận Tổ quốc tỉnh.
Tuy nhiên trên cương vị mới, năm 1988 vẫn tiếp tục công khai chỉ đích danh 14 vụ tiêu cực được lãnh đạo tỉnh bao che tiêu cực. Thế là lãnh quyết định… về hưu non! Cuối cùng phải cầu cứu cố Thủ tưóng Võ Văn Kiệt bấy giờ là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng “bảo lãnh” rút về làm bộ phận nghiên cứu thuế nông nghiệp miền Nam đặt tại Cần Thơ cho đến ngày về hưu.
Nhưng chưa hết tai qua nạn khỏi, vẫn bị truy đuổi “trả thù” đến năm 1993 với quyết định từ Kiên Giang… khai trừ Đảng (lúc đó đã 45 tuổi đảng) với lý do “qua mặt” tỉnh không chấp hành quy?t định nghỉ hưu và còn tiếp tay với báo chí chống Tỉnh uỷ phá Đảng!
Vì truyền thống gia đình cách mạng, không thể chấp nhận quyết định vô lý đó – “một chấm đen trong cuộc đời tôi” - nên bắt đầu cuộc hành trình 17 năm đòi khôi phục đảng tịch. Đã viết 140 lá thư trần tình nỗi oan khuất gửi Trung ương.
Mãi đến đầu năm 2010 mới được Trung ương khôi phục đảng tịch lúc đã 80 tuổi.

418 - Nguyễn Văn Thiệu
CUỐI ĐỜI, CHỐNG MỸ!
Nguyên Tổng thống VNCH sinh 1923 tại Phan Rang – Mất 2001 (78 tuổi).

Sau khi từ chức ngày 21.4.1975 và tuyên bố “đặt mình dưới sự sử dụng của Tổ quốc” đến ngày 25.4 đang đêm đã âm thầm lên máy bay qua Đài Loan song không được đón nhận phải đến Anh ngụ cư nơi có ngươì con trai du học. Đến 1983 chuyển qua sống ở Mỹ.
Trong những năm dài lưu vong,hoàn toàn sống thầm lặng ít khi ra mặt công khai, không viết sách hay hồi ký gì để lại, cũng rất ít khi chịu trả lời phỏng vấn như thể muốn ôm tất cả tâm sự “bí mật quốc gia” cùng theo mình xuống đáy mồ.
Tuy nhiên, trong một cuộc phỏng vấn riêng tư không chính thức dành cho người quen, có giải thích sở dĩ từ chức vì không tin “cụ Hương” (Phó TT Trần Văn Hương) giao chính quyền cho Cộng sản và tiếc Quân đoàn 4 VNCH không tiếp tục chiến đấu đừng nghe theo lệnh buông vũ khí của TT Dương Văn Minh. Còn về tình hình hiện nay ở hải ngoại thì tiếc là không còn những vị tướng tài giỏi đáng khâm phục như 5 tướng đã tuẫn tiết (Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ) để có thể cầm đầu cuộc “phục quốc”…
Riêng đối với người Mỹ thì rõ ràng mối ác cảm ngày càng nặng nề hơn cả khi từ chức từng lên truyền hình chửi Mỹ thậm tệ rằng “làm kẻ thù của Mỹ thì dễ, làm bạn với Mỹ rất khó”. Người thân kể lại đích thân mình đã dặn đứa con út sinh ra trên đất Anh rằng: “Một trong 2 kẻ thù của con (kẻ thù kia đương nhiên Cộng sản) là… Mỹ”!
Trong một dịp xuất hiện hiếm hoi trước công chúng năm 1990 đã bị nhiều Việt kiều chất vấn gay gắt về trách nhiệm làm sụp đổ chế độ VNCH, không thể có lời giải đáp thỏa đáng mà chỉ bày tỏ sự “thông cảm nỗi căm phẫn” của người đặt câu hỏi!
Năm 1992 khi bắt đầu có dấu hiệu tái lập quan hệ Mỹ – VN đã lên tiếng phản đối nhưng một năm sau lại có vẻ thay đổi lập trường, cho biết sẵn sàng tham gia đàm phán “hòa giải” với chính quyền CSVN với mục đích đấu tranh cho quyền lợi của Việt kiều về nước. Thậm chí còn tính chuyện xa hơn: “Về vấn đề tự do dân chủ cho đất nước, tôi tin rằng không sớm thì muộn Cộng sản bắt buộc phải chấp thuận bầu cử. Có thể mình sẽ không thắng các cuộc bầu cử đầu tiên nhưng mình phải tiếp tục cố gắng…”
Nhưng sau đó không thấy ai nhắc gì tới mình cả nên im lặng luôn, một con bài trong cuộc cờ đã quá tàn rồi. Rồi bệnh già phải đi cấp cứu, hồi phục đưa về nhà thì vừa mở cửa xe bước xuống bị đột quỵ ngay tại chỗ không tỉnh dậy nữa.

419 - Nguyễn Văn Thống
6 CON ĐỀU NHIỄM CHẤT ĐỘC DA CAM
Nông dân sinh 1955 tại Hà Nam. Sống ở Hà Nam (2006).
Bộ đội từng chiến đấu ở Quảng Trị, Khe Sanh, đường 9 Nam Lào nên bị nhiễm CĐDC lúc nào không hay.
Sau 75 ra quân về quê làm ruộng, lập gia đình sinh được 6 con đều chịu hậu quả của CĐDC: Con trai đầu dị dạng đầu to như quả bưởi bỏ nhà đi mất tich luôn; con gái thứ hai tương đối bị bệnh nhẹ nhưng lấy chồng sinh con bị bại não; con gái thứ ba bị u não di căn; con gái thứ tư lấy chồng sinh con cũng bị bệnh thần kinh bẩm sinh; con trai út bị bướu não phải mổ…
Có lúc tất cả các con đều phát bệnh cùng lúc chỉ còn biết… cầu Trời khấn Phật!

420 - Nguyễn Văn Thuận
13 NĂM TÙ TẤN PHONG HỒNG Y
Tu sĩ Thiên Chúa giáo sinh 1928 tại Huế – Mất 2002 tại Vatican (75 tuổi).
Trước 75 là Tổng Giám mục Nha Trang, là cháu cố Tổng thống Ngô Đình Diệm (mẹ là em ruột) nên trước ngày 30.4.1975 được Vatican đột ngột điều về làm Phó TGM địa phần Sài Gòn với chức danh “kế vị” có lẽ do Vatican cho rằng TGM Nguyễn Văn Bình đương nhiệm “thân Cộng”.
Nhưng chính động tác đó đã gây nghi kỵ đối với chính quyền cộng sản mới thành lập ở miền Nam. Vì vậy chính quyền bác bỏ quyết định của Vatican, buộc TGM Thuận quay lại Nha Trang rồi đến giữa tháng 8 năm này bắt giam luôn 13 năm không có án (trong đó đến 9 năm biệt giam ở miền Bắc).
Mãi đến cuối năm 1988 khi VN bắt đầu bước vào thời kỳ Đổi mới dưới thời cố Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh vốn không có thành kiến với đạo Công giáo mới đuợc trả tự do. Năm 1989 được cho phép qua Uc thăm mẹ già rồi qua Vatican yết kiến Đức Giáo hoàng Jean-Paul II. Trở về nước thì mắc bệnh lại được cho qua Vatican chữa bệnh nhưng lành bệnh thì… không được phép trở về nước nữa!
Từ đó ở lại làm việc trong Toà thánh, được cử giữ chức Phó Chủ tịch rồi Chủ tịch một uỷ ban của Vatican, trở thành giám mục VN giữ nhiệm vụ cao cấp nhất tại Vatican.
Năm 2001 được Giáo hoàng Jean-Paul II tấn phong Hồng y – vị Hồng y VN thứ tư đến lúc này (3 vị trước là Trịnh Như Khuê 1976, Trịnh Văn Căn 1979, Phạm Đình Tụng 1994 và sau này thêm vị Hồng y thứ năm Phạm Minh Mẫn 2003) – vì “cuộc đời anh hùng”, vì tấm gương “can đảm, chịu đựng và tha thứ, hòa giải”.
Tấm gương như thế đã từng thể hiện qua nhiều trang viết của ông trong cuốn “Con đường hy vọng” (The Road of Hope) kể về những suy nghĩ trong tù của mình: “Cho dù các anh có giết tôi, tôi vẫn yêu thương các anh. Tại vì Chúa đã dạy tôi phải yêu thương tất cả mọi nguời, cả kẻ thù. Nếu tôi không làm như vậy, tôi không đáng được gọi là tín đồ Thiên Chúa…”
Trong những phút cuối cùng khi lâm chung dù bị bệnh ung thư hành hạ thể xác vẫn yêu cầu không chích thuốc giảm đau để “thông phần” với cái chết của Chúa trên giá thập tự, nguyện cầu “Xin cho ý con nên giống với ý Cha.”
(Còn tiếp)

Thứ Tư, 13 tháng 10, 2010

NGÀY HÁT KHÚC TÌNH THUA - HOÀNG LỘC


cả đời ta vì một khúc tình thua
mà vác kiếm dạo quanh trời gái đẹp

mỗi quốc sắc chỉ một lần được chết
đã đâu yên – kìa năm bảy nấm mồ
cái thời ta cầu bại phải ngao du
bài ca cũ dễ chi đành tuyệt tích ?

cái thời mỗi tên hoa lần hồi ta xoá sạch
những môi thơm bặm kín nỗi u tình
những kỳ nữ xuôi tay còn trợn mắt
vu oan ta chỉ để nhẹ hồn mình

cái thời mỗi khi ta buồn dừng vó ngựa
là một quan tài lê lết qua sông
kiếm báu cứ lần chồm lên miệng vỏ
là bên kia trời lật xác thiên hương

thời tóc xanh bay rừng lòng ngạo mạn
đất thẳm trời dày trong tay hảo hán
tiếng cười gằn quên khấy chút khoan dung
đầu tình bay mà lưỡi kiếm còn rung

cái thời dưới khuya sương đau lòng bất bại
giặt áo phơi trăng hát lời độc cô
tiếng hát nổi chìm truyền ra miệng thế
mỗi khen chê đủ dằn mặt giang hồ

"...thèm nhát kiếm lia ngang trời kiêu bạc
trần gian ơi, tri kỷ dễ còn ai ?
ráng huề giùm ta ví không thắng được
cho ta riêng ngậm thử chút tinh hoài... "

em thuở ấy hẳn chưa từng biết mộng
trò cung tên chỉ quanh quẩn hiên rào
đâu tưởng nổi có lần em bắn trúng
con chim về từ cõi biển xanh dâu

đâu tưởng nổi lòng chưa khuây gió sóng
tóc đôi màu còn ướt ngọn sương mưa
lại có thể ta bàng hoàng chết lặng
mũi tên buông sau một nhát gươm đùa

đâu tưởng nổi ngày ta thèm qui ẩn
lại bất ngờ được hát khúc tình thua …


HL

Thứ Ba, 12 tháng 10, 2010

BÓNG - LÊ NGỌC THUẬN

Gõ chuông mõ từ núi rừng Lục Tuyết
Niệm nam mô không ngộ được nồi khoai
Ta lục lọi nửa đời chưa tìm thấy
Nơi chôn nhau của con chim chết chiều qua

Có phải ta chỉ là tên vô lại
Ngồi kiết già mộng vẫn cứ bất lương
Nhỡ buông tay để tình rơi vô vọng
Mặt mũi nào còn ngạo với nhân gian

Rượu ở đây mà em thì biền biệt
Một mình ta trơ trẻn giữa cơn say
Những bài thơ đã bán thân bất toại
Ta yêu người đau đớn rất nghiêm trang

Mang em trong ta như một bào thai
Nhưng khổ nổi không thể nào sinh nở
Đạo của tình – tội này là rất lớn
Thành trái tim tàn tật tới trăm năm

Thiền vốn vô môn làm sao gõ cửa
Đời vẫn vô thường nên ta lạc nhau
Gần đến tháng mười – vương phi có nhớ
Trời chắc sẽ mưa dù không như xưa

LNT

Thứ Hai, 11 tháng 10, 2010

SỰ CỐ TRÀN BÙN ĐỎ Ở HUNGARY : LỜI CẢNH BÁO CHO CÁC DỰ ÁN BAUXITE VIỆT NAM

Sự cố tràn bùn đỏ ở Hungary gây tác hại nghiêm trọng đến môi trường.Ảnh A F P

“Tuy các dự án bauxite của chúng ta chưa đi vào sản xuất, nhưng sự cố trên có thể xem như lời cảnh báo để chúng tôi chuẩn bị kỹ lưỡng, thận trọng hơn trong khâu thi công”, ông Dương Văn Hòa, Phó tổng giám đốc Tập đoàn than khoáng sản VN (TKV) cho biết.

Theo thiết kế dự án khai thác bauxite tại khu vực Tây Nguyên, hồ chứa bùn đỏ được chia thành nhiều bậc đập. Giai đoạn 1 sẽ xây dựng 8 ô chứa bùn đỏ, kéo dài cho 12 năm sản xuất, công việc xây lắp tuần tự là xây ô thứ hai sẽ tiến hành thải ô thứ nhất, nhằm đảm bảo sự cố các hồ chứa không bị tràn bùn. “Với thiết kế này, cứ một ô thải có một ô dự phòng, tức là thải một năm có một năm dự phòng các sự cố xảy ra. Việc xây lắp các ô chứa được tiến hành song song với xây dựng, hoàn thiện nhà máy”, ông Hòa nói. Dung tích mỗi ô chứa được lượng bùn thải ra trong khoảng 1,5 - 2 năm.
Ngoài ra, có một số phương án phòng tránh khác như điểm cuối hồ bùn đỏ có một cống chặn và cống này sẽ đóng chặt trong mọi trường hợp cần thiết nhằm chặn bùn tràn nếu có.
Cũng theo ông Hòa, các dự án sản xuất alumin trong nước hiện nay đều sử dụng công nghệ Trung Quốc nhưng chuẩn quốc tế (theo tiêu chuẩn công nghệ Bayer). Được biết, cuối tháng 12 tới đây sẽ bắt đầu tiến hành chạy thử dây chuyền sản xuất alumin tại các dự án (Tân Rai, Nhân Cơ) của TKV. Hiện tại, TKV đang chạy thử từng phần, theo trình tự nếu các nhà máy nước, điện, khí hóa chạy tốt mới tính đến sản xuất alumin.
Ông Hòa cũng cho biết, việc đảm bảo an toàn cho môi trường cũng đã được tính toán kỹ lưỡng. Bùn chứa ở các ô sẽ lắng đọng, thu hồi pH để bùn khô dần và hoàn nguyên, sau đó sẽ đóng hồ, phủ lớp vải chống thấm cả bên trên và bên dưới, rồi rải lớp đất khoảng 1m lên trên. Theo đó, cứ hai năm xả bùn sẽ mất ít nhất 3 năm để đất bùn hoàn nguyên lại thành đất tái sử dụng được.

Bài học từ sông Danube
Gbor Figeczky, quyền Giám đốc Quỹ Quốc tế bảo vệ thiên nhiên (WWF) - Hungary, cho hay hệ quả của thảm họa này nghiêm trọng đến nỗi khó có thể đánh giá chính xác. Ông Figeczky nhận định tổn thất đối với hệ sinh thái còn dữ dội hơn do các hóa chất đang được dùng để trung hòa độ kiềm của lũ bùn cũng độc hại không kém. “Một số động vật và cây cối chết ngay lập tức, một số khác sẽ bị nhiễm độc về lâu dài khi các kim loại nặng trong bùn đỏ tích tụ trong cơ thể chúng”, ông nói. Bùn đỏ là sản phẩm phụ của quá trình tinh chế bauxite thành oxide nhôm, nguyên liệu cơ bản để sản xuất nhôm.
Cơn lũ bùn đỏ do vỡ hồ chứa chất thải của một nhà máy nhôm tại miền tây Hungary hôm qua tràn đến Mosoni-Danube, một nhánh phía nam của sông Danube. AFP dẫn lời Tibor Dobson, người đứng đầu cơ quan ứng phó thảm họa địa phương, cho hay đến 14 giờ 30 (giờ VN), lượng bùn độc hại đã đổ vào nhánh sông trên, gần biên giới giữa Hungary với Slovakia và Áo, và đến 17 giờ bùn đỏ tiến thẳng vào dòng chính của Danube. Trước đó, đã cảnh báo nếu lũ bùn đỏ đến được Danube, con sông lớn thứ hai châu Âu, những quốc gia có thể bị ảnh hưởng bao gồm Croatia, Serbia, Romania, Bulgaria, Ukraine và Moldova.
Lũ bùn độc đã nhuộm đỏ một khu vực rộng đến 40 km2, phá hủy nhiều cơ sở hạ tầng ở thị trấn Ajka, giết chết ít nhất 4 người và hơn 100 người bị bỏng hóa chất và cay mắt. Nhà chức trách Hungary cho biết đến sáng 7.10, độ pH của dòng lũ bùn vào khoảng 9,3, cao hơn mức bình thường nhưng thấp hơn nồng độ ban đầu là 13. Loại bùn đỏ này, chứa nhiều chất vô cùng độc hại như chì, chrome và thạch tín, tấn công vào móng, tóc, da, mắt cũng như những cơ quan nội tạng như gan, thận, đồng thời có khả năng gây ung thư. Ông Dobson cũng cho biết toàn bộ hệ sinh thái của sông Mascal, một con sông nhỏ trong vùng, đã bị bùn độc hủy diệt hoàn toàn.
Mai Hà - Thụy Miên
(THANHNIEN ONLINE)

Chủ Nhật, 10 tháng 10, 2010

DÁNG THU - TRẦN DZẠ LỮ

Em về hoang dã trong tôi
Dáng thu Hà Nội sắc trời Tây Nguyên
Đẩy đưa một nụ cười tình
Để ai chết đứng bên thành quách xưa…
TDL

Thứ Bảy, 9 tháng 10, 2010

VUA GIA LONG Ở THĂNG LONG - CHOI BYUNG WOOK

Điện Kính Thiên cuối thế kỷ XIX - Ảnh: Dr Hocquard

Cùng với thời gian, vai trò của nhà Nguyễn trong tiến trình lịch sử Việt Nam cũng ngày càng được làm rõ dưới ánh sáng của một tư duy nghiên cứu khoa học khách quan, không thiên kiến, đặc biệt là những đánh giá về người sáng lập vương triều này.
Tham dự hội thảo quốc tế “Phát triển bền vững thủ đô Hà Nội văn hiến, anh hùng, vì hòa bình”, PGS-TS Choi Byung Wook (Đại học Inha, Hàn Quốc) đã thực hiện một khảo cứu về cuộc công du đầu tiên của vua Gia Long tới thành Thăng Long, ngay sau khi ông giành được quyền lực trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam từ nhà Tây Sơn. Báo Thanh Niên xin giới thiệu cùng bạn đọc lược trích bản tham luận rất đáng chú ý này như một nỗ lực tìm hiểu lịch sử Việt Nam của một học giả nước ngoài với nhãn quan độc lập.

Trong lịch sử Việt Nam, sự thống nhất Việt Nam từ Lạng Sơn đến Cà Mau được tiến hành trong 2 lần. Lần thứ nhất diễn ra vào thế kỷ XIX dưới thời vua Gia Long - người là hiện thân sự thống nhất miền Nam (Gia Định) và miền Bắc (Thăng Long). Gia Long đã từng hiện diện ở 3 trung tâm chính trị là Sài Gòn, Huế và Thăng Long để cai trị đất nước. Ông ở Sài Gòn năm 1788 để chuẩn bị lên ngôi hoàng đế vào năm sau đó, đến Huế vào tháng 5 năm 1801 và tiếp tục về Thăng Long trước khi ông chọn Huế là nơi trị vì lâu dài.
Gia Long vào thành Thăng Long vào ngày 21 tháng 6 năm 1802 (âm lịch) và ông rời Thăng Long vào ngày 27 tháng 9 năm đó. Trong suốt 3 tháng giam mình trong điện Kính Thiên, Gia Long ban hành một loạt chính sách mới.
Sự hiện diện của Gia Long ở Thăng Long có ý nghĩa đáng kể mặc dù thời gian chỉ là 3 tháng. Trong suốt thời gian ông ở đây, ông đã minh chứng cho các luật quan trọng như việc cải tổ bộ máy hành chính nhà nước, thiết lập mối quan hệ ngoại giao, hệ thống thuế, quản lý giáo dục, cách thức đương đầu với quân thù… Với thời gian 3 tháng Gia Long ở Thăng Long, thành phố này trở thành thành phố lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam là trung tâm tập trung quyền lực của toàn bộ quốc gia bao gồm các khu vực quanh sông Hồng, sông Hương và sông Cửu Long.
Trong số những chính sách mới được ban hành trong 3 tháng đó, tôi muốn tập trung nói về 2 vấn đề. Một là chính sách hòa giải đối với những quan lại thời Trịnh và Lê. Hai là việc thiết lập mối quan hệ ngoại giao với ngoại quốc.
Tại sao và như thế nào mà hai chính sách này liên kết với nhau để ta có thể hiểu thêm về Thăng Long vào đầu thế kỷ XIX? Theo quan điểm của tôi, hai chính sách này là hai điểm chính mà Gia Long xét đến để bảo vệ dân tộc mình khỏi những nguy cơ tiềm ẩn từ cả bên trong và bên ngoài. Bằng việc xem xét 2 chính sách này, chúng ta sẽ hiểu hơn tầm quan trọng của sự hiện diện của Gia Long đối với việc thống nhất dân tộc vào nửa đầu thế kỷ XIX.

Hòa giải
Như đã biết, Nguyễn Phúc Ánh (1762-1820, sau này hiệu Gia Long) là một chiến binh dày dạn kinh nghiệm (một xạ thủ cừ khôi) người đã lăn lộn trên rất nhiều chiến trường từ thuở thiếu thời. Khi quân đội của mình tiến ra phía bắc để giành lại thành Thăng Long từ tay quân Tây Sơn, ông đã ngay lập tức theo sau đoàn bộ binh lãnh đạo bởi Tả tướng quân Lê Văn Duyệt, cùng lúc đó là lực lượng hải quân do tướng Nguyễn Văn Trương chỉ huy. Theo Đại Nam thực lục (ĐNTL), Lê Văn Duyệt chiếm được thành Thăng Long vào ngày 17 tháng 6 năm 1802. Chỉ 4 ngày sau đó, Nguyễn Phúc Ánh đã làm chủ điện Kính Thiên, nơi ở của các hoàng đế triều Lê.
Chính sách hòa giải của ông tập trung vào những thành viên trong bộ máy chính quyền cai trị trước đây dưới thời Lê/Trịnh, và vào người nhà Tây Sơn. Các quan lại dưới triều Lê trước đây có thể được tha nếu họ không nhận lời mời làm quan của quân Tây Sơn mặc dù trong thực tế những người này chính là người của nhà Trịnh, những kẻ đã tranh chấp với nhà Nguyễn và đã đưa quân vào chiếm kinh đô của nhà Nguyễn (1775). Ông ta không có đủ lòng thương để tha cho những tướng lĩnh hàng đầu trong bộ máy chính quyền Tây Sơn bởi đây là những người luôn muốn tiêu diệt cả gia đình ông cho đến người cuối cùng. Tuy nhiên, đối với những binh lính còn lại, ông muốn đưa họ gia nhập đội quân của mình: “Còn người nào bị ép phải theo thì đều tha, nên cứ ở yên như cũ. Những kẻ có nhận quan chức của giặc ra thú thì được miễn tội, gần thì hạn 3 ngày, xa thì hạn 5 ngày.” (ĐNTL). Trước sắc lệnh này, nhiều tướng sĩ của triều Lê/Trịnh trước đây và Tây Sơn đã quyết định phụng sự vương triều mới.
Những nhà trí thức nho giáo, những người được cho là trung quân, nhưng lại góp sức cho quân Tây Sơn cũng không tránh khỏi sự trừng phạt, mặc dù một vài người có chức quan thuộc hàng cao nhất trong triều Tây Sơn như Ngô Thì Nhậm (1746-1803), Nguyễn Gia Phan (1749-1829), và Phan Huy Ích (1750-1822) đã được miễn tội chết để có thể phụng sự vương triều mới trong công tác ngoại giao với Trung Quốc bởi họ là những người có đầy đủ kinh nghiệm trong vấn đề này. Mặc dù đây chỉ là tạm thời và sau này họ vẫn phải chịu hình phạt, nhưng những chứng cứ đã cho chúng ta thấy rằng Gia Long đã tìm cách duy trì chính sách hòa giải của mình càng lâu càng tốt.
Gia Long đã tổ chức một buổi nghi lễ cho người dân và dành cho các vị thần có liên quan tới Thăng Long. Trong sách ĐNTL, Gia Long đã ra ngoài điện Kính Thiên lần đầu tiên để tới thăm lăng Lê Thái Tổ (tháng 7) và một tháng sau đó, ông chịu trách nhiệm tổ chức thu lễ ở Văn Miếu được xây dựng vào triều Lý và được duy trì suốt thời Lê.
Nhằm kết nối người dân ngoài bắc, Gia Long tìm đến hậu duệ của họ Lê là Lê Duy Hoán và phong là Diên Tự công, ban cho 1.016 người hầu cận và 10.000 mẫu đất. Chính sách nổi trội hơn nữa của Gia Long là trong việc nhẹ nhàng đối với họ Trịnh. Theo nguyên tắc đối xử nồng hậu, Gia Long nhấn mạnh với người truyền ngôn của nhà Trịnh: “Tiên đế ta với họ Trịnh vốn là nghĩa thông gia. Trung gian Nam Bắc chia đôi, dần nên ngăn cách, đó là việc đã qua của người trước, không nên nói nữa. Ngày nay trong ngoài một nhà, nghĩ lại mối tình thích thuộc bao đời, thương người còn sống, nhớ người đã mất, nên lấy tình hậu mà đối xử...” (ĐNTL). Gia Long đã cung cấp cho Trịnh Tư, người có trách nhiệm với việc cúng tế tổ tiên nhà Trịnh 500 mẫu ruộng để ông ta tiếp tục nhiệm vụ đang đảm nhiệm. Cùng thời điểm đó, 247 thành viên họ Trịnh được miễn thuế binh dịch và thuế thân.
Việc hòa giải dàn xếp của vua Gia Long dành cho cả hậu duệ của những người có công được coi là khai quốc công thần và trung hưng công thần của triều Lê. 33 khai quốc công thần và 15 trung hưng công thần được đặt tên khiến cho con cháu họ được tôn vinh bởi những tước hiệu khác nhau. Đối với những người ở phía bắc không theo nhà Tây Sơn, hoặc là chiến đấu chống lại hoặc là bất hợp tác, thì đều được liệt vào danh sách những người trung quân...
Một điều nữa cần chú ý là chính sách hòa giải của Gia Long đối với các dân tộc thiểu số. Gia Long là hiện thân của một xã hội đa dân tộc, vì thế sức mạnh của ông dựa vào sự đoàn kết đa tộc người. Vào thời điểm đó, các tỉnh Tuyên Quang, Hưng Hóa, Thái Nguyên có rất nhiều tộc người cư trú. Để liên kết sức mạnh của tất cả các tộc người này thành một quốc gia hùng mạnh mới, Gia Long mời họ về Thăng Long. Thực hiện lời hứa, triều đình đã ban quan chức cho họ.

Bang giao với Đông Nam Á và Trung Quốc
Từ khi Gia Long vào ở điện Kính Thiên thuộc thành Thăng Long, nhiều sứ giả nước ngoài đã lần lượt đến tiếp kiến ông.
Đầu tiên là vua Luang Prabang. Vị vua Lào này không phải là vua chính danh mà đang lưu vong ở tỉnh Hưng Hóa. Tuy nhiên, sự hiện diện của vua ngoại quốc ở điện Kính Thiên đã góp phần nâng cao uy tín của Gia Long. Tiếp theo, các nước Cao Miên, Lào và Xiêm cũng gửi các sứ giả đến để trình quốc thư chúc mừng.
Theo tôi được biết thì đây là lần đầu tiên các sứ giả ngoại giao từ các vùng Vạn Tượng, Cao Miên và Xiêm đến thành Thăng Long gần như cùng một lúc. Đó chính là dấu hiệu cho thấy mối quan hệ đối ngoại của Việt Nam sẽ được mở rộng hơn về hướng Đông Nam Á. Trong suốt những thập kỷ tiếp theo, mối quan hệ này tiếp tục được mở rộng với Miến Điện và các quốc gia đảo vùng Đông Nam Á.
Đặc biệt sự xuất hiện của sứ giả Xiêm có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Từ khi Nguyễn Phúc Ánh tị nạn tại Bangkok năm 1785, mối quan hệ giữa Nguyễn Phúc Ánh và Bangkok nhanh chóng trở nên bền chặt. Cho tới cuối thời Gia Long, việc mô tả mối quan hệ này với sứ giả ngoại giao có liên quan tới Xiêm xuất hiện trong cuốn Đại Nam thực lục với số lượng đáng ngạc nhiên là 60, trong khi con số giữa Việt Nam với Trung Quốc chỉ là 6. Nếu chúng ra còn nhớ các quốc gia hùng mạnh ở lục địa Đông Nam Á được lần lượt hình thành trong suốt nửa cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX (như triều đại Konbaung ở Miến Điện, triều đại Chakri ở Xiêm, nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn) thì mối quan hệ ngoại giao của Việt Nam có xu hướng trở nên gần gũi hơn với các cường quốc ở Đông Nam Á. Bước chuyển quan trọng này bắt đầu ở Thăng Long.
Từ đầu thế kỷ XIX, sự quan tâm của Việt Nam đối với Trung Quốc giảm mạnh. Lý do một phần là vì sự thống nhất dân tộc giành được là do sáng kiến của người Việt ở phương Nam - những người là một bộ phận của nhà Nguyễn ở Đàng Trong ít có quan hệ với Trung Quốc. Đối với nhà Nguyễn, mối quan hệ với các nước Đông Nam Á thân thuộc hơn.
Ở Thăng Long, Gia Long gửi Lại bộ thiêm sự Lê Chính Lộ và Binh bộ thiêm sự Trần Minh Nghĩa lá thư cho Tổng đốc Lưỡng Quảng (Quảng Đông và Quảng Tây) để đề nghị bắt đầu quá trình "bang giao", và cho phép họ vào Nam Quan ở khu vực biên giới Lạng Sơn và đợi câu trả lời từ phía Trung Quốc.
Vào thời điểm này, Gia Long đưa ra một đề nghị khá thú vị rằng ông nên đến Nam Quan để dự buổi gặp mặt ở đỉnh Nam Quan: "[...] Nước nhà mới dựng, muốn tiếp sứ nhà Thanh ở cửa ải [từ Hán Việt là quan thượng] để làm lễ tuyên phong cho đỡ phiền phí [...]”. (Đại Nam thực lục)
Có phải vì lý do là để giảm những phiền phí? Điều đó có thể đúng theo một mức độ nào đó, nhưng đó có thể không phải là lý do chính. Lý do đằng sau gợi ý này của vua Gia Long là gì và ý tưởng gì nằm phía sau lời đề nghị đó?
Đầu tiên là sự thờ ơ của Gia Long. Như đã đề cập ở trên, nhà vua các thành viên hoàng tộc đều chưa từng có kinh nghiệm trong quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. Trong Đại Nam thực lục tiền biên, lịch sử 250 năm của nhà Nguyễn, thật khó để tìm ra chứng cớ triều đình nhà Nguyễn cử các sứ giả tới Trung Quốc, trong khi triều Nguyễn lại duy trì mối quan hệ ngoại giao với các nước Đông Nam Á, Nhật Bản và các cảng biển Đông Nam Á của các cường quốc châu Âu.
Lý do thứ hai cần được đề cập ở đây là sự tìm tòi của Gia Long. Nhà vua đến Thăng Long không chỉ bằng đường bộ mà cả bằng đường biển. Nhà vua còn chưa biết đến chặng đường từ Thăng Long đến Lạng Sơn. Hẳn là nhà vua cũng muốn thăm vùng biên giới. Là một người trải nghiệm qua những chuyến đi biển dữ dội qua vịnh Xiêm, chuyến đi dễ dàng tới Lạng Sơn hẳn phải là một chuyến du ngoạn đầy thích thú để chiêm ngưỡng vùng biên cương.
Thứ ba, vai trò như là một người trị vì trong vùng cũng phải được xem xét kỹ lưỡng. Chuyến đi của vua được đồng hành bởi một loạt các hoạt động hảo tâm, nhân đạo để an ủi người dân.
Lý do thứ tư có thể được tìm thấy từ dự định của nhà vua trong việc biểu dương sức mạnh của ngài không chỉ đối với những người dân trên đường tới Lạng Sơn mà còn đối với những người Trung Quốc vùng biên giới.
Kế hoạch của Gia Long tới Nam Quan bị ngăn cản khi Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích khuyên rằng điều như thế chưa từng xảy ra trước đây. Tất nhiên nhà vua biết, nhưng nhà vua thích làm một điều mới mẻ.
Hơn thế nữa, Gia Long biết lịch sử Việt Nam rất kỹ bao gồm thời kỳ còn là Nam Việt. Gia Long gợi nhớ từ Triệu Vũ Đế (Triệu Đà) tới các hoàng đế thời Lý, Trần, Lê, ngụ ý rằng ngài không có lý do gì để tránh tước hiệu hoàng đế. Mọi người đều biết việc nhà vua khăng khăng lấy quốc hiệu Nam Việt. Tuy nhiên, như đã được hoàng đế Trung Hoa chỉ ra, quốc hiệu này dễ dàng nhắc họ nhớ tới nước Nam Việt thời Triệu Đà mà biên giới của nó bao trùm cả Việt Nam, Quảng Tây và Quảng Đông. Đối với Gia Long, vùng đất Nam Việt của Triệu Đà vẫn là điều gây sự hiếu kỳ. Trong suốt nửa đầu thế kỷ XIX, những quan lại nhà Nguyễn thường được phái đi Quảng Châu. Đối với những người này, lăng của Triệu Đà là nơi quan trọng phải chú ý.

Ý nghĩa cuộc Bắc du của vua Gia Long
Tôi đã thảo luận hai vấn đề được vua Gia Long chứng minh khi ông ở Thăng Long. Đầu tiên là chính sách hòa hoãn nhằm vào những trí thức miền Bắc và các dân tộc khác. Thứ hai là xây dựng một trật tự thế giới mới của Việt Nam. Nhiều chính sách ban hành tại Thăng Long đã trở thành mô hình cho các chính sách cơ bản của triều Nguyễn.
Chính sách hòa hoãn còn tồn tại trong các vương triều kế tiếp. Dưới các triều Minh Mạng (1820-1841) và Thiệu Trị (1841-1847), chính sách hòa hoãn nhằm vào những trí thức miền Bắc đã phát huy hiệu quả rất tích cực.
Trên phương diện bang giao, quan hệ gần gũi với các quốc gia Đông Nam Á tiếp tục được các vương triều sau này duy trì. Trong nửa đầu của thế kỷ XIX, trật tự thế giới được thừa nhận ở Việt Nam mang tính đa trung tâm chứ không phải lấy Trung Hoa là trung tâm hay trật tự kiểu con rồng nhỏ.
Thành Thăng Long đã được gần 800 năm tuổi tính đến năm 1802 khi Gia Long vào thành và ở lại đó. Tòa thành - với bề dày truyền thống, trí tuệ, kinh nghiệm và thậm chí cả linh hồn của tổ tiên trong suốt 800 năm - là nơi Gia Long từng quyết định cách thức quản lý mới ở Việt Nam. Quyết định Thăng Long - chính sách hòa hoãn và trật tự thế giới mới - có thể coi là nguồn cảm hứng quan trọng nhất của Thăng Long không chỉ đối với Gia Long mà còn đối với các nhà lãnh đạo quốc gia, những người đã nghiêm túc quan tâm đến sự thịnh vượng của nước Việt Nam thống nhất.

Người dịch: ThS Phạm Quốc Thành,
trường ĐH KHXH-NV, ĐH Quốc gia HN
PGS-TS Choi Byung Wook (Đại học Inha, Hàn Quốc)
(THANH NIEN ONLINE)