Có
thể nói những
bài thơ trong tập thơ Năm Chữ Ngàn Câu của nhà thơ Nguyễn
Lương Vỵ (xuất bản cuối năm 2014) là
những biến tấu liên miên bất tận của cái Being.
Being chứ không phải đời sống như chúng ta thường hiểu. Bạn có thể gọi nó là kiếp nhân sinh,
kiếp
người, đời sống, hữu thể, hiện tồn, hiện hữu, hiện sinh, hiện tính, thể tính,
hoặc cả chục từ ngữ khác tương tự. Nhưng xin bạn
cho phép tôi gọi nó
bằng cái từ tiếng Anh Being. Giản
dị, ý nghĩa hàm súc, nhưng hết
sức bao la, gợi mở. Dịch sang tiếng Việt, gọi nó là “đời sống” hoặc “kiếp người”
thì không đủ nghĩa, còn các thuật ngữ Hán-Việt thì bị tô đậm bởi màu sắc Triết học nặng nề, khó hiểu. Kì thực, dưới luồng sáng
của Triết học, Being được
định nghĩa là, “Một hình thái
ý thức chủ quan lẫn khách quan lí giải thực tại và sự hiện hữu.” Các triết gia Hy
Lạp
thời cổ đại nói nhiều về
nó. Sang thời cận, hiện đại các triết gia như Hegel, Heidegger, Sartre, v.v…cũng tốn khá nhiều
giấy mực về nó. Tuy nhiên, bởi không
mấy mặn mà với Triết học nên tôi thích
hiểu từ Being theo
cái nhìn của thi ca, một suy
nghiệm giao thoa giữa thực tại và huyễn mộng, bằng một thứ ngôn ngữ trong suốt chứ không
dày đặc thuật ngữ vốn
rất dễ đưa người ta sa vào chốn
hoả mù. Being dưới mắt nhìn của thi ca, có lẽ đơn giản hơn
và dĩ nhiên “thơ” hơn. Vì nó, Shakespeare băn
khoăn, “to be or not to be”;
Nguyễn Du gọi nó là “cuộc bể
dâu [với] những điều trông thấy mà
đau đớn lòng”; gần chúng
ta hơn, Milan Kundera gọi nó là cái “hệ toán hiện sinh”; và nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ,
với tinh thần cụ thể Việt Nam tính, thấy gì nói đó,
gọi nó là “bầu trời lộn ngược.”
Hiển nhiên, các thi sĩ
cũng đã tốn không ít giấy mực cho cái Being mà tập thơ Năm Chữ Ngàn Câu của nhà thơ Nguyễn
Lương Vỵ này là sự tốn kém mới nhất.
Mở tập thơ, tôi bắt gặp
ngay
thái độ và câu trả lời của nhà thơ, mà tôi đặc biệt yêu thích và tâm đắc,
về cái Being, “Hỏi ta vui hay buồn? Theo nắng sáng xuống phố!”
(Âm cuối thu). Một thái độ trầm tĩnh thấm đẫm tinh thần Đạo giáo
đông phương! Nhẹ nhàng. Phơi phới. Thong dong.
Không cần đi vào những suy nghiệm siêu hình mà lại tác động mạnh mẽ lên cảm xúc, đó là lợi
thế
của thi ca trên Triết học. Câu thơ biểu hiện một ý thức
trong sáng nắm bắt được lẽ sống thiên nhiên, thấu hiểu lẽ đời và những
hữu hạn tất yếu của con người sinh sống trong đó.
Sống hài hoà với những quy luật tự nhiên,
sống nương theo lẽ đời chứ không chinh phục cuộc đời; sống luôn luôn khiêm tốn, chẳng bao giờ dám vọng động
đến độ tự nhận mình là đỉnh
cao (mà khiếp hãi nhất là đỉnh cao trí tuệ). Phải chăng đấy
là triết lí sống
của người xưa mà ngày nay chúng ta gần
như quên bẵng?
Theo tôi, nhà thơ chẳng cần phải trả lời câu hỏi đời buồn
hay vui, bởi cuộc truy tìm ấy là một “nghịch lí chung cuộc”,
nếu tôi được phép vay mượn cụm từ này của Kundera.
Một nghịch lí “hết thuốc chữa” của cái Being.
Và, với Nguyễn Lương
Vỵ, nó là “Dấu hỏi hẳn đã chìm trong mộ, Hay vẫn lang thang trên đường
về?” hay “Dấu hỏi giữa hư
không thầm nhắc, Xa lòng giấc mộng
vẫn cầm canh.” (Dấu hỏi giữa hư không). Mọi suy diễn và lí giải về cái Being đều mang nặng tính chủ quan và không thực. Quan trọng hơn, nó sẽ không đi đến đâu và giải quyết được gì
cho chính bản thân chúng ta, nói gì đến
tha nhân. Nhà thơ là kẻ nhạy cảm với đời sống hơn ai hết, đau cái đau của nhân sinh,
vui cái vui của đồng loại, nhưng đừng kêu gọi nhà thơ cho lời giải đáp của cái “hệ toán hiện sinh” kia. “Đời thơ không khổ nạn, Làm sao thấu được thơ?”
(Không đề IV). Bởi nó là câu hỏi giữa hư không.
Không có câu trả lời nhưng
cũng không tuyệt vọng. Vâng, nhà thơ chìm đắm trong nỗi buồn, từ
nỗi buồn vạn cổ cho đến nỗi buồn vu vơ, nhưng nhà thơ không
tuyệt vọng. Quả thế, tôi không
hề tìm thấy một ý nghĩ tuyệt vọng nào trong thơ Nguyễn Lương Vỵ. Ngược lại là đằng
khác. Cho dù “khổ nạn” bao nhiêu chăng nữa, nhà thơ vẫn
“xanh” như trong bốn câu,
“Thánh ca rồi cũng tan,
Cầm dương rồi cũng tạnh. Lạnh lạnh lạnh lạnh lạnh, Thi sĩ đã
về xanh.” (Không đề VIII).
Ugo Betti, nhà văn
kiêm kịch tác gia người Ý có lần nói, “Tại bất cứ giây phút nào tôi
mở mắt, tôi đều hiện hữu. Còn
trước đó, trong suốt cái vô hạn,
là cái gì? Thưa, không là gì cả.” Một tình cờ
thật thú vị, tôi
tìm thấy ý tưởng này của ông
nhà văn viết cách đây gần ba phần
tư
thế kỉ trong mấy câu thơ sau
của Nguyễn Lương Vỵ, “Mộng ngày quên hỏi lại, Chùm bông
dại bay rồi. Lòng tay vắng tiếng trời, Biết làm
sao gặp được. (Phải vậy không?). Sư thật là, chỉ cần sống,
chỉ
cần hiện hữu trên mặt thế gian này đã đủ cho nhà thơ cảm thấy toại nguyện,
“Sống cho trọn kiếp, nào
phải trò trẻ con.” Câuthơ của BorisPasternak trong bài thơ bất hủ Hamlet. Tôi nghe kể hôm
nhà thơ qua đời, nhà nước Sô-viết chẳng những
không loan báo mà còn tìm mọi cách ngăn
cản người tiễn đưa thi hào quá cố ra huyệt mộ. Thế nhưng
vẫn có vài ngàn người đến
dự đám tang của ông. Chừng chục người ghé vai khiêng
quan tài, nắp
áo quan mở toang, họ vừa đi vừa trầm hùng
đọc
to bài thơ Hamlet như
lời tiễn đưa vĩnh
biệt
nhà thơ vĩ đại của dân tộc họ. Tôi
nghĩ thực ra họ
đang đọc lời tâm nguyện sống
như ông đấy. Sống cho trọn kiếp, ôi một điều khó khăn vô hạn.
Người là con vật duy nhất mà cái Being của riêng hắn là
vấn nạn chỉ mình hắn giải quyết. Sự vĩ đại
của con người không
nằm ở những thành tựu chính
trị hay kinh tế, không ở chỗ “thành công hay thành
nhân,” mà chính ở chỗ hắn can đảm sống
và sống cho trọn kiếp. Âm nhạc của
Beethoven không ca ngợi con người anh hùng
hay cá nhân thần thánh. Nó là bản
tụng ca cho cái tinh
thần sống như con người.
Và đừng quên câu nói bất hủ của Jean-Paul Sartre, như
nguyên lí thứ nhất cho Triết học Hiện sinh,
“Con người chẳng là cái gì ngoài cái hắn tạo dựng nên
chính hắn.”
*
Mặc dù tự nhận mình có sống
trong mộng ảo trong những
câu thơ sau, “Cuối đời càng lắm mộng,
Đêm về mộng am mây. Ngày ủ trong lòng tay, Ngát hơm
chùm bông dại.” (Phải vậy không?). Thế nhưng Nguyễn Lương Vỵ không có xu hướng quay về cõi mộng như rất nhiều nhà
thơ
miền Nam Việt Nam thuộc thế hệ trước. (Một hiện tượng khá lạ bởi trong một đất nước tơi bời
khói lửa chiến tranh mà chỉ có vài ba thi sĩ nói
về chiến tranh). Không quay về cõi mộng, Nguyễn Lương Vỵ cũng tuyệt đối rũ bỏ son phấn lụa là. Bạn sẽ không tìm thấy những thi ảnh kiểu “em buông
tóc kiêu sa đi trong chiều
nắng hạ” hoặc “ngón tay em dài, ngón chân em nhỏ” trong thơ Nguyễn Lương Vỵ bao giờ. Tôi mừng lắm. Bởi thú thật, tôi ớn loại thơ đó đến óc. Mong nó sẽ mãi mãi nằm trên kệ
sách bụi bám của các thư viện thị trấn miền xa.
Thơ Nguyễn Lương Vỵ
không son phấn lụa là nhưng
nhục cảm thì có.
Hai bài thơ thấm đẫm nhục cảm là bài “Đêm Tượng Trưng” và bài “Hà Hà Hà!”. Thấm đẫm nhục cảm
nhưng cả hai đều
kết
bằng tiếng cười ha hả
như khoái trá, như chọc ghẹo, như
đùa cợt bông phèng. Tôi lấy làm lạ. Khi đụng chạm đến vấn đề thân xác nhục cảm, người ta thường hay “chất
ngất cơn say” hoặc “đưa em lên đỉnh cuộc
tình” chứ ai đời lại cất tiếng cười ha hả bao giờ. Tôi có cảm tưởng đây chỉ là sự
châm biếm, tự biếm thì đúng hơn, nào đó của chính nhà thơ. Nhục
cảm được thăng hoa bởi tiếng cười ha hả chăng? Nhục cảm ở
chừng mực nào đó biến thành sự hài hước. Nhưng cái hài hước ở đây nhất định
không phải là sự trào phúng hoặc mỉa mai cay độc.
Ngược lại, nó chính là tinh thần tích cực yêu cái đẹp tự nhiên.
Nó được thể hiện bằng tiếng cười
khoái trá. Trong thơ Nguyễn
Lương Vỵ, có nhiều sự
khoái trá như thế lắm. Dịch xong một câu thơ
cổ, “Mừng rơn
hơn trúng số” (Hương cổ
thi), hoặc tự biếm “Mừng ta ngày càng khù!”
(Không đề III), nhà thơ đều
khoái trá.
Đọc thơ Nguyễn
Lương Vỵ, bạn sẽ không bắt gặp
những thi ảnh cụ thể của thực tại. Không có những thao thức hay trăn trở (đôi khi rất giả tạo) của kiếp người hay kiếp tha hương. Tôi không trách nhà thơ quay lưng với thực tại, bởi thực tại lắm khi chỉ là giấc mộng vô
thường, đến rồi đi, tồn tại rồi tan biến, có rồi không,
hoan lạc rồi đau khổ,
nói chung là cái vòng luẩn quẩn
vô thủy vô chung. Nó có gì đáng cho nhà thơ ca ngợi đâu. Hãy xem nó như cỏ
rác, bụi bặm bám lên người trong những
giây phút vô ý, sa đà, biếng nghĩ; hoặc nếu
cần thì cứ đổ lỗi cho số
kiếp,
cho định mệnh tai ương
hay quyền lực bạo tàn
nào đó. Nó là phần dư
thừa, những tế bào ung
thư
của đời sống. Cái đáng ca ngợi trong thi ca chính là sự cô độc, sự hiu quạnh của kiếp người. “Đêm
lạnh
không tiếng dế, Chỉ có tiếng thạch sùng. Tiếng trời là tiếng gió, Cửa sổ khép
hờ rung.” (Mấy bận thu phai).
Hay “Người đi đâu lặng ngắt, Đời về đâu lặng thinh.” (Không đề V). Sự thinh lặng giúp nhà thơ chiêm nghiệm lẽ sống
và những điều khác lạ mà có lẽ khó nhận
thức nếu chung quanh là cảnh huyên náo của cuộc đời. “Khách lạ đứng
nín thinh, Cúi nhặt vài âm lạ.” (Trưa ở chùa Linh Ứng).
Nguyễn Lương Vỵ bảo làm thơ tức là làm thinh. Câu “Mần thơ là mần thinh” (Tự hỏi tự đáp),
như một lời tuyên ngôn cho việc làm thơ của mình, láy đi láy lại như một điệp khúc trong tập
thơ.
Nó đồng nghĩa với sự cô độc. Làm thơ là nói với chính mình, là độc thoại với khoảng
không vô hạn trong lòng mình. Đúng
ra, nghệ thuật nào cũng là sự
đối
diện của người nghệ sĩ với sự
cô độc của chính mình. Chỉ sự cô độc mới cho người nghệ sĩ tìm ra cảm hứng
sáng tạo, cho “Chữ reo xanh ý tứ, Sắc màu ứa
vó câu.” (Không đề IX). Trăm năm trong cõi người ta là
Trăm năm hiu quạnh. Hoặc như Octavio
Paz, nhà thơ lớn nhất của nền thi ca Mexico thời hiện đại nhận định trong cuốn The Labyrinth of Solitude, “Sự hiu quạnh là
cái gì sâu thẳm nhất của kiếp
người. Con người là sinh vật duy nhất biết mình cô đơn.”
Tôi yêu thích
những bài “Không Đề” trong tập thơ Năm Chữ Ngàn Câu này, nhất là bài Không
Đề IV đề tặng nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh. Nó gói ghém cái nhìn của nhà thơ về nhà thơ.
Như trả lời câu hỏi, “Nhà thơ, mi là ai?” Có những câu
khá cường điệu trong bài thơ như, “Đời thơ không lời đáp, Tự móc mắt moi tim.”
Sự cường điệu có lẽ là cần thiết như một hình thức biểu đạt,
nhưng tựu trung, nó vẫn khẳng định thi sĩ luôn luôn là kẻ
cô đơn. “Đời thơ không quán
xá, Chữ buốt giá tuỷ trời.”
Mô-típ huyết-âm, âm-huyết xuất hiện như nốt
nhạc láy rền vang
động trong thơ Nguyễn
Lương Vỵ. Chúng hiện hữu
như một ám ảnh khôn nguôi, quay về mãi, mỗi lần với một ý
nghĩa khác nhau, và tất cả những ý nghĩa khác nhau đó
tuôn chảy qua cụm từ như
dòng nước tuôn chảy qua lòng
sông. Tôi muốn gọi chúng là lòng sông của
Heraclitus. (“Bạn không thể bước hai lần xuống
cùng một dòng sông”). Tôi không
rõ lắm hiệu ứng thi ca của các cụm từ đó khi xuất hiện trong những bài thơ mà đôi khi hiện ra như tiếng kêu tắc nghẹn, ngậm ngùi. Chỉ thấy bàng bạc một cảm
xúc mơ hồ dấy lên trong tâm tưởng chảy qua dòng
sông này có một dòng sông
khác; dòng sông với ý nghĩa
mới và những ý nghĩa cũ cộng hưởng, hòa nhập vào nhau. Cuộc nghiệm sinh mỗi lần vang
lên là một lần hòa nhập
vào nhau khiến bản
hòa âm đời sống càng
thêm phong phú.
Ít thấy những thi
ảnh cụ thể trong thơ Nguyễn Lương Vỵ, và nếu
có thì nó mang hơi hướm cổ
điển
như những câu sau trong bài Âm
cuối
thu, “Chiêm bao màu nắng lụa, Hửng
sáng ửng một đoá. Cúc vàng đang
ngậm sương, Tóc bạc vừa níu gió.” Cú điệu, nhạc tính trong thơ đều đều, êm nhẹ, đa phần
là thuận âm, bởi nhà thơ chọn thể thơ năm chữ niêm luật chỉn chu. Đọc tập thơ, thú thật có lúc tôi muốn tìm một nốt nhạc nghịch âm nào đó, và mặc dù trước khi gấp
sách, tôi bắt gặp vài ba bài thơ xuôi và thơ tự do, nhưng nhạc
tính của những bài thơ đó vẫn
không thoát khỏi sự êm dịu cố hữu
của thuận âm. Bạn cũng sẽ
thất vọng nếu bạn tìm kiếm sự
khai phá (hoặc đột phá, nếu
muốn nói theo ngôn ngữ
thời thượng) trong thơ Nguyễn
Lương Vỵ. Không có những thử
nghiệm mới lạ hoặc những hình
thức làm dáng kiêu kì. Không có
những kiểu vắt dòng ngược ngạo hay những kí hiệu gạch ngang gạch chéo ngớ
ngẩn như thơ của nhiều nhà thơ ngày nay.
Không có những thi ảnh trừu tượng, bí hiểm, làm dáng. Thơ Nguyễn
Lương Vỵ chủ về ý nghĩa và nghệ thuật phối từ. Nhà thơ cẩn trọng với chữ nghĩa vốn là truyền thống của thi ca Việt Nam từ
thời Trung đại. Đọc thơ Nguyễn
Lương Vỵ, tôi ít bắt gặp những từ trang trọng,
đẹp đẽ. Thế nhưng, nhờ tài năng và một tâm hồn
yêu thơ cao độ, Nguyễn Lương Vỵ đã khéo léo sắp đặt
những từ tưởng là tầm thường như hòn sỏi bên cạnh nhau để biến chúng thành chuỗi ngọc sáng
ngời.
Đọc
xong tập thơ của Nguyễn Lương Vỵ, nếu có kẻ hỏi tôi đời buồn hay
vui thì tôi sẽ trả lời kẻ ấy
bằng câu thơ “Theo nắng sáng xuống phố!” rồi thản nhiên nhìn cái Being chảy
trôi trước mắt.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét