Thứ Bảy, 17 tháng 1, 2015

NGUYỄN LƯƠNG VỴ : VẤN NẠN CỦA CÁI BEING - TRỊNH Y THƯ



  thể i những bài thơ trong tập thơ Năm Chữ Ngàn Câu của nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ (xuất bản cuối năm 2014) là những biến tu liên miên bất tận của cái Being.

Being chứ không phải đời sống như chúng ta thường hiểu. Bn thể gọi kiếp nhân sinh, kiếp người, đời sống, hữu thể, hiện tồn, hiện hữu, hiện sinh, hiện tính, th tính, hoc cả chục từ ngữ khác tương tự. Nhưng xin bạn cho phép tôi gọi nó bằng cái t tiếng Anh Being. Giản dị, ý nghĩa hàm súc, nhưng hết sức bao la, gợi mở. Dch sang tiếng Việt, gọi nó “đi sống” hoặc “kiếp người” thì không đủ nghĩa, còn các thut ngữ Hán-Việt thì bị đm bởi màu sắc Triết học nặng nề, khó hiểu. Kì thực, dưới lung sáng của Triết hc, Being được đnh nghĩa là, “Một hình thái ý thức chủ quan lẫn khách quan gii thực ti sự hiện hữu.” Các triết gia Hy Lạp thời cổ đại nói nhiu về nó. Sang thời cận, hiện đại các triết gia như Hegel, Heidegger, Sartre, v.v…cũng tốn khá nhiều giấy mực về nó. Tuy nhiên, bởi không my mặn mà với Triết học nên tôi thích hiểu t Being theo cái nhìn ca thi ca, một suy nghiệm giao thoa giữa thực ti huyễn mộng, bằng một thứ ngôn ngữ trong suốt ch không dày đặc thuật ngữ vn rất dễ đưa người ta sa vào chốn hoả mù. Being dưới mắt nhìn của thi ca, l đơn giản hơn và nhiên “thơ” hơn. Vì nó, Shakespeare băn khoăn, “to be or not to be”; Nguyễn Du gọi cuộc bể dâu [với] những điều trông thấy mà đau đớn lòng”; gần chúng ta hơn, Milan Kundera gọi cái h toán hiện sinh”; và nhà thơ Nguyn Lương V, với tinh thn cụ thể Vit Nam tính, thấy nói đó, gọi nó là bầu tri ln ngược.” Hiển nhiên, các thi sĩ cũng đã tn không ít giấy mc cho cái Being mà tập tNăm Ch Ngàn Câu của nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ này sự tốn kém mới nhất.

Mở tập thơ, tôi bt gặp ngay thái độ câu tr li của nhà thơ, mà tôi đặc biệt yêu thích tâm đắc, về cái Being, Hỏi ta vui hay buồn? Theo nắng sáng xuống phố! (Âm cuối thu). Một thái độ trầm tĩnh thm đm tinh thần Đạo giáo đông phương! Nhẹ nhàng. Phơi phi. Thong dong.
Không cần đi vào những suy nghiệm siêu hình mà lại tác động mạnh m lên cảm xúc, đó là li thế của thi ca trên Triết học. Câu thơ biểu hiện một ý thức trong sáng nm bắt được lẽ sống thiên nhiên, thấu hiểu l đi và những hữu hạn tt yếu của con người sinh sống trong đó. Sng hài hoà với những quy luật t nhiên, sống nương theo l đời chứ không chinh phục cuộc đi; sống luôn luôn khiêm tốn, chẳng bao gi dám vọng động đến độ t nhận mình đỉnh cao (mà khiếp hãi nhất đỉnh cao trí tu). Phải chăng đấy là triết sống của người xưa mà ngày nay chúng ta gần như quên bẵng?

Theo tôi, nhà thơ chẳng cần phải trả lời câu hỏi đời buồn hay vui, bởi cuc truy tìm ấy một “nghịch chung cuộc”, nếu tôi được phép vay mượn cm từ này của Kundera. Một nghịch lí “hết thuc chữa” của cái Being. Và, với Nguyễn Lương Vỵ, Dấu hỏi hẳn đã chìm trong mộ, Hay vẫn lang thang trên đường về? hay Dấu hỏi giữa hư không thm nhắc, Xa lòng giấc mộng vẫn cầm canh.” (Dấu hỏi giữa hư không). Mọi suy din gii về cái Being đều mang nặng tính ch quan không thực. Quan trọng hơn, nó sẽ không đi đến đâu gii quyết được gì cho chính bn thân chúng ta, nói đến tha nhân. Nhà thơ kẻ nhạy cảm với đời sống hơn ai hết, đau cái đau của nhân sinh, vui cái vui của đồng loại, nhưng đừng kêu gọi nhà thơ cho li gii đáp của cái h toán hin sinh” kia. Đời t không khổ nạn, Làm sao thấu được thơ? (Không đề IV). Bởi nó là câu hi giữa hư không.

Không có câu trả li nhưng cũng không tuyệt vọng. Vâng, nhà thơ chìm đm trong nỗi buồn, từ nỗi buồn vn cổ cho đến nỗi buồn vu vơ, nhưng nhà thơ không tuyệt vọng. Quả thế, tôi không hề m thấy một ý nghĩ tuyt vọng nào trong thơ Nguyễn Lương Vỵ. Ngược lại đằng khác. Cho dù “khổ nạn” bao nhiêu chăng nữa, nhà thơ vẫn “xanh” như trong bốn câu, Thánh ca rồi cũng tan, Cầm dương rồi ng tạnh. Lạnh lạnh lạnh lnh lạnh, Thi đã về xanh.” (Không đề VIII).

Ugo Betti, n văn kiêm kịch tác gia người Ý lần nói, Tại bất cứ giây phút nào tôi mở mắt, tôi đều hiện hữu. Còn trước đó, trong suốt cái hạn, là cái gì? Thưa, không cả. Một tình ctht thú vị, tôi tìm thấy ý tưởng này của ông nhà văn viết cách đây gần ba phần tư thế kỉ trong mấy câu thơ sau của Nguyễn Lương Vỵ, “Mộng ngày quên hỏi lại, Chùm bông dại bay rồi. Lòng tay vắng tiếng trời, Biết làm sao gặp được. (Phải vậy không?). Sư thật là, ch cần sống, ch cần hiện hữu trên mặt thế gian này đã đủ cho nhà thơ cm thấy toại nguyện, Sống cho trn kiếp, nào phải trò trẻ con.” Câuthơ của BorisPasternak trong bài thơ bất hủ Hamlet. Tôi nghe kể hôm nhà t qua đi, nhà nước Sô-viết chẳng những không loan báo mà còn tìm mọi cách ngăn cản ngưi tiễn đưa thi hào quá cố ra huyệt mộ. Thế nhưng vẫn có vài ngàn người đến dự đám tang của ông. Chừng chục người ghé vai khiêng quan tài, nắp áo quan m toang, họ va đi vừa trm hùng đc to bài thơ Hamlet như li tiễn đưa vĩnh biệt nhà thơ vĩ đại ca dân tộc họ. Tôi nghĩ thực ra họ đang đọc li tâm nguyện sống như ông đấy. Sống cho trọn kiếp, ôi một điều khó khăn vô hạn.

Người con vật duy nhất mà cái Being của riêng hắn là vấn nạn chỉ mình hắn giải quyết. Sự vĩ đại của con người không nằm ở những thành tựu chính tr hay kinh tế, không ở chỗ “thành công hay thành nhân,” mà chính ở chỗ hn can đảm sống và sống cho trọn kiếp. Âm nhạc của Beethoven không ca ngi con người anh hùng hay nhân thần thánh. Nó là bản tng ca cho cái tinh thần sng như con người. Và đừng quên câu nói bất hủ của Jean-Paul Sartre, như nguyên thứ nhất cho Triết hc Hiện sinh, Con người chẳng cái ngoài cái hắn tạo dựng nên chính hắn.”

*

Mặc dù tự nhận mình sống trong mộng ảo trong nhng câu thơ sau, Cuối đời càng lắm mộng, Đêm v mộng am mây. Ngày ủ trong lòng tay, Ngát hơm chùm bông dại.” (Phi vậy không?). Thế nhưng Nguyễn Lương Vỵ không có xu hướng quay về cõi mộng như rt nhiều nhà t miền Nam Việt Nam thuộc thế h trước. (Mt hiện tượng khá l bi trong một đất nước tơi bời khói lửa chiến tranh mà chỉ vài ba thi sĩ nói về chiến tranh). Không quay về cõi mộng, Nguyễn Lương Vỵ cũng tuyệt đi rũ bỏ son phấn lụa là. Bạn sẽ không tìm thấy những thi ảnh kiểu “em buông tóc kiêu sa đi trong chiều nắng hạ” hoặc “ngón tay em dài, ngón chân em nhỏ” trong thơ Nguyễn Lương Vỵ bao giờ. Tôi mừng lm. Bởi thú thật, tôi ớn loại t đó đến óc. Mong nó sẽ mãi mãi nm trên kệ sách bụi bám của các thư viện th trấn miền xa.

Thơ Nguyễn Lương Vỵ không son phấn lụa nhưng nhục cảm thì có.

Hai bài thơ thấm đm nhục cảm bài “Đêm Tưng Trưng” bài “Hà Hà Hà!”. Thm đm nhục cảm nhưng cả hai đều kết bằng tiếng cưi ha hả như khoái trá, như chọc ghẹo, như đùa cợt bông phèng. Tôi lấy làm lạ. Khi đụng chạm đến vấn đề thân c nhục cảm, người ta thường hay “chất ngt cơn say” hoc “đưa em lên đnh cuộc tình” ch ai đời li ct tiếng cười ha hả bao giờ. Tôi  cảm tưởng đây chỉ sự châm biếm, t biếm t đúng hơn, nào đó của chính nhà thơ. Nhục cảm được thăng hoa bởi tiếng cười ha hả cng? Nhục cm ở chừng mực nào đó biến thành sự hài hước. Nhưng cái hài hước ở đây nhất định không phải sự trào phúng hoặc mỉa mai cay độc. Ngược lại, nó chính tinh thần tích cực yêu cái đẹp t nhiên. Nó được thể hiện bằng tiếng cười khoái trá. Trong thơ Nguyễn Lương Vỵ, có nhiều sự khoái trá như thế lm. Dịch xong một câu t cổ, Mừng rơn hơn trúng s (Hương cổ thi), hoặc tự biếm Mừng ta ngày càng khù!” (Không đề III), nhà thơ đều khoái trá.

Đọc thơ Nguyễn Lương Vỵ, bạn sẽ không bắt gặp những thi ảnh cụ thể của thực ti. Không có những thao thức hay trăn trở (đôi khi rất gi to) của kiếp người hay kiếp tha hương. Tôi không trách nhà thơ quay lưng với thực tại, bởi thực tại lắm khi chỉ giấc mộng vô thường, đến rồi đi, tồn ti rồi tan biến, ri không, hoan lạc ri đau khổ, nói chung cái vòng luẩn quẩn vô thủy vô chung. Nó có đáng cho nhà thơ ca ngợi đâu. Hãy xem nó như cỏ rác, bụi bặm bám lên người trong những giây phút vô ý, sa đà, biếng nghĩ; hoặc nếu cần thì cứ đổ lỗi cho số kiếp, cho định mnh tai ương hay quyền lực bạo tàn nào đó. Nó là phần dư thừa, nhng tế bào ung thư của đời sống. Cái đáng ca ngợi trong thi ca chính sự cô độc, sự hiu quạnh của kiếp người. Đêm lạnh không tiếng dế, Chỉ tiếng thch sùng. Tiếng trời tiếng gió, Cửa sổ khép hờ rung.” (Mấy bận thu phai). Hay Người đi đâu lặng ngắt, Đời về đâu lặng thinh.” (Không đề V). Sự thinh lặng giúp nhà thơ chiêm nghim lẽ sống và nhng điều khác lạ mà có l khó nhn thức nếu chung quanh cảnh huyên náo của cuộc đời. Khách l đứng nín thinh, Cúi nhặt vài âm lạ.” (Trưa ở chùa Linh Ứng).

Nguyễn Lương Vỵ bảo làm thơ tức làm thinh. Câu Mần thơ mần thinh (Tự hỏi tự đáp), như một lời tuyên ngôn cho việc làm thơ của mình, láy đi láy lại như một điệp khúc trong tập
thơ. Nó đồng nghĩa với sự cô độc. Làm thơ là i với chính mình, độc thoại vi khoảng không vô hạn trong lòng mình. Đúng ra, nghệ thuật nào cũng sự đối diện ca người nghệ với sự cô độc của chính mình. Chỉ sự cô độc mới cho người nghệ sĩ m ra cảm hứng sáng tạo, cho Chữ reo xanh ý tứ, Sắc màu ứa vó câu.” (Không đề IX). Trăm năm trong cõi người ta Trăm năm hiu quạnh. Hoặc như Octavio Paz, n thơ lớn nhất của nền thi ca Mexico thời hiện đại nhận định trong cuốn The Labyrinth of Solitude, Sự hiu quạnh là cái sâu thẳm nhất của kiếp người. Con người sinh vật duy nhất biết mình đơn.”


Tôi yêu thích những bài “Không Đề” trong tập thơ Năm Chữ Ngàn Câu này, nhất bài Không Đề IV đề tng nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh. Nó gói ghém cái nhìn của nhà thơ về nhà thơ. Như tr lời câu hỏi, “Nhà thơ, mi ai? những câu khá ng điệu trong bài thơ như, “Đời t không li đáp, Tự móc mắt moi tim.” Sự cường điệu l cần thiết n một hình thức biểu đạt, nhưng tựu trung, nó vẫn khẳng định thi sĩ luôn luôn kẻ cô đơn. “Đời t không quán xá, Chữ buốt giá tuỷ tri.”

Mô-típ huyết-âm, âm-huyết xut hin như nốt nhạc láy rền vang động trong thơ Nguyn Lương Vỵ. Chúng hiện hữu như một ám ảnh khôn nguôi, quay về mãi, mỗi lần với một ý nghĩa khác nhau, tt cả những ý nghĩa khác nhau đó tuôn chảy qua cm từ như dòng nước tuôn chảy qua lòng sông. Tôi muốn gọi chúng lòng sông của Heraclitus. (Bạn không thể bước hai lần xuống cùng một dòng sông”). Tôi không rõ lắm hiệu ứng thi ca của các cụm từ đó khi xuất hiện trong những bài thơ mà đôi khi hin ra như tiếng u tắc nghẹn, ngậm ngùi. Ch thấy bàng bc một cm xúc mơ hồ dấy lên trong tâm tưởng chảy qua dòng sông này một dòng sông khác; dòng sông với ý nghĩa mới những ý nghĩa cộng hưởng, hòa nhập vào nhau. Cuộc nghim sinh mỗi lần vang lên một lần hòa nhập vào nhau khiến bản hòa âm đời sống càng thêm phong phú.

Ít thấy những thi ảnh cụ thể trong thơ Nguyễn Lương Vỵ, nếu có thì mang hơi m cổ điển như những câu sau trong bài Âm cuối thu, Chiêm bao màu nắng lụa, Hửng sáng ửng một đoá. Cúc vàng đang ngậm sương, Tóc bạc vừa níu gió.” điệu, nhạc tính trong thơ đều đều, êm nhẹ, đa phần là thuận âm, bởi nhà thơ chọn th t năm ch niêm luật chỉn chu. Đọc tập thơ, thú thật lúc tôi muốn tìm một nốt nhạc nghịch âm nào đó, mặc trước khi gấp sách, tôi bt gặp vài ba bài thơ xuôi thơ t do, nhưng nhạc tính của những bài thơ đó vẫn không thoát khi sêm dịu cố hữu của thuận âm. Bạn cũng sẽ tht vọng nếu bạn tìm kiếm sự khai phá (hoặc đột phá, nếu muốn nói theo ngôn ngữ thời thượng) trong thơ Nguyn Lương V. Không có những thử nghiệm mới l hoặc nhng hình thức làm dáng kiêu kì. Không có những kiểu vắt dòng ngược ngạo hay nhng hiệu gch ngang gch chéo ngớ ngẩn như thơ của nhiều nhà thơ ngày nay. Không có nhng thi nh tru tưng, bí him, m dáng. Thơ Nguyễn Lương Vỵ chủ về ý nghĩa và nghệ thuật phi t. Nhà thơ cẩn trọng với ch nghĩa vốn là truyền thống của thi ca Việt Nam từ thời Trung đại. Đọc thơ Nguyễn Lương Vỵ, tôi ít bắt gặp những t trang trọng, đẹp đẽ. Thế nhưng, nhờ tài năng một m hồn yêu thơ cao độ, Nguyễn Lương Vỵ đã khéo léo sắp đt những t tưởng tầm thường như n sỏi bên cạnh nhau đ biến chúng thành chuỗi ngọc sáng ngời.


Đọc xong tập thơ của Nguyễn Lương Vỵ, nếu có k hỏi tôi đi buồn hay vui thì tôi s tr li kẻ ấy bng câu thơ Theo nắng sáng xuống phố!” rồi thản nhiên nhìn cái Being chảy trôi trước mắt.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét