|
1
'Ngậm thẻ qua
sông'
do Hội Nhà văn xuất bản vào đầu năm 2013, ngoài phần thơ còn xen kẽ các
phụ bản, gồm 4 ký họa của Trần Đạt, Nguyễn Tuấn, Bùi Ngọc Tư, tranh bìa cùng
hai bức nữa của Nguyên Lý (Quỳnh Bích Châu), và hai bản phổ nhạc, một của Vũ
Ngọc Giao, một của Châu Đăng Khoa.
Tập thơ mỏng,
trang nhã. Mười chín bài, viết theo thể trường đoản cú (hai bài), lục bát
(chín bài), bảy chữ cổ phong cách tân (bốn bài), tám chữ phá cách liên vận
hay cách vận (bốn bài). Bài sớm nhất có ghi thời điểm sáng tác năm 1972; bài
trễ nhất có thể là đoản thi in đầu tập 'Nghĩ về thơ', hẳn mới được
viết gần đây. Như thế, tuy là tập thơ đầu tay, 'Ngậm thẻ qua sông'
thật ra có hơn bốn chục tuổi đời.
2
Cảm tưởng đầu
tiên, thơ Phù Hư mang phong vị cổ, 'mây ngâm úng nước chiều trời /chuông
xô tháp nhọc nặng lời chia tay/ ở lâu nhà phố ngủ lầy/ nhạc phao tin ngựa
rong đầy phố câm' (Ngưa ô vong). Hoặc 'ngàn năm biên ải giữ oan hồn/
lá rừng xô gió núi sông xương/chết phơi khí tiết vô danh sĩ/chết đắng cay ma
núi ngậm hờn' (Quân bộ khúc, 1973). Thế nhưng trong hơi hướng cổ của
những câu thơ vừa trích, cùng với những câu thơ khác suốt tập, chan chứa hình
ảnh lạ và đắt, phong cách diễn đạt cá biệt, mang tính sáng tạo với nỗ lực tìm
tòi cái mới và con đường riêng của một thi sĩ, dù lúc viết chúng ra, tuổi anh
chỉ vừa qua ngưỡng hai mươi, 'mặt thâm hiểm quá răng trắng nhởn/biên giới
xế chiều như cõi âm/cây che mù mịt vùng lãnh khí/có tiếng ai cười nghe xa
xăm' (Quân bộ khúc), hoặc 'rượu vang đỏ máu chim mù/ai đem gan ruột
trùng tu tiếng người/tiếng cô hồn khóc trời ơi/nến đêm nguyệt tận thắp đồi cỏ
thiêng' (Cung tơ chiều).
3
Phù Hư lớn lên
trong cuộc chiến vừa qua, và hẳn cũng từng khoác áo lính. Bốn bài thơ viết về
đời lính 'Một chân giày', 'Quân bộ khúc', đặc biệt, 'Đồn sơn
yễm' và ‘Ngậm thẻ qua sông', theo tôi, tạo cho Phù Hư giọng thơ
rất riêng và chỗ đứng cũng rất riêng của một thi sĩ cầm súng. Trong thế kỷ
vừa qua, bỏ sang một bên vô số 'thơ cổ động’ được lưu hành mỗi bên chiến
tuyến hay mỗi miền đất nước, có lẽ đếm chưa đầy các ngón tay những thi phẩm
đúng nghĩa, ghi sắc nét và đầy xúc cảm về thân phận cùng nỗi niềm của người
lính Việt. Ngoài hình ảnh người lính thấp thoáng trong thơ Hữu Loan, Yên
Thao, Nguyễn Duy, v.v. và khá đông thi sĩ Miền Nam, ta cách riêng có Quang Dũng,
Hoàng Cầm, Nguyễn Bắc Sơn. Và nay có thêm Phù Hư với mấy bài thơ vừa được
chính thức lưu hành. Khác với vẻ hào hùng lãng mạn trong thơ Quang Dũng, tưng
bừng quyết chiến trong thơ Hoàng Cầm, đắng cay khinh bạc trong thơ Nguyễn Bắc
Sơn, người lính trong thơ Phù Hư cúi mặt cam đành; thân xác bị đẩy vào lửa
đạn mà tâm tư xa lạ với trận mạc, hờ hững với nguyên cớ chiến đấu, không than
oán cũng chẳng tự hào, cứ thế lầm lũi di hành, sẵn sàng cho phút giây định
mệnh, nhưng với tâm thức sáng suốt và phẩm cách của một con người, ‘âm
thầm đêm tối gào giữ giặc/nhanh đạn chuyền quanh chống tuyến đầu/gió núi rên
oằn băng tiếng pháo/mây tan đường trái phá qua sâu/… rượu hết từ khuya vắng
tiếng người/đêm lính trú buồn ham bếp lửa/nhìn nhau kể chuyện vẫn cười
chơi/tay hơ than khói khô da thịt/thuốc đốt từng khoanh dấu mặt người'. (Đồn
sơn yễm, 1972). Hoặc ‘buổi mới đến cau cao vừa nhú bẹ/em thẹn thùa tôi
tưởng thuở bình yên/tôi đâu hay em có nỗi hờn riêng/trông chinh chiến gọi hồn
chồng theo gió/một tháng tròn ngỡ như ngày thuở nhỏ/em là em mẹ là mẹ xưa’
(Ngậm thẻ qua sông, 1972)
4
Ở đây, tôi không
dám bàn về độ cao nghệ thuật của thơ Phù Hư trong 'Ngậm thẻ qua sông'
vì tôi nghĩ, giá trị của tác phẩm vốn nằm trong tự thân nó, và đường bay của
tác phẩm biến thiên theo độ rung của mỗi người khi đọc đi đọc lại cùng không
khí của mỗi thời đại. Điều tôi tiếc là hầu như Phù Hư đã ngưng tiếng thơ của
anh sau khi viết ra những bài chính trong tập này, có thể vì kể từ năm 1975,
đã xảy ra quá nhiều điều nghiệt ngã cho thơ và thi sĩ. Thế rồi, khi thơ gặp
vận mở để có mặt rộng rãi trên các tạp chí thì một chút mặt bằng trên kệ
trong nhà sách lại được trân quí hơn thơ, nên độc giả ít có cơ hội chạm tay
vào một tập thơ. Ước gì với thành quả của 'Ngậm thẻ qua sông', Phù
Hư có đủ hứng khởi cầm bút trở lại, đi tiếp con đường anh đã cho thấy rằng
thơ là đầu nguồn của sáng tạo và đổi mới ngôn từ, là hình ảnh của cảm xúc,
nhịp điệu của những giấc mộng trong tâm hồn và các thực tại giữa cuộc đời.
5
Ghi chú: Phù Hư, tên thật Nguyễn
Đắc Ngân, sinh năm 1951 tại Hải Dương. Lúc nhỏ sống ở Huế. Từ năm 1972 định
cư tại Sài gòn cho đến nay. Thơ đã đăng ở các báo Khởi hành, Văn, Thời
tập, Đúng dậy, Mỹ thuật thời nay. (Ghi theo bìa tập thơ).
6
Mời đọc:
NGẬM THẺ QUA SÔNG
Phù Hư
thơm lửa hương
khoai tiếng hát rừng
ven thôn vừa ghé
buổi di quân
khói mẹ sau lều
cơm chín tới
nước em chè lá đậm
phèn sông
tôi đời trận mạc
xa quê quán
buổi ghé nương em
núp bóng nhà
em nhớ thương
chồng đóng đồn ải xa
lâu tin vắng trông
mòn đường xóm
tôi ở quá bên hông
nhà gió sớm
đợi giùm em tin
chinh chiến gởi về
đêm nay mưa em mắt
ngủ khuya
tôi lạnh gió tin
địch về vẫn thức
làng em ở gió Lào
qua rất độc
ngày mưa mùa khuất
núi mù sông
mẹ già mong một
mụn cháu đầu lòng
em nhắn gởi bao
lần tin vẫn biệt
ruộng vườn em
trăng sương ngày tháng Chạp
tôi gác đêm như
bóng người rình
tối nay đạn nổ nhẹ
mạn sông
sương mỏng quá
nhìn hoa ngàn con mắt
tôi giữa đêm nghe
mình như thất lạc
thương xóm nhà
biết nổ đạn vào đâu
đồng đội tôi ngủ
mệt thôn sâu
ngại làm động mẹ
ho vừa chợp mắt
tôi nương bóng nhà
trăng che khuất
ngồi co mình cho
bóng bớt riêng tôi
nhìn xa trăng định
trốn sau đồi
sông tiếng bạc dặm
buồn như tiếng cú
thức có khuya mới
nghe hồn bớt ngủ
mới hay trăng
tháng chạp úa quanh đời
nghe em thở não
mãi không nguôi
em thở đó hay gió
kêu mùa giá
nhà em ở miệt đông
xóm hạ
bên triền sông
không bến phải vắng thuyền
đầu trăng con nước
rất vô duyên
lên mấp mé vườn em
vai phơi áo
em rất nhỏ ngày
trông vào gánh gạo
mẹ thì già vồn cải
với nương rau
bước sau hiên vun
mẹ dây trầu
mùa tốt lá xanh
hồn tôi mới ghé
buổi mới đến cau
cao vừa nhú bẹ
em thẹn thùa tôi
tưởng thuở bình yên
tôi đâu hay em có
nỗi hờn riêng
trông chinh chiến
gọi hồn chồng theo gió
một tháng tròn ngỡ
như ngày thuở nhỏ
em là em mẹ là mẹ
xưa
tôi lêu nghêu lúc
đi sớm về trưa
cơm nửa buổi giữa
khuya kêu bụng đói
nhà thưa quạnh tôi
gượng vui chẳng nổi
mẹ thẫn thờ em heo
bóng trong sân
tôi trận mạc nhầu
không kể đến thân
sương nhiều lắm
trời không che nằm đất
em vẫn bảo tôi mái
tranh không chật
tôi cười xòa xó
xỉnh mãi đâm quen
tròn tháng rồi đây
nhớ không em
hôm từ biệt quanh
thôn nhà cửa khép
lúc quân đi chắc
em không hề biết
đội tôi ngùi ngùi
ngậm thẻ qua sông
còn tôi co ro lạnh
mãi gió đông
một lần cuối nhìn
nhà em đóng kín
tin chồng em chắc
chưa về đến bến
như tin tôi mấy
thuở gởi thăm nhà
cũng mấy năm rồi
biền biệt phương xa
em còn nhớ một lần
tôi ghé ở
thơm lửa hương
khoai vùi bếp cũ
hồn em xa lắm cũng
quanh đây.
1972
|
Thứ Bảy, 6 tháng 4, 2013
ĐỌC " NGẬM THẺ QUA SÔNG " CỦA PHÙ HƯ - NGUYỄN ƯỚC
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Đọc xong thấy buồn buồn, bài thơ hay lắm.Tư nhiên liên tưởng đến bài "Bên kia sông Đuống "của Hòang Cầm khi đang dạy cho hs.Rồi lại nhớ "Đôi mắt người sơn Tây"Cám ơn nhà thơ Phù Hư và nhà thơ MT đã cho đọc.Biết bài thơ ra đời năm 1972,nhưng còn thắc mắc về quan điểm sáng tác , để phân tích sâu hơn....
Trả lờiXóa