Kỳ IX :
CÁNH ĐỒNG BỎ HÓA
Làng
Tân Thanh quê tôi tựa vào vách núi trông ra biển. Ngày nhỏ tôi vẫn theo các cậu
lên lưng núi dọn rẫy, được ăn tại chỗ những củ khoai lùi thơm lừng. Cứ sau vài
ba năm, rẫy trồng lại được bỏ hóa để cây rừng, cỏ dại lên ngút ngàn, đàn trâu
thả đi lung…Mấy năm sau độ màu mỡ của đất tự nhiên được phục hồi.
Lối
canh tác cổ truyền ấy về sau bị cho là lạc hậu. Người sinh ngày một đông nhưng
đất không nở thêm được. Trên thế giới, hàng loạt thứ phân bón hóa học, thuốc
kích thích được phát minh; các cuộc “cách mạng xanh” lan truyền, đưa năng suất
cây trồng tăng vọt, đối phó với nạn thiếu đói. Nhưng đến một ngày kia, như trên
vùng cao nguyên bazan màu mỡ mà tôi đang sống, cây trái bỗng nhiễm bệnh, biến
hình. Cây cải bắp thảo bỗng mọc rễ lên đầu; Chuỗi cà phê nẩy quả to đùng nhưng
xát ra, hạt nhân lại rất nhỏ…
Võ
Chân Cửu
Nhớ núi Tượng
` Thuở nhỏ thèm trèo lên tới ngọn
Bắt bóng trăng xanh ngủ trốn
ngày
Bây giờ đủ sức thì thôi đã
Bên trời xa cách mấy vùng
mây.
(Thi tập Đại Mộng 1973)
Tứ
thơ qua cách diễn tả rất thật thà, bình dị tôi làm cách 40 năm xa, hôm nay chẳng
hiểu vì sao lại được một số tuyển tập và các trang mạng chọn đăng lại. Chợt
nghĩ ra là hồn thơ trang viết của mỗi người có khi cũng cần được bỏ hóa. Trở về
theo cung cách của thiên nhiên phải chăng là xu thế của con người khi trải qua
nhiều đỉnh văn minh. Trong dòng chảy cuộc sống, cánh đồng thơ của mỗi người có
khi được (hoặc “bị”) bỏ hóa theo nhiều kiểu.
‘Nhát
búa cuộc đời…
Lần
nào về miền Tây, tôi cũng kiếm cách về Cao Lãnh để thăm và ở lại chơi với Hạc
Thành Hoa, bạn thơ vong niên ở thành phố Cao Lãnh. Anh sinh năm 1938, trước sau
vẫn sống cuộc đời bình dị với nghề dạy học. Ngày xưa ở thị xã Sa Đéc, sau ’75 về
tỉnh lỵ mới Cao Lãnh, anh vẫn chưa biết đi xe gắn máy. Tập thơ “Trong Nỗi Buồn
Vàng” do Nhà xuất bản Nguyễn Đình Vượng in năm 1971, tiếp đến là “Một Mình Như
Cánh Lá” được Nhà xuất bản Giao Điểm in năm 1973 đều cho thấy tác giả có một nội
lực thơ thâm hậu.
·
Hạc Thành Hoa
Trong
nỗi buồn vàng:
Mây
về sau những cơn mưa
Nắng
soi đỉnh ngọn cây thưa gần tàn
Nghe
trời nhớ gió mênh mang
Buồn
ôm kín cả không gian vào lòng
Nay
còn ntrên nẻo đường không
Gót
nai rụng tiếng nchiều trong sương mù
Mai
về từ bãi dâu vàng
Dấu
chân biển động mưa tràn bến sông
Gió
tha hương cánh phiêu bồng
Bóng
trăng suông lại theo dòng nước xuôi
Đành
như sương khói bên người
Nắng
vàng hoa cúc một thời yêu em.
(1964)
Như nhiều cây bút khác ở
miền Nam, sau ’75 anh đã tự “bỏ hóa” tâm hồn thơ mình. Từng đào tạo nhiều lứa học
sinh thành tài, về mặt xã hội, thầy giáo Nguyễn Đường Thai trở thành “Nhà giáo
ưu tú”, nhưng về đường văn chương thì “nhà thơ” Hạc Thành Hoa thì gần như bị cố
tình quên. Gần 10 năm sau ngày “mở cửa”, vào 1995, Hạc Thành Hoa cho in tập thơ
thứ 3: Phía Sau Một Vầng Trăng. Đa phần trong tập là những bài thơ làm trước
1975 như một “hoài niệm”. Đôi bài ghi thời gian mới, thì Hạc Thành Hoa như gửi
nỗi ngậm ngùi:
Chiếc thuyền
Có chiếc thuyền nằm im trong tủ kiếng
Buồm giương cao chờ đợi buổi
ra khơi
Giấc mơ đó xa vời như cổ tích
Nửa đêm ngày thương nhớ biển
không nguôi
(1993)
Tập
thơ in ra, gần như chỉ để chuyền tay gửi tặng người thân và bằng hữu. Không một
tạp chí văn chương chính thức nào nhắc đến. Hình như đó là số phận dành cho những
cây bút sang tác trước 1975 còn ở lại trong nước. Hôm nay, Hạc Thành Hoa tiếp tục
trải long mình. Ngôn ngữ anh vẫn hiền lành nhưng tâm hồn đầy ngịch cảnh:
Giấc Mơ Của Đá
Không
còn tảng đá nào được yên thân
Bởi tiếng búa và tiếng đục vang lên vang lên
Ngay dưới chân nàng
Đang nuôi một giấc mơ
Đến thành đá
Từ khi có đá
Dù trơ trọi một mình
Vẫn đứng cho bầu trời bớt trống
Nàng tối sầm những khi trời chuyển mưa
Lại xanh ngay khi trời vừa tạnh
Nếu một ngày nàng âm thầm bước xuống
Thì cả bầu trời trống trải vô cùng
Giấc mơ cũng không còn nữa
Nàng đã thật sự chết ngay khi vừa sống…
Khi tôi rời thị xã ra đi
Thì nàng đã hóa đá
Hôm nay
Dưới mầu trời xanh ngày đó
Không biết nàng có còn là đá
Những nhát búa cuộc đời và chiếc đục thời gian
Có để cho nàng được yên
Với giấc mơ của đá.
Bởi tiếng búa và tiếng đục vang lên vang lên
Ngay dưới chân nàng
Đang nuôi một giấc mơ
Đến thành đá
Từ khi có đá
Dù trơ trọi một mình
Vẫn đứng cho bầu trời bớt trống
Nàng tối sầm những khi trời chuyển mưa
Lại xanh ngay khi trời vừa tạnh
Nếu một ngày nàng âm thầm bước xuống
Thì cả bầu trời trống trải vô cùng
Giấc mơ cũng không còn nữa
Nàng đã thật sự chết ngay khi vừa sống…
Khi tôi rời thị xã ra đi
Thì nàng đã hóa đá
Hôm nay
Dưới mầu trời xanh ngày đó
Không biết nàng có còn là đá
Những nhát búa cuộc đời và chiếc đục thời gian
Có để cho nàng được yên
Với giấc mơ của đá.
...Chiếc đục thời gian”
Phải
chăng thơ ca bị phủ nhận bằng nhiều cách. Phổ biến nhất với các nhà nắm giữ
phương tiện truyền thông là không đả động đến nó nữa. Hay là bởi ngôn ngữ, nhịp
điệu thơ bất lực trong thể hiện nhịp điệu cuộc sinh tồn ? Người ta mong đợi những
luồng khí mới. Những âm thanh náo loạn đã cất lên để tạo sự chú ý. Tiêu biểu
cho xu hướng này, các nhà thơ từng chủ trương “tân hình thức” ở nước ngoài đã
giới thiệu tập của “Các Nhà Thơ Đương Đại”. Còn ở trong nước, tiêu biểu nhất là
Tuyển tập “Bông & Giấy” của “30 tác giả hôm nay” xuất bản giữa năm 2010.
Các nhà thơ mới cố tình khẳng định cái tôi “đương đại” hoặc “hôm nay” như một nổ
lực phủ nhận giá trị các dòng thơ cũ và những người đi trước. Nhưng điều đáng
lưu tâm là trong số những tác giả, tác phẩm được công kênh là “hôm nay” lại có
khá nhiều những nhà thơ và các bài thơ của trước 1975, như Lê Văn Ngăn, Từ Hoài
Tấn,Nguyễn Đạt..; đáng tiếc là những người làm sách đã không ghi năm tháng sang
tác dưới những bài thơ cũ in lại. Cũ và mới, hóa ra chỉ là một cách nói khi
xưng tụng. Vẻ đẹp của nghệ thuật thường không có biên giới, vậy sao lại tự hạn
hẹp nó, hỡi các nhà thơ ?
Nên
để cho cánh đồng thơ tự bỏ hóa !
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét