Thứ Ba, 30 tháng 4, 2013

MẶT TIỀN NGHỆ THUẬT - VÕ CHÂN CỮU


                                                         Kỳ X
                                      Tượng Hình Mưa Nắng
Giải đất phương Nam chỉ hai mùa mưa nắng, nhưng tháng Tư vẫn gợi nhiều âm hưởng. Với những cơn mưa đầu mùa, trái bắt đầu chín, đám cưới rộn ràng. Mưa nắng tượng hình trên đôi môi thiếu nữ…
Sự bùng phát các nhà thơ nữ hôm nay khiến nhiều nhà lý luận văn học trong nước xem đó là hệ quả tất yếu của cuộc vận động nữ quyền, một “thành tựu” của xã hội. Nhưng nếu chịu khó nhìn lại lịch sử văn học Miền Nam, cách nay khoảng 50 năm, đã xuất những vần thơ khẳng định chất nữ làchương sự cần thiết và không thể thiếu của thời đại mới, tất nhiên cả trong văn . Đó là nữ thi sĩ Nhã Ca với tập thơ đầu tay “Nhã Ca mới”:
                  *   Vết thẹo
                   Đứa trẻ gái ra đời mang vết thẹo cô đơn
                   Giữa thời không không đói no không mùi vị
                   Tôi sống tự do trong thân thể mình
                   Nghe vết thẹo lớn dần và mọc rễ

                   Tuổi ấu thơ rồi thoắt tuổi thành niên
                   Ôi đầu mình tay chân thời trẻ dại
                   Tôi lớn lên quen mùi vị ái tình
                   Bước một bước qua hết thời con gái

                   Đứa trẻ gái ra đời không ai tưởng
                   Tôi một mình trong vết thẹo thâm sâu
                   Thân thể rỗng lưu thông từng mảnh vụn
                   Vết thẹo đau thương lau sậy lút đầu
                            
                   Không nói không nhìn không tất cả
                   Tôi mang tính tình mình trong suốt từng ấy năm
                   Từng ấy năm ngó đời như kẻ lạ
                   Cuộc chiến trong tôi tiếp diễn lạnh lùng
Vinh danh nữ tính
Nhã Ca quê ở Huế, vào Sài gòn làm văn chương từ năm 1960 khi đang vào tuổi thanh xuân. Lần đầu tiên người ta nghe một nhà thơ nữ là Nhã Ca bày tỏ trong thơ sự khao khát “Tôi sống tự do trong thân thể mình”. Suy nghĩ ấy đầy tính hiện sinh. Người nữ thường phải thuộc về đàn ông (ít ra là một người), vì người ấy nhận biết và tôn vinh cái đẹp của nàng. Nhưng khi đó, Nhã Ca đã nói lên những điều ngược lại, tự khẳng định cái đẹp hiển hiên của chất nữ, như trong bài thơ khá dài: “Đàn bà là mặt trời”.
                …Chúng ta, mỗi người phải là một công chúa

                   Người đàn bà nào cũng đẹp
                   Mùa xuân và hoa hồng đều nở vì chúng ta
                   Chúng ta ban phát ái tình
                   Cho thiên đàng của chúng ta tươi tốt mãi
                   …..
                  
“Ưu thế” ấy có được, bởi vì:
                   Cảm ơn Thượng đế đã cho tôi đôi vú
                   cho tôi da mịn và tóc dài
                   cho tôi rực rỡ như mặt trời
                   Để tôi làm ra ái tình và rượu ngọt
                   tràn trên trái đất
                   …..
Trong tập “Nhã Ca Mới” (bản 1963) cũng có những bài tình ca, nhiều câu thơ rất êm đềm, và đẹp như trong bài Thanh Xuân : Đời sống ôi buồn như cỏ khô / Này anh, em cũng tợ sương mù / Khi về tay nhỏ che trời rét / Nghe giá băng mòn hết tuổi thơ. Với tập thơ này, năm 1965 Nhã Ca đoạt giải VHNT toàn quốc. Nhưng có lẽ vì bản tính của một con người có xu hướng hoạt động xã hội, thích tự do nên sau tập thơ đầu tay rất nổi tiếng, Nhã Ca từng bước nghiêng hẳn về sáng tác văn xuôi, với nhiều truyện, tiểu thuyết. Bà nhảy cả sang lĩnh vc tổ chức làm báo. Sau 1990, khi bà cùng chồng là thi sĩ Trần Dạ Từ sang Mỹ định cư, sự nghiệp lại vẫn tiếp tục theo hướng đó.
Bài viết này nhắc đến “Nhã Ca Mới” là nhằm cho rằng, dòng chảy văn học luôn có những thời điểm “Tháng Tư”. Có những ngòi bút báo hiệu những mùa gặt hái nở rộ trên văn đàn tương lai.
Được mùa quá ngắn
Có người vẫn thường hỏi rằng các nhà thơ, những người vẫn vẫn thường được cho là có “giác quan thứ 6”, thường được gán hay tự nhận là chuyển tải phần sâu kín của tâm hồn con người; vậy họ đã làm được những gì để cuộc đời tốt đẹp hơn, hay chỉ là để thỏa mãn bản năng của chính mình ?
Câu hỏi không thể được giải đáp thỏa đáng. Nếu có, cũng chỉ là sự ngụy biện. Điều rõ ràng là qua sự biểu hiện của khí hậu thơ ca, người ta có thể nhìn thấy được sự tồn tại đáng mừng hay đáng lo của một xã hội. Sau những thành tựu của của trường thơ “tự do”, rồi xuất hiện những nhà thơ mang màu sắc “hiện sinh”, không khí tinh thần ở miền Nam sau 1965 ngày càng đi vào bế tắc. Về mặt chính trường, các phe nhóm núp sau các công cụ tôn giáo ngày càng xung đột rõ nét. Con người ngày càng ý thức rõ hơn cái thân phận nhỏ nhoi của mình trong thế trận chiến tranh. Thanh niên lớn lên bị bắt phải đi lính, nhiều người có học chút ít hoặc trí thức thì biểu lộ sự chán ghét chiến tranh bằng sự trốn chạy khỏi thực tế. Một bộ phận thanh niên lỡ phải cầm súng thì an ủi là “chiến tranh này như một trò chơi”.
Khoảng từ năm 1972, nhạc sĩ tài danh Phạm Duy bắt đầu phổ  nhạc các bài thơ ông cho là hay của các nhà thơ đang mặc áo lính viết về thân phận mình. Tiêu biểu và trở thành nổi tiếng, có thể kể như: “Kỷ vật cho em” từ thơ Linh Phương, “Còn chút gì để nhớ” của Vũ Hữu Định. Đáng nói là những bài thơ này được viết bằng một tình cảm rất chân thật; cảm xúc của thi sĩ mang “tính người” chứ không phải “lên gân” vì được nhồi sọ như ở phía bên kia. Có những bài thơ khá hay của các nhà thơ trẻ được Phạm Duy phổ nhạc nhưng lại không nổi tiếng lắm, hoặc chỉ được người nghe biết đến có chừng mực. Có thể kể đó là “Rừng U Minh ta không thấy em” của Nguyễn Tiến Cung, hoặc “Chiều nằm trên lô cốt” của Hồ Chí Bửu.
* Nguyễn Tiến Cung
Rừng U Minh ta không thấy em
Ta không thấy em từ lâu nay
Mùa mưa làm rừng đước dâng đầy
Trên cao gió hát mây như tóc
Tràm đứng như em một dáng gầy

Ta không thấy em một lần đi
Nước phèn váng nhuộm quần trây-di
Đạn nổ lùng bùng trong nòng ướt
Tình đã xa rồi thôi nhớ chi

Mỗi con lạch là mỗi xót xa
Mỗi dòng sông là mỗi tuổi già
Thành phố đâu đây hình mất dạng
Cuộc chiến già nua theo tiếng ca…
Nhà thơ Hồ Chí Bửu thì ngoài bài “Chiều nằm trên lô cốt” còn có hàng loạt bài thơ khác về đời lính khá chân thật. Hình như anh muốn coi đó là sự an bài, nên cố tìm niềm vui trong nổi khổ khi đóng quân, sinh hoạt ở rừng núi. Ngay cả khi được về phép, nằm bên cạnh người yêu, anh cũng không cảm thấy đó là niềm hạnh phúc lớn lao. Vì sao ?
             *     Hồ Chí Bửu
Về phép
Ngủ ở đây - đêm nay ta yêu em bằng kỷ niệm
Ngủ ở đây không có tiếng súng giật mình
Không có hầm cá nhân từng đêm ngồi kích
Không có bastos để lén hút vội vàng

Ta ngang nhiên ngủ giữa lòng phố chợ
Giữa cuộc vui vụn vỡ của san hô
Đã đánh đổi bằng nghìn đêm lo sợ
Đêm nay rồi cũng trả lại kinh đô

Bạn bè ta hằng trăm thằng ngoài đó
Mắt trong đêm vẫn mở lớn trợn trừng
Sương đỉnh núi còn giăng mù đầu gió
Ta nằm đây thoáng nhớ cũng ngượng ngùng

Ngủ đi em - chắc đêm nay không nghe pháo kích
Thiên đường xa nên súng đạn cũng buồn
Tay ta đây vùng thịt da thương tích
Gối đầu lên rồi kể chuyện yêu đương

Ngủ đi em mùa thu cũng còn buồn lắm
Thôi ngủ đi - ta đi hái trái sầu
Trên non cao hay tận cùng hố thẳm
Đem về trần chằm gắn vết thương đau

Ngủ đi em- ta về vùng lâm chiến
Cũng mơ hồ như một nửa cơn điên
Nghêu ngao hát như một lần xuống núi
Rồi về rừng nghe thương nhớ từng đêm.

Các bài thơ này từng được anh gom lại, năm 1972 cho in thành thi tập “Nếu Ngày Mai Giải Ngũ” mang nhãn Nhà xuất bản Động Đất mà anh cùng bằng hữu chủ trương ở thị xã Tây Ninh. Các tập thơ và bài hát phổ nhạc khi in ra, được hát lan truyền cũng không đem vinh quang hay lợi lộc gì nhiều lắm cho tác giả. Có chăng, chỉ là sự ghi nhận về một lớp người cầm bút trong những năm tháng chiến tranh sắp đến hồi kết cuộc (có khi còn bị mang họa vì tinh thần phản chiến). Nhiều độc giả cho rằng các bài thơ về lính của Hồ Chí Bửu trong giai đoạn này, nếu nằm liên hoàn với nhau, nếu được tác giả tu chỉnh, thì có thể mang dáng dấp như một “trường ca”.  Đáng tiếc là thời kỳ của tự do sáng tác lại không còn nhiều nữa.
Nhưng “trường ca” là thể loại ra sao ? Trong thơ Việt Nam đã có  những “trường ca” hay chưa ? Câu hỏi này có lẽ nên được luận bàn trong một kỳ tới.
                                                                                           “Còn nữa”

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét