Thứ Ba, 14 tháng 5, 2013

MẶT TIỀN NGHỆ THUẬT - VÕ CHÂN CỮU



                                                      Kỳ XII

                                    Uống  Rượu  Một  Mình

Lịch sử vẫn thường bị bóp méo bởi chính những người tham dự. Liệu có sự phản ánh nào là trung thực ? – Phải có chứ, trong các tác phẩm nghệ thuật, đáng tin nhất là ở loại hình thơ ca. Nhưng tùy theo căn cơ mỗi người, việc khám phá, nhận biết lắm khi phải tốn khá nhiều thời gian.
Ngày 30-4 năm ấy (1975) bạn đang ở đâu, làm gì ? tâm trạng thực mỗi người lúc đó ra sao ? Có thể rất nhiều người Sài Gòn, dù đang ở trong nước hay đã ra hải ngoại, đến nay vẫn khó trả lời câu ấy thật lòng. Tôi và nhiều bạn bè thân vẫn hiểu ra rằng, có người do bị “tiêm nhiễm”, chưa biết rõ sự thật của cuộc chiến tranh nên đã lỡ vội vã trở thành “ông cách mạng 30”. Có nhiều anh vội đi lùng mua, mặc ngay lên người bộ bà ba đen, đeo thêm vòng “băng đỏ” nới cánh tay; thậm chí còn ra đường lượm cây súng vứt vung vải, đeo vào vai rồi leo lên xe Jeep tự lái chạy vòng vòng khắp phố để chứng minh là “có tôi đây”…
Những chuyện vặt vãnh ấy có lẽ không cần thiết phải ghi lại làm gì. Người sáng tác ở đất Sài Gòn cũ, trước cơn biến động của lịch sử đã thể hiện tư cách của anh ra sao? Có lẽ tất cả vẫn còn được lưu dấu qua các tờ báo mới trong những năm đầu tiên từ thời điểm này.  Những người có máu thích “lập công” vẫn thường tìm cách khoe mẽ qua “sáng tác mới” ! Tôi và Nguyễn Tôn Nhan (được liệt vào nhóm các nhà thơ “Thiền”- tức coi đời là cõi không), khi được huy động vào đội ngũ văn nghệ sĩ tham gia diễu hành trong buổi mừng ngày chiến thắng được tổ chức tại quảng trường trước Dinh Độc Lập vào giữa tháng 5-75, đã không thể không lấy tạy bụm miệng cười trước cảnh tượng vui. Đó là việc một số cây bút “30” được “vinh dự” cử đi bên luồng để làm “cai”, xem người trong hàng bước đi có đúng nhịp hay không !
Trường đại học không còn giảng dạy, các báo, tạp chí , nhà in cũ đều phải đóng cửa. Họa sĩ Hồ Thành Đức vốn là người linh hoạt đã vẽ cho chúng tôi những cách mưu sinh mới, như sắm một chiếc xe đẩy trái cây đi bán dạo trên đường…; thành người lao động “vô sản” sẽ ít bị để ý hơn ! Nhà văn Cung Tích Biền sắm ngay một chiếc ba-gát máy. Anh mở hàng bằng chuyến chở sách vở, nồi niêu soong chảo giúp vợ chồng tôi chuyển từ nhà trọ ở Phú Nhuận lên chỗ mới được người thân cho ở tại xóm ga xe lửa Gò Vấp. Tôi ngồi sau yên xe chỉ đường. Tới đoạn ngang qua đường rầy, chiếc xe bỗng khựng hơi, rồi chết máy giữa. Anh Biền hối hả ra đầu xe, còn tôi ở bánh sau, ra sức đẩy nó vượt lên, kịp trước khi đầu xe lửa rít thắng lướt qua. Thật hú hồn, hú vía…
Ngày 2 tháng 5, dù tin là nhà văn Võ Phiến đã “kịp thời” di tản, nhưng anh Nguyễn Mộng Giác và tôi vẫn rủ nhau đến “thăm” nơi cư ngụ của gia đình ông ở đường Trần Quang Diệu nối dài. Cảnh nhà tan hoang, tài liệu sách vở vung vãi. Nhưng chưa bị ai vào tiếp quản. Tôi lượm và cất được một cuốn “note book” của ông để giữ làm kỷ niệm. Qua đó, tôi cũng hiểu hơn về cách làm việc (khá chi ly) của nhà văn. Sổ tay có ghi lại một số bài dân ca của người dân tộc thiểu số, làm theo thể thơ lục bát. Ngôn ngữ dân gian rất hiện thực, mà đầy âm điệu trữ tình. Những gì đã thành thơ, được muôn đời lưu lại, vẫn dùng những từ ngữ rất dung dị, gần gũi với sinh hoạt của con người, chứ không lên giọng cao đạo triết lý như các “trào lưu” thơ phương Tây hay “lên gân” như trong các tác phẩm tự nhận là hiện thực cách mạng.

Ló thụt

Bẵng đi bao nhiêu năm, gần như nhiều nhà văn, nhà thơ Sài Gòn cũ đều không công bố, hay được công nhận là có thêm tác phẩm nào “nặng ký”. Gánh nặng áo cơm gần như luôn nhắc nhớ: lúc này không phải là thời kỳ dành sáng tác. Có người nói rằng điều ấy đã cho thấy bản lĩnh và nội lực của mỗi người cầm bút. Cọng với sự vô vị trong các tác phẩm thuộc dòng văn nghệ chính danh, nhiều nhà phê bình và cả một số đông độc giả đâm ra mặc cảm, rằng người Việt khó có thể làm ra được tác phẩm lớn ! Có nhiều nhà thơ vẫn tự hào là người “có học thức” , nhưng vẫn lo ngại không biết ít bữa vào thời hội nhập, làm thơ bằng ngôn ngữ Việt thì khó tạo được sự cảm thụ trong toàn cầu !
Những vần thơ đã loan truyền, dù tả tình cảnh, tâm trạng thực của người sống sau thời điểm ’75 cũng ít làm cho người đọc rung động.

                   *Nguyễn Dương Quang
                    Ngày về
                  
Cải tạo về, lên non phát rẫy
vợ lo “phe phẩy”, ta tiều phu
độc lập tự do hạnh phúc nhất
vừa làm chủ vừa làm bí thư

                  
                        Tả xung hữu đột tan cây cỏ
                   thoáng chốc  một vạt Đông Trường Sơn
                   úng đạn thua rồi, nay trận rựa
                   chiến chinh, chinh chiến ta coi thường

                   Lều cỏ dưới chân con thác nhỏ
                   trôi trôi bèo bọt chuyện ngày xưa
                   dòng suối tí teo làn cá trắng
                   sáng trưa chiều độc món cá tươi

                   Lâu lâu về xóm vợ mừng rơn
                   đáp đền sông núi như tân hôn
                   bốn thế hệ nồi bo bo nóng
                   má em hồng hơn bà Tú Xương

                   Trăm thước lên cao, trăm thước xuống
                   hoa nào đẹp bằng hoa khoai lang
                   trận “Đào Khoai”,  vợ cười yểm trợ
                   khoai sùng, khoai mụn gánh tung tăng

                   Đời lẩn quẩn lưỡi câu, cuốc rựa
                   tương lai, dĩ vãng, đám sương mù
                   gió động vách lều đêm chợt nhớ
                   bạn tù xa lán trại âm u
                                                              (1977)

Mãi tới gần 38 năm của ngày 30/4 tôi mới được đọc một bài thơ thú vị về cảnh sống của một người đi học tập trở về như của Nguyễn Dương Quang. Bài thơ  này trong tập “Đêm Ôm Đàn Uống Rượu Một Mình”. Sách in xong hồi cuối năm 2012, là bản thảo “Để kỷ niệm và dành tặng bạn bè”. Đây là tập thơ đầu tiên, khi tác giả đã tròn 70 tuổi. Cần nói thêm rằng Nguyễn Dương Quang hiện tham gia Hội văn nghệ tỉnh Lâm Đồng. Làm thơ và sáng tác nhạc, nhưng từ trước đến nay, chưa bao giờ ông tự  nhận mình là một nhà thơ !
“Đêm Ôm Đàn Uống Rượu Một Mình” có 57 bài thơ, 2 phụ bản nhạc được tác giả sáng tác từ 1962 đến nay. Bài thơ “Đêm cuối năm viết cho má” có những câu “Hình như cây súng con lạ lắm/ sao nó run lên khi đạn lên nòng” đã được nhà phê bình Đặng Tiến trích dẫn khi viết lời tựa cho bộ “Thơ Miền Nam trong thời chiến” (Thư Ấn quán xuất bản năm 2005). Đi học tập về, Nguyễn Dương Quang đi làm rẫy, rồi anh vào kinh doanh và tiếp tục làm thơ, như một cách “chơi”. Vẫn giọng thơ hiền lành, không hận thù dù đã trải qua những ngày đau khổ. Vì từ xưa, khi còn mang áo lính, ông đã nhận ra rằng :
                   ….
                   Có kẻ dạy ta về chủ nghĩa
                   Ta nghe mà có hiểu gì đâu
                   Chỉ biết xót xa rừng tít biển
                   Lòng đau như mìn chặt chân cầu…
                                                      (Trong đêm mưa tiền đồn-1969)

Joseph Brodsky (1940-1996) là nhà thơ Nga, đã bị Liên Xô trục xuất năm 1972. Ông trở thành công dân Mỹ từ  năm 1977. Tại diễn văn nhận giải Nobel văn học năm 1987, Brodsky đã cực lực cảnh báo về tình trạng nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng “đang là tài sản đặc quyền của thiểu số trong xã hội. Nó không lành mạnh và đầy nguy cơ”!
Ở đâu có sự độc quyền trong định hướng sáng tác và thưởng ngoạn thẩm mỹ đối với văn học, rõ ràng sẽ không giúp sản sinh ra các tác phẩm hay. Nên những bài thơ như của Nguyễn Dương Quang chỉ có thể “ló thụt” trình làng. Đây cũng là điều dễ hiểu.

Số phận

“Điều khiến thơ ca khác biệt với các loại hình văn học khác là ở chỗ nó ngay lập tức sử dụng cả ba phương thức nhận thức (phân tích, trực cảm và phương thức mà các nhà tiên tri trong Kinh Thánh sử dụng: mặc khải), bởi vì cả 3 đều có trong ngôn ngữ; và không hiếm khi chỉ bằng một từ, một vần, người viết bài thơ có thể đến nơi mà trước đó chưa ai từng đến, -và có thể còn xa hơn cả nơi chính anh ta mong ước.” (Lời dịch từ tiếng Nga của Đoàn Tử Huyến, sách Các nhà thơ Giải Nobel- NXB Lao Động 1/2007)

Đến Mỹ rồi trở về, gặp gỡ nhiều người vẫn một lòng nặng nợ với câu chữ và âm điệu làm ra những bài thơ, tôi càng hiểu hơn điều mà Brodky đã đúc kết như trên. Câu dẫn đã nêu trên khá nghiêng về nghệ thuật thể hiện một bài thơ. Nhưng có khi, sự phân tích từ trí tuệ lại mở nguồn cho một cảm xúc dài hơi để qua ngôn ngữ, nhà thơ ra sức thể hiện thành tác phẩm. Đó là sự hình thành nên những bản trường ca. Thể loại này trong bộ môn thơ, hiện chưa được các nhà thơ và nhà phê bình định dạng rõ nét. Trường ca trước tiên phải là “thơ dài”, còn nó có cốt truyện, có nhân vật chính như các trường ca cổ; cảm xúc của người viết dẫn dắt người đọc đến đâu…? Tất cả còn đang được tranh luận. Năm nay, tổ chức Liên hiệp các hội nghệ thuật VN ở thông báo mới nhất của về cuộc thi sáng tác về đề tài văn học cách mạng, trong phần thể loại đã ghi thêm loại hình “trường ca”. Sự minh định chưa rõ ràng về thể loại này, theo nhiều người, sẽ là một kẻ hở cho những nhà dùng văn kiếm cơ hội chia chác tiền thưởng. Và giải thưởng khi công bố, chắc cũng khó đến tay các ngòi bút không ở trong nhóm đặc quyền, dù anh có tên hội viên trong Hội văn nghệ Bình Định. Tôi đã nói điều này với nhà thơ Khổng Vĩnh Nguyên khi anh ôm tác phẩm mới nhất đi bán dạo. Đêm Phượng Hoàng Trở Dạ & Lửa Gầm Nhật Tảo là hai trường ca đứng chung thành một tựa sách, mang nhãn nhà xuất bản Hội Nhà Văn in ra từ tháng 12 - 2011. 
Khổng Vĩnh Nguyên quê ở Bình Định. “Đêm Phượng Hoàng Trở Dạ” được cảm hứng từ sự kiện người anh hùng áo vải Tây Sơn Nguyễn Huệ trên đường dẫn quân chống giặc ngoại xâm có ý định xây dựng “Phượng Hoàng Trung đô” tại Nghệ An. Còn “Lửa Gầm Nhật Tảo” viết về cuộc đời lãnh tụ nghĩa quân Nguyễn Trung Trực (1838-1868) trên đường chống Pháp. Cảm xúc nẩy sinh khi nhà thơ phát hiện người anh hùng này có gốc gác cùng miền quê nghèo, thôn Vĩnh Hội, xã Cát Hải, huyện Phù Cát.

                    * Khổng Vĩnh Nguyên
                   Tuổi thơ đi biển

                   Ngày mới bắt đầu bay cánh chim bói cá
                   Gà gáy vang tan sương ma Hời xóm Lưới
                   Ta theo cha đi chài
                   Sau cơn bão, lập đông trời biển lặng
                   Sóng bạc đầu tan vào hư không
                   Tan vào lòng mẹ quê lành lạnh
                   Đứng bên cồn cát trắng trông cha

                   Mẹ ta như tượng đá sườn non
                   Như hòn vọng phu xõa tóc
                   Dáng hao gầy phơ phất cỏ lau
                   Ta hồn nhiên như bình minh hực hỡ
Tương lai thẳng hướng mặt trời
Mái chèo phăng phăng hăng mùi khoai nướng
Lướt qua liềm trăng hạ huyền
Cha ta ngửa nón chai uống vị quê nhà nước mắt
Nước mắt mồ hôi thấm vào xương tủy
Như giọt sương rơi trên cồn cát chiều chiều:

-         “Chiều chiều quạ nói với diều
Ở trong xóm núi thật  hiều gà con
Gà con bươi rác bươi rơm
Em ta chèo chẹo đòi cơm tối ngày !”

Mái chèo ta phang vào giông bão
Phang vào chân trời
Ôi mái chèo tuổi thơ đi biển
Đi vào sống chết mênh mông !...
Bình minh tuôn đổ nước hồng
Gió tràn lồng ngực trai tơ
Nhọn sắt tiếng bầy nhạn biển
Vụt ngang bầu trời
Đọng bóng trùng khơi
Gọi mời…những người con của biển !…

Đoạn mở đầu của bản trường ca là tiếng than về số phận của những người dân nghèo miền Trung. Từ đó, ngày xưa Nguyễn Trumg Trực đã theo tiếng gọi của Nguyễn Tri Phương “Đoàn lưu dân lạy đất trời/ Hào ca nam tiến đáp lời Cửu Long”… Ở đây, các thể thơ truyền thống như ca trù, lục bát, thất ngôn…và lời trích từ ca dao được sử dụng nối tiếp nhau, giúp người đọc hiểu được căn cơ cội nguồn cảm hứng của tác giả. Làm cho người đọc hiểu được tấm lòng người viết, thì hai trường ca này có thể đã thành công. Nhưng để tạo được một hơi thở mới trong làng sáng tác hôm nay, thì có lẽ ấn tượng này chưa đậm đà lắm. Bởi lẽ ngôn ngữ, từ cách diễn thơ trong từng câu, từng khổ thơ còn chìm lẫn trong cách diễn đạt khá cũ. Nhưng đáng ghi nhận là hai bản trường ca được in ra trong thời điểm khá “nhạy cảm”, là khơi dậy tinh thần “chống xâm lược”. Nhưng nhu cầu này đang được nhiều người trong giới cầm quyền  cho là khá “phức tạp” .
Mong muốn của người đọc thơ hôm nay không phải chỉ dừng ở những khái niệm đã có như “ái quốc”, “anh hùng”…, mà là hiểu thấu được căn nguyên tạo ra cái ác của con người. Dù sao, tiếng nói của một “nhà thơ nông dân”-biệt danh của Khổng Vĩnh Nguyên- rất là đáng quý. Có lẽ nhờ vậy nên sau vài chuyến đi vô nam “bán dạo”, dù các báo văn nghệ chính thống không hề điểm qua hay nhắc tới, số lượng 500 bản in cũng đã  được…tiêu thụ hết. Nhờ vậy mà tác giả, nhà thơ nông dân nghèo Khổng Vĩnh Nguyên có tí tiền còm, tiếp tục “đêm về mua rượu uống một mình” !
                                                                                  (Còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét