Kỳ 5:
Những chồi dương xỉ
“Rừng
xưa đã hết”, vùng cao nguyên tôi qua vẫn còn lại những chồi dương xỉ. Mùa khô
kéo dài, nhiều loại cây trồng không bung nổi mầm hoa. Nhưng chỉ qua những ngọn
gió mang hạt sương đêm, loài cây không hạt nhưng nhờ có mạch thông qua các bào
tử, vẫn cho đâm lên chồi xanh từ những gốc bẹ già khô nám…
Các nhà thực vật học nói rằng loài dương xỉ được trời
cho khả năng sinh sản thông qua các bào tử nằm trong lá nên chúng có thể mọc từ
dưới đất hay chùm gửi từ một thân cây khác theo cả 2 dòng hữu tính và vô tính.
Sự sống thật kỳ diệu, loài thực vật này có thể ví như “thơ”, được không ?
Trên đầu giường tôi hiện 3 tập thơ đáng ghi nhớ của
một năm qua. Đó là: “Quá Giang Thuyền Ngược” của Lâm Anh, mang nhãn xuất
bản Văn hóa Thông tin phát hành vào tháng 4-2012, Thơ của Vương Từ, và “Ngậm
Thẻ Qua Sông” của tác giả Phù Hư do NXB Hội Nhà Văn cấp phép, in hồi quý III
- 2012 và quý I - 2013. Cả ba đều là “tác phẩm đầu tay” của các nhà thơ đã khá
tuổi đời. Vương Từ sinh năm 1944 ở Phú Vang - Thừa Thiên, làm thơ từ năm 16
tuổi, hiện đang định cư tại Mỹ. Lâm Anh sinh năm 1942 ở Quảng Ngãi, hiện ở tại
Cát Tiên, Lâm Đồng; còn Phù Hư sinh năm 1951, từ nhỏ sống ở Huế, rồi định
cư ở Sài Gòn từ 1972 đến nay. Tập thơ của Lâm Anh từng được Thư Ấn quán xuất
bản tại Hoa kỳ một năm trước đó. Ngậm
Thẻ Qua Sôngđã được Thư Ấn quán dự trù cho in, nhưng không may là nhà xuất
bản đang gặp khó (Bà Nguyễn Ngọc Yến, vợ nhà văn Trần Hoài Thư bị
“stroke”, nay chưa hồi phục hẳn). Đáng nói là 3 tập thơ trên khi in tại Việt Nam
đều được các bằng hữu tự nguyện lo thủ tục, chi phí in và phát hành.
Hạnh phúc thay các nhà thơ !
Như một
cuộc chơi !
Vô đề
Người
xưa uống rượu cùng cây
Giờ ta
uống rượu với ngày cùng đêm
Khoe
cùng nhật nguyệt hai bên
Rằng ta
cũng một ngọn đèn không tim
Đây là
một bài thơ tiêu biểu của cách làm thơ Vương Từ. Câu thơ dù có nói trời nói
đất, nhưng kết thúc thường mang nỗi ngậm ngùi, như một sự phát hiện khi
“ngộ đạo”. Tính cách ấy đã có khi ông vừa tới tuổi trưởng thành:
Chiến
tranh và tuổi hai mươi
Trang
giấy trắng ngoan hiền chờ ý nghĩ
Có
những khi nắng gắt, những oi nồng
Đời
bệnh hoạn nằm trong chăn ấm nghĩ
Buồn
tiếp buồn và buồn đến mênh mông
Thời
trẻ dại qua rồi không nhớ nữa
Mấy
người thân gục xuống cũng quên rồi
Chỉ nhớ
được tôi còn và tôi sống
Thân
khô gầy héo hắt nhớ ngày mai
Bạn bè
có mấy người theo mấy thuyết
Tính
cuộc đời như tấm lịch hàng năm
Khi tấm
lịch trơ bìa cho năm hết
Thì
cuộc đời rách nát đến buồn tênh
Em bé
nhỏ khóc vô tư đẹp quá
Tôi
tính thầm : hai mươi năm nữa tòng quân
Rồi sẽ
khóc khi đạn xuyên lồng ngực
Như
khóc cho vô nghĩa của đời mình
( Bản thảo tập Hồn Quê-1963)
Hầu hết các bài thơ của Vương Từ được bằng hữu
lưu giữ. Bởi vì ông có tài…uống rượu, và hành trạng lung tung, lúc ẩn lúc hiện.
Thời trẻ, khi thì ông học võ ta, khi thì học đánh bốc, sau lại tập Yoga đến nổi
tiếng. Vương Từ rất thích làm hành giả Thiền, và chuyên cần ăn gạo lứt muối mè,
nhưng có thể nhịn ăn suốt 30, 40 ngày mà vẫn khỏe mạnh. Nhờ vậy, trước 1975 ông
từng được mời đi đăng đàn thuyết trình về gạo lứt và phương pháp dưỡng sinh
Oshawa trước các cử tọa chọn lọc ở một trường đại học nổi tiếng. Ông còn có tài
thuyết trình về triết học, về Phật giáo, về các công án , về cách định tâm
để…làm thơ. Lãnh vực nào ông cũng đưa ra nhiều kiến giải mới lạ. Nên ngồi uống
rượu với ông, ai cũng thích. Và khi tới chỗ ngà ngà, ai nấy bắt đầu say, thì
Vương Từ lại đọc lên mấy câu thơ chí lý. Không ai biết ông “sáng tác” ra lúc
nào mà hợp cảnh hợp tình đến vậy.
Khi tập thơ đầu tay của ông được in từ Việt Nam gửi sang Mỹ. một người bạn là
nhà thơ mang đến khoe với chủ bút tờ tạp chí văn nghệ quen thuộc. Nhà thơ lớn
tuổi này xem qua, liền phán: “Đây không phải là thơ”.
Câu
thẩm định này thật hợp ý Vương Từ, bỡi lẽ chưa bao giờ ông tự nhận mình là nhà
thơ. Chẳng qua đây chỉ là một cách “chơi” giữa cuộc đời phù du..?
Trong phụ lục tập Thơ Vương Từ có bài viết của một
người bạn thân :
“Bỏ lại tất cả đằng sau, qua bờ bên kia Thái Bình
Dương, tưởng tỉnh để củng cố cuộc sống êm đẹp, nhưng Vương Từ lại làm thơ, cùng
lon bia chai rượu ở đất Cờ Hoa. Bạn bè năm châu lại kéo đến, thế là li bì suốt
ngày tháng không thôi. Vợ bỏ đi theo người khác, con trai trước cuộc sống mới
nhìn cha ngao ngán. Cuộc đời cứ trôi, Vương Từ vẫn say, thơ văn cứ tiếp tục,
bạn hữu vây quanh không thể nào cản được – Vương Từ không tiền, không rượu,
không nhà, không xe, đêm nằm lạnh lẽo trên đất Mỹ phồn hoa, lây lất say mèm
theo năm tháng, vẫn cứ vui, cứ chơi như chưa từng hiện hữu, nhìn cuộc đời như
có như không. Từ say lăn ra ngủ, dậy lại say, tưởng chừng đã chết đi, nhưng
không, Từ vẫn sống, vẫn tràn đầy tươi đẹp.
Hồn nhiên – Từ Bi – Bình Đẳng – Hạnh phúc cùng trời
đất, cùng gạo lứt muối mè…
Hữu Bảo
Trong chuyến du lịch sang Mỹ vừa qua, cứ vài ngày tôi
lại tao ngộ nhiều bằng hữu tại căn nhà mà Vương Từ trú ngụ theo kiểu
“housing” sành cho công dân Mỹ. Tôi khẳng định không khí trên là hoàn
toàn có thật.
Thơ
chết từ đâu ?
Sau ’75 nhiều người làm thơ ở Miền Nam đành cự tuyệt, hoặc dần
xa lánh hẳn nàng thơ. Xã hội khuôn định: cấp trên tất nhiên phải giỏi hơn cấp
dưới; năng lực và tính cách mỗi người được hình thành từ ba đời; cái đẹp phải
theo các mẫu mực mà quần chúng chấp nhận. Các sáng tác được khen ngợi thường đi
vào các đề tài “chân lý”, như cô công nhân phải yêu anh bộ đội mới xứng đôi.
“Vì mọi người” nên một nhạc sĩ tài ba như Trịnh Công Sơn, có khi còn phải cảm
hứng“lên nông trường, ra biên giới…”
Về lý
thuyết, văn nghệ sĩ được tự do sáng tác, không bị ai ra lệnh phải cầm bút viết
theo điều này, điều nọ. Nhưng xã hội đã sản sinh thêm cho giới hoạt động trí
não một nghề nghiệp có ngạch bậc : biên tập viên. Người làm nghề này không phải
chỉ sửa lại câu cú, chính tả cho đúng ngữ pháp mà phải luôn “cảnh giác tư
tưởng” về các thế lực thù địch. Một số nhà văn nhà thơ mới nổi tiếng, có nhiều
sáng tác được khen ngợi, trong câu chuyện đã tự hào là nhờ chính mình đã biết
“tự biên tập” trước khi viết ra chữ.
Văn hóa-văn nghệ được xem là một mặt trận, nên những
người từng sáng tác văn-thơ-nhạc-họa luôn được khuyến khích. Ngoài các báo
trung ương, báo tỉnh, thì các ngành từ tỉnh xuống huyện, lắm nơi tận các
xã được khuyến khích xuất bản các tập san có nhiều sáng tác. Trăm hoa đua nở !
Anh Phan Lạc Dân vốn được nhiều bạn học cũ biết là tác
giả nhiều bài thơ thấm đậm tim người. Năm 1984, anh đang là giáo viên trong
biên chế, thì huyện Bảo Lộc phát động người có năng lực thi đua sáng tác để
huyện xuất bản tờ tập san đầu tiên. Một cây bút từng tham gia phong trào đầu
tranh chống chế độ cũ là nhà văn T.D.B.C. Sau thời gian công tác ở Đoàn Thanh
Niên, ông được đề cử lên nhận chức Phó chủ tịch Mặt trận của huyện. Có lẽ gặp
cơ hội nên ông muốn chứng minh với các cấp trên về tài tổ chức, tài huy động
quần chúng của cá nhân mình. Phan Lạc Dân đã “nắn nót” bài thơ viết về quê
hương mới, trong đó có hai câu rất hợp với thực tế, là:
…Cuộc sống vẫn quanh đây
Chiếc cầu tre rung rinh khúc khỉu
Nhiều gian khổ đi qua…
“Nhà văn” Phó chủ tịch Mặt trận là người tổ chức tờ
đặc san và kiêm luôn công tác biên tập. Đọc qua, ông liền lấy bút gạch chéo 3
câu thơ có tính than vãn nói trên, sửa lại thành một câu mang tính “khái quát”,
hợp với cách nhìn của giới lãnh đạo : “Cuộc
sống còn gian khó”.Bài thơ được đăng trong tờ tập san tròn trịa. Năm sau,
nhà văn có đầu óc tổ chức ấy đã được tiến cử về tỉnh để nhậm chức Phó chủ tịch
Hội văn học nghệ thuật, phụ trách làm một tờ tập san văn nghệ có tầm cỡ. Mấy
năm sau đó, theo trào lưu đổi mới, nhà văn quan chức ấy bỗng muốn vươn vai, đưa
tờ tạp chí của tỉnh thành ngọn cờ đầu của phong trào cởi trói văn nghệ. Ông trở
thành một “cây bút đổi mới”, nổi tiếng với nhiều “bút ký chính trị”. Nhưng
không biết ông còn nhớ lại chuyện xưa không. Văn chương bây giờ dành nhiều cửa
cho những người biết lấy nó làm phương tiện trên đường quan chức, hay để tạo
tiếng tăm, lấy nó làm bàn đạp trên đường đời nhiều toan tính. Hiểu ra điều ấy,
nên Phan Lạc Dân sau đó đã tự xin nghỉ dạy học, về nhà làm vườn mà sống. Và
không hề làm thơ đăng báo nữa.
Vào thời điểm năm 1985, ông Nguyễn Lâm Anh vì hoàn
cảnh nghèo nên “xung phong” đưa gia đình đi khai khẩn vùng đất mới mà tỉnh
Nghĩa Bình xây dựng tại vùng phía nam huyện Bảo Lộc. Vùng đất này sau trở thành
3 huyện mới. Huyện Cát Tiên là nơi Lâm Anh lập nghiệp.
Làm thơ đã lâu năm, dù chưa được nhiều người biết đến,
nhưng lên vùng đất mới, Lâm Anh lại vẫn tiếp tục làm thơ về những gì mà ông xúc
động:
Tám năm
đi
Ra
đi…hồn trắng và tay trắng
Trắng
cả trời quê - trắng mái nhà
Mẹ cũng
vì ta mà trắng giọng
Nuốt vô
lòng trắng mắt thay cha
Ra đi
trong túi bài thơ đợi
- Ừ có
chút gì để bọc theo
Đường
xa trùng vạn đường cong quéo
Đời ta
tắp tắp quạnh chân nghèo
……….
Tám năm
tám cuộc đời xiêu vẹo
Tình
như dao rựa chém đầu cây
Sương
gió thay em hằn lên trán
Mừng
xuân trời cho những áng mây…
Nhà văn
Nguyễn Lệ Uyên cảm nhận: Lâm Anh, dòng thơ của kẻ bị lưu đày. Còn Trần Hoài
Thư cho rằng: “Thơ
ông chính là hơi thở. Và hơi thở chính là thơ ông. Ôngthì gánh giùm khổ nạn.
Ông chở giùm hạnh phúc. Ông mang giùm quê hương. Ông tải giùm mồ hôi và nước
mắt. Ông hít thở giùm sương mù, sương muối ở vùng heo hút Cát tiên. Ông hứng
giùm bát trăng trên vùng núi đồi trùng điệp. Ông mặc giùm chiếc áo cũ tang
thương.”
“Chiếc áo cũ” mà ông mua trong một lần từ vùng kinh tế
mới ngược về thăm quê đã thành một bài thơ dài, khá xúc động:
Ta mua
chiếc áo cũ
Với giá
bốn mươi đồng
Quảng
Ngãi chiều gió bấc
Quảng
Ngãi đầy mùa đông
Ta đứng
thay áo mới
Giữa
chợ đời ngược xuôi
Ta ngắm
ta như núi
Giữa
đất trời rộng thênh
Ta đứng
thay áo mới
Như mặc
vào vạn phương
Áo thơm
mùi rạ ẩm
Ồ không
! mùi máu xương….
………
Áo thu
xanh vàng nắng
Đẫm xót
tình quê hương
Ta sờ
tay vô túi
Bỗng
đụng nhầm khói sương !
Ta-sờ -
tay – vô – túi
Mới hay
rằng trong áo
Có bóng
chiều ải quan
Ôm bước
về hoang mang
……..
Nhà thơ
tiếp tục sở tay vô chiếc áo cũ và thấy gặp trong áo có một bầy ngựa hoang…; có một góc
trời đen; có một vầng nguyệt chết - giữa mộ đời giá băng…Và rồi ông đã kêu
lên: Ôi ! Ai về trong áo. Trong túi chiếc áo cũ, ông thấy cả
người Mang thánh giá trên
lưng, Mang mộ sầu trên mặt. Hoặc Mang bóng hình vọng phu…Để bây giờ
trong áo, Có em rã lệ hồng, Trong đường kim mối chỉ, Trong nút mòn khuy long…
Ở tận vùng heo hút, vì cuộc sống giao thiệp, Lâm Anh
cũng gật đầu khi được gọi gia nhập vào Hội văn nghệ địa phương. Nhưng suốt
những dòng thơ viết ra, ông không hề dùng ngôn ngữ khẩu hiệu để tán dương những
gì cấp trên kêu gọi; không ca ngợi “cuộc sống mới ấm no hạnh phúc” một con vẹt.
Mà ông biết khám phá những bí ẩn vi diệu, như trong bài:
Tám Năm
(Tặng Trần Phá Nhạc)
Lột…tiếng
chim
dán…đầu
cây
Tám năm
về gỡ
làm trầy mùi hương
Sớm mai
Nắng lấm đỏ vườn
Mùi-chim-nào-chín
tận phương trời chiều.
Thơ có bị đời sống chính trị chi phối hay không cũng
tùy thuộc vào bản lĩnh và căn cơ của mỗi người.
“Nín
thở” qua sông
Ở một số vùng quê nghèo, cách nay không lâu, người ta
vẫn chứng kiến cảnh những con đò chòng chành chở đầy ắp những trẻ con đi học.
Có nơi, học trò vẫn còn đu dây nín thở lao qua sông đến trường.
Do hoàn cảnh không thể cưỡng được, nhiều người làm thơ
cũng đành nín lặng suốt một thời gian dài. Nên phải tới 62 tuổi như Phù Hư mới
ra mắt được tập thơ đầu tay. Đây không phải là chuyện lạ.
Mùa hè năm 1969, tranh thủ lúc chờ kết quả sau kỳ thi
tú tài, từ Sài Gòn tôi lại xách gói lê gót giang hồ đi các tỉnh, và ra tận đến
Huế. Lớp làm văn nghệ nhỉnh tuổi hơn một chút ở đây đều vướng bận thời thế sau
biến cố Tết Mậu Thân. Tiếp đón tôi tại làng Tây Lộc là 3 người bạn mới quen
biết qua thư từ sách báo: các anh Trần Hữu Nghiễm (đã mất 2006), Ngô Cang, và
Nguyễn Đắc Ngân tức Phù Hư về sau. Lúc bây giờ trên tạp chí văn nghệ Khởi Hành
bộ cũ (nhà thơ Viên Linh chưa về nắm), chúng tôi đã đăng bài ký tên với nhiều
bút hiệu nay không dùng nữa. Khi được giới văn nghệ biết tên, chúng tôi vẫn
thường liên lạc qua lại.
Năm 1972 Phù Hư bị đôn quân, phải vào khóa 8 trường sĩ
quan Thủ Đức. Ngay năm đó, với những bài thơ lấy đề tài chiến tranh đăng trên
Tập san Văn như “Ngậm Thẻ Qua Sông”, “Đồn Sơn Yểm”…Phù Hư bỗng nổi tiếng như
cồn. Nhưng giọng thơ anh thật khác với một Hà Thúc Sinh mang hào khí chỉ huy, hay
một Nguyễn Bắc Sơn ngang tàng coi “chiến tranh này như một trò chơi”.Nhiều
độc giả qua sách báo rất tò mò nhưng đều không biết chàng thi sĩ Phù Hư này
đang ở đơn vị nào.
Đọc những đoạn như:
…Qua suối nước nguồn cao tới ngực
Súng
dong cao địch tưởng ta hàng
Quần áo
ướt dầm không khí ẩm
Da nhờn
rít thấm gió mùa sang
Đi mãi
quanh năm với núi rừng
Ngoái
nhìn trùng điệp núi phương Đông
Ngước
mặt cây mù bưng bóng tối
Hai bên
bờ bụi xót xa lòng…
( Bài Quân Bộ Khúc, 1973)
Có lẽ
ai cũng tưởng rằng anh thi sĩ này rất gian khổ khi hành quân lắm.
Mãi
những năm gần đây, nhà văn chuyên bình thơ là ông Trần Văn Nam khi viết về
những bài thơ hay, qua bài “Về bài thơ Ngậm thẻ qua sông” (của Phù Hư
đăng trên Văn 1972) trên gio-o.com đã nêu :“Lại có những người đã vào
hẳn quân ngũ, đã hành quân xuôi ngược khắp nơi, nhưng thơ vẫn là thơ tình đời
thường, như kể chuyện trong thời gian hành quân tạm trú bên hông nhà một thường
dân (dù được mời vào ở trong nhà, nhưng khước từ vì không muốn gia chủ khó xử
và bận rộn)…”
Đầu tháng 3-2013, sau khi “Ngậm Thẻ Qua Sông” được tổ
chức ra mắt. Trang Web khá quen thuộc của một cây bút trong Hội nhà văn VN khi
đưa tin cũng xem Phù Hư từng là một người lính đã tham gia nhiều chiến trận…
Thực sự là sau khi Phù Hư vào trường sĩ quan Thủ Đức
khoảng 3 tháng, được gắn hình con cá lên cầu vai (tức đã qua giai đoạn tập sự,
được công nhận là sinh viên sĩ quan) thì trong dịp đầu tiên được đi phép ra
khỏi trường, anh đã…đào ngũ luôn. Anh về “chạy” giấy tờ đổi tên khác, mang tuổi
nhỏ hơn. Anh sống “bí ẩn” nhưng tiếp tục làm thơ đăng báo. Nhờ vậy tới ngày
30-4-1975 Nguyễn Đắc Ngân được hoàn toàn tự do, không phải vào trại cải tạo.
Tới thời điểm năm 1977 “thóc cao gạo kém”, Phù Hư đã nhanh chân theo nghề
“răng vàng bạc vụn”. Và anh cũng đã truyền lại cho tôi một số bí quyết ve chai.
Một bài thơ hay có thể cấu thành từ một cảm xúc thật,
từ khung cảnh “gần với sự thật” mình mới tiếp cận sơ qua ? Đây mãi mãi là bí ẩn
của nghệ thuật ! Dù gì đi nữa thì anh cũng đã nín thở được tới ngày qua sông.
Như khi “ngậm thẻ” trong đầu :
Nghĩ về
thơ
thơ đi
tu thành Phật
Phật
rong chơi lâu ngày biến thành thơ
nửa
thơ, nửa Phật lật đật
thành
Phật, thành thơ ngơ ngơ
nam mô
tận hư không biến pháp giới
quá hiện vị lai chư Phật, chư thơ.
Đó là bài
thơ đầu tiên của tập “Ngậm Thẻ qua sông”. Nếu đã qua tới bên kia bờ, thơ đi tu thành Phật, hãy quên chiếc bè đã đưa
người sang sông ?
(Còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét