Thứ Tư, 29 tháng 2, 2012

VỆ ĐƯỜNG HOA - NGUYỄN VĂN ÁNH

Vệ đường hoa! Vệ đường hoa!
Trời xanh, cánh gãy: nửa đời ta.

I. ĐÀ LẠT, THÁNG TƯ 1988

Em,
Tình cờ nào đã xui hai đứa gặp lại nhau sau mười bốn năm xa cách. Anh vẫn tưởng không bao giờ còn thấy em nữa. Ai ngờ chiếc xe hơi mới tinh từng đưa vợ chồng em vượt mấy trăm cây số đến thành phố này, lại hỏng máy nơi gần xưởng anh làm thợ. Thoạt đầu ta chưa nhận ra nhau vì em khuất lấp sau mấy người tò mò đứng xem hai vợ chồng Việt kiều và chiếc xe hơi lạ mắt. Còn anh, áo quần tay chân lấm lem dầu mỡ, đang mãi nghe chồng em giải thích nhưng bất thường của máy xe bằng thứ giọng Huế xa quê đã lâu ngày, thỉnh thoảng điểm vài thuật ngữ bằng tiếng nước ngoài. Chồng em, khuôn mặt tròn tròn, mang đôi nét mủm mỉm như búp bê con trai, đôi lúc thoáng chút băn khoăn, ý chừng thắc mắc không biết anh thợ trước mặt có hiểu được những rắc rối của kỹ thuật mới chăng. Và, ai xui anh đã nhìn lên để ta nhận ra nhau sau một thoáng ngỡ ngàng. Tiếng reo mừng vui của em vẫn sáng trong như ngày nào nhưng anh nghe tưởng chừng trong mơ. Giọng ngập tràn niềm vui, em giới thiệu hai người: Anh là người quen cũ, người anh sinh viên của ngày xa xưa khi em còn là cô nữ sinh Đồng Khánh những năm cuối bậc trung học. Phải rồi em, chồng em chỉ nên biết chừng ấy. Và, mong em thông cảm cho anh, nửa giờ sau, khi xe sửa xong, cầm nắm tiền công do chồng em trao, anh đã cố tình không nghe tiếng em hỏi anh chỗ ở để ghé thăm, anh đã lảng tránh bằng vài câu trả lời chồng em về tình trạng máy xe. Ta đã chia tay nhau đơn thuần như những người quen cũ lâu ngày gặp lại. Biết làm sao được, hở em?

I am losing you again, all again
As if you were ever mine to lose..

Anh lại mất em thêm một lần, cơ hồ như có lúc nào trong đời, em là của anh để ta có thể mất nhau... Mặc dầu chúng ta là hai người đã chung nhau một đoạn đời đầy kỷ niệm….
Ngày ấy, đã lâu lắm rồi, mười bốn tuổi, anh xin vào ở Viện Dục Anh, lớn lên nhờ những đóng góp của những người hảo tâm thường lui tới Viện để bố thí làm phúc. Bọn anh gần một trăm đứa, hàng ngày ăn hai bữa cơm luôn luôn thiếu thốn, mỗi đêm cứ hai cậu chung nhau một giường chăn chiếu rách bươm. Phần lớn bạn đồng viện của anh đều mồ côi hoặc thuộc loại bỏ nhà đi hoang. Họ thiếu thốn nhưng không hiền lành vì đời dạy bọn anh lắm bài học không dịu dàng qua cách kiếm sống bằng các nghề đánh giày, sửa xe đạp lề đường, bán báo, bán vé xi nê chợ đen và cả chục nghề khác. Vài đứa trong bọn anh lại là những tay móc túi tài tình ở chợ Đông Ba, tài tình đến nỗi Ban Điều Hành Viện chưa tìm được bằng chứng rõ ràng để đuổi ra khỏi viện. Anh và chừng vài mươi đứa nữa lại theo đuổi cái nghề mà bạn bè ai cũng chê: đi học. Chắc em còn nhớ khu vườn có hàng rào kẽm gai mấy lớp, bên trong có vài căn nhà cũ, rộng, kiểu Pháp, treo tấm biển Viện Dục Anh nằm ở cuối một con đường rất đẹp trong thành nội. Ngày ấy, anh ở cùng đường với em. Mỗi người ở mỗi đầu con đường im bóng cây cao. Nhưng đám con gái có bao giờ dám đi đến cái khúc đường trời đánh của bọn anh? Ta chưa biết nhau mãi cho đến cái ngày hai trường Quốc Học và Đồng Khánh tổ chức chung lễ phát phần thưởng cuối năm tại Nhà Hát Lớn thành phố. Năm đó anh học lớp đệ nhị, đôi khi trên đường đi học đã nhiều lần anh thấy em, cô bé xinh xinh ngày ngày xe hơi nhà đưa đón từ trường về ngôi biệt thự màu hồng đồ sộ đầu đường. Hôm ấy anh vất vả với đống phần thưởng danh dự toàn trường cao hơn nửa thước, trong túi không còn một đồng thuê xích lô chở về. Chả lẽ phải bán bớt một vài món đồ phần thưởng? Vừa lúc đó em xuất hiện. Em mặc bộ đồ đầm màu trắng khác hẳn chiếc áo dài đồng phục hàng ngày, xúng xính ôm gói phần thưởng văn nghệ lớp đệ ngũ ra cửa hội trường, sắp bước lên xe nhà chờ sẵn. Anh đánh bạo bước tới xin đi nhờ. Có lẽ anh ngố lắm hay sao mà cả em và chú tài xế đều bật cười rồi cho phép đi nhờ xe. Từ đó ta biết nhau nhưng chưa quen. Em trở vào ngôi biệt thự êm đềm, anh về lại cùng đám bạn văng tục chửi thề và thường xuyên nói chuyện với nhau bằng những quả đấm, cùng những trận đòn thù của bạn đồng viện. Thế mà ta lại lần hồi quen biết nhau hơn qua nhưng lần gặp gỡ không hẹn trước. Đã bao lần dưới tàn cây dứa dại um tùm trong công viên trước trường hai chúng ta, anh đã giải giúp em và bè bạn những bài toán khó, hoặc làm sẵn luôn bài luận văn cho em chép lại. Có lúc tình cờ gặp nhau trong đám học sinh cùng qua đò ngang sông Hương trên bến Thừa Phủ, em vui đùa; anh ngần ngại nói năng. Nước trong veo chảy nhẹ giữa dòng, nắng lấp lánh trên má em chỗ hồng chỗ trắng, mặt trái xoan hàng mi dài cong vút. Nhưng đằng sau những chuỗi cười như pha lê của em và bè bạn, anh cảm nhận một niềm cảm thông qua ánh mắt em đôi lần thoáng nhìn anh ngồi e dè, bâng khuâng bên mạn thuyền thường lệ, cạnh ông lão lái đò hiền lành tóc bạc trắng vẫn thường xem đám học trò qua bến như thể con cháu mình. Thuở ấy, anh chẳng dám nghĩ mình là bè bạn, bởi rõ ràng ta không cùng mức sống. Tuy tâm tưởng ngại ngùng, anh vẫn thầm vui được làm kẻ quen em. Nhờ có em, anh đã có vài thay đổi, mắt nhìn bớt dần ác cảm với cuộc đời nghiệt ngã. Như chiếc áo cố giữ sạch nhất anh dành để mặc mỗi khi đi qua nhà em, dầu có hay không có em đằng sau cánh cổng, anh lần hồi bớt tham gia cùng chúng bạn đi đánh lộn với các nhóm choai choai ở các xóm khác. Anh từ bỏ không theo bạn bè nữa trong những lần chui rào trộm gà hàng xóm nấu cháo ăn đêm, khi giám thị vừa yên giấc. Cứ như thế bạn bè đâm ghét anh, và thật buồn khi sách vở, giày dép, áo quần lần lần bị bạn bè ăn cắp gần hết. Anh vẫn mong nhịn nhục cho qua năm cuối cùng bậc trung học để sau khi thi tú tài xong sẽ rời bỏ nơi này ra đời kiếm sống. Nhưng không được. Buổi tối mùa đông năm ấy, trời Huế mưa sướt mướt đã mấy ngày, anh từ nơi dạy kèm trẻ về Viện Dục Anh. Do có hận thù với một băng bên trong viện, nhóm du côn xóm Tây Lộc đã chực sẵn để giáng trận đòn thù xuống bất kỳ thằng “mồ côi chó đẻ” nào bên trong viện. Vô tình anh lại là nạn nhân của trận đòn thù. Anh chống đỡ yếu ớt, cố bỏ chạy được một quãng nhưng không thoát kịp. Anh bị đánh gục, môi miệng ứa máu, thân mình đấy vết đòn để trả món nợ thù hằn do bạn bè anh gây ra cho đồng bọn mấy ngày trước đó. Bất ngờ có ánh đèn pha xe hơi xuyên thủng màn mưa lất phất chiếu sáng cả một quãng đường vắng. Bọn du côn bỏ chạy vì ngỡ xe tuần cảnh. May cho anh, cả nhà em vừa đi xi nê về. Dưới ánh đèn pha, em hốt hoảng nhận ra anh gục người ngồi tựa vào cổng nhà. Anh thoáng nghe lao xao tiếng người nói, tiếng ba em quát bảo vào nhà gọi điện thoại kêu xe cảnh sát đến xúc đi. Tiếng em van xin ba chở bạn em đến bệnh viện. Mơ hồ có tiếng những người khác thuyết phục ba em. Lần đầu tiên anh gặp ba me em là như vậy đó: một thằng du đãng khi không đến gieo tai hoạ trước cửa nhà người ta. Anh tỉnh dậy sáng hôm sau trong nhà thương, ba em đã chở anh đến đây nhưng vốn tính cẩn thận của dân thượng lưu người Huế, ông còn chở theo một người hàng xóm để làm chứng, đề phòng bất trắc. Gần trưa, em và cô bạn đến thăm anh, dĩ nhiên là ba me em không hay biết. Lúc đầu, em hơi giận anh vì tưởng anh còn nhập theo bọn du côn phá phách xóm làng. Dần dần, em hiểu ra và nhìn anh mỉm cười an ủi. Gần một năm kể từ ngày mình biết nhau, chúng mình không nói chuyện bài vở. Em hỏi anh, em kể chuyện hay trao đổi với cô bạn bằng giọng cô gái Huế nhỏ nhẹ, hồn nhiên, lời êm êm xoa dịu đầu óc anh đang choáng váng. Khi em chào về, anh gượng ngồi dậy tiễn nhưng ê ẩm cả người không ráng được. Em về rồi, anh nuối tiếc như mất đi một vật gì quý giá. Hôm sau em lại đến, một mình, mang lại niềm an ủi, niềm vui bay bổng như thiên thần. Anh không còn thân nhân, ngoài người chị lấy chồng phương xa mỗi năm vài lần thư thăm hỏi. Em bao dung, chăm sóc anh như người em gái.Có em, không khí tẻ nhạt của nhà thương trở nên đầm ấm như khung trời mộng mơ trong hồn anh. Những lần thăm sau, anh tưởng chừng như mình quen nhau từ nhiều năm trước, hay từ một kiếp nào. Anh không còn nhớ chúng mình từ lúc nào đã bước ra khỏi khuôn khổ của tình bạn để vào thế giới của tình yêu vừa bao la trong mơ ước vừa giới hạn trong tình cảm. Một thế giới mà cả anh và em chưa từng bước vào trước đó.Chỉ biết rằng ba tuần sau khi anh ra viện, chúng mình bắt đầu trao thư qua trung gian cô bạn gái. Em mười sáu tuổi, còn quá trẻ, ngỡ ngàng trong thứ cảm xúc hình như là tình yêu. Anh mười chín, chẳng có gì trong tay, chỉ một hồn đầy mộng mơ. Không nhà cửa, không người thân gần gũi ngoài tình em. Ngay từ đầu chúng mình đã biết gia đình em không thể nào chấp nhận anh. Ba em, người thầu khoán nổi tiếng hàng đầu ở cố đô Huế; me em, bà chủ đại bài gạo tấp nập bên bờ sông Hương. Dưới mắt ba me, anh chỉ là một thằng du côn đã một lần gieo tai giáng hoạ ngoài cổng nhà. Mà quả thật hồi ấy anh chẳng xứng với em chút nào, nếu người nhận xét không phải là em hay anh. Anh chỉ còn biết một lối thoát để qua đó đạt được ước mơ hằng ấp ủ, đó là con đường học vấn. Ngoài những lần anh em mình đi chơi chùa Từ Hiếu, thăm vài lăng tẩm chung quanh Huế hay về hóng gió biển Thuận An, anh lao đầu vào việc học để soạn thi Tú Tài II. Sự may mắn đã không phụ lòng anh mong đợi, kỳ thi năm ấy anh đỗ ưu hạng. Mừng anh, em đến thăm anh nơi căn gác trọ. Chúng mình đã sống cho nhau trọn một ngày. Sau này, nhìn lại ngày hôm ấy, lần nào hồn anh cũng ngập tràn bâng khuâng, nuối tiếc:
She was seventeen years old
But I loved her so
She was too young to fall in love
And I was too young to know.

Ngày ấy em mười bảy,
Ta trao nhau tình sâu,
Tuổi ấy đừng yêu thế,
Anh dại khờ biết đâu.
Rồi anh vào đại học, miệt mài bốn năm với sách vở. Chúng mình có khi giận nhau, khi thương nhau nhưng tình yêu vẫn còn như sợi dây êm ái nối liền hai đứa. Gia đình càng cấm đoán quyết liệt. Anh vẫn nuôi hy vọng đến ngày thành đạt để được hội nhập vào tầng lớp của ba me. Thực tế sau này chứng minh đó là ảo vọng, nhưng hồi ấy anh tin tưởng lắm nên dồn hết mọi ý chí và năng lực để học hành. Vừa đi học vừa đi làm để kiếm sống, làm rất nhiều thứ nghề, kể cả cái nghề làm máy mà hiện nay anh đang bám víu để nuôi thân qua ngày. Vì tương lai hai đứa mình, anh học nhiều, miệt mài với công việc, thỉnh thoảng dạy em học. Và có lần trong một buổi thực tập tại trường Đồng Khánh anh đã gọi em lên bảng lại nhằm cái câu hỏi em chưa thuộc, làm đám học sinh bạn bè cứ rúc rích cười trong khi em đứng ngây người, đỏ bừng đôi má vì lúng túng. Sau lần đó em giận anh đến mấy ngày.

Sắp đến ngày ra trường, vì đỗ đầu ban nên anh được thầy Viện Trưởng Đại Học trao cho tấm giấy mời danh dự của chiếc ghế dành cho người thân của thủ khoa. Đó là một vinh hạnh trường cho các vị có công nuôi dưỡng tân khoa. Cầm thẻ mời anh gần như ứa nước mắt, vì chẳng còn người thân nào gần gũi. Anh tặng em tấm giấy mời để hoặc là dán vào album làm kỷ niệm hoặc là nếu có can đảm thì đến dự lễ ra trường cùng anh vì buổi lễ được tổ chức rất lớn, ngoài trời, như là một ngày hội trọng thể của toàn thành phố. Anh vẫn còn giữ tấm ảnh chụp em ngày hôm đó, ngồi trên ghế danh dự của thân nhân thủ khoa bên cạnh các bô lão và quan chức thời ấy. Anh cám ơn lòng can đảm của em, vì khi trong áo giáo thụ bước lên đài lãnh văn bằng, có một giây nào đó anh chỉ thấy em, trong khoảnh khắc đôi mắt em sáng ngời hồn anh, lễ đài quan chức như tan đi trong một thoáng, chỉ còn em. Chuyện chúng mình vì thế lại đến tai ba me, hai vị lại ra sức cấm đoán và bạn bè kể cho anh nghe có lần ba đã đánh em vì chuyện ấy. Ba me gần như thành công lần này khi cấm hai đứa gặp mặt. Đám khách mời dự tiệc hàng tháng ở nhà em phần lớn là tướng, tá và nhà giàu, trong đó có người ba me hằng mong kết sui gia. Lần hồi anh hiểu ra rằng ước nguyện của ba me không đặt ở nơi việc học hành thành đạt mà lại hướng về tiền bạc và quyền thế, hai thứ có thể giúp ba me trong kinh doanh, làm áp phe. Tiền bạc và quyền lực chỉ có ở giới giàu và kẻ có quyền cao chức trọng. Anh không thuộc hai giới đó nên trong mắt ba me vẫn chỉ là một thằng côn đồ chực hăm hở cướp con gái nhà người ta. Ấn tượng ngày ấy khó phai mờ trong tâm khảm người lớn. Anh tìm gặp thầy Viện Trưởng xin lên Đà Lạt dạy học, thầy rất đổi ngạc nhiên vì đã dành cho anh một địa vị đáng quý ngay tại Đại Học. Thâm tâm anh còn một hy vọng sẽ cùng em lập một đời sống mới trên vùng cao nguyên, một cõi thanh bình riêng cho hai đứa mình. Anh lại ươm mơ, không biết rằng trong mỗi người con gái có phần mộng mơ và có phần toan tính. Em có đủ can đảm yêu anh nhưng lại thiếu quyết tâm từ bỏ mọi thứ tiện nghi đã ấp ủ em hơn hai mươi năm từ lúc em còn trong bụng mẹ. Ngày lễ chọn nhiệm sở, người thủ khoa ban Anh Văn này đã gây ngạc nhiên cho nhiều người khi đứng trước micro tuyên bố xin chọn lên Đà Lạt, nhường nhiệm sở nơi đây cho người kế tiếp. Sau đó chúng mình gặp nhau lần cuối. Xứ Huế có quá nhiều thành kiến với con gái bỏ nhà đi theo trai. Em buồn đau nhiều lắm nhưng thực tiễn đưa em đến quyết định. Thế là anh lên cao nguyên một mình không có em… Ta đã mất nhau một lần, vết thương trong hồn anh rớm máu khi anh giã từ Huế, thành phố của nhiều kỷ niệm hai đứa mình. Ra đi từ ấy chưa một lần trở lại…
Bỏ lại Huế sau lưng, anh mang tâm trạng gần như “kẻ từ quan, lên non tìm động hoa vàng ngủ say.” Anh làm giáo sư tại trường nữ trung học lớn nhất xứ hoa đào. Thỉnh thoảng còn nhận được thư em, anh mang ra đồi nằm trên cỏ đọc đi đọc lại hàng chục lần. Mây cao nguyên bay nhanh hơn rất nhiều so với những lần mình cùng nhau nhìn mây trên đồi Từ Hiếu, nhưng lòng anh không chút rộn ràng. Anh yêu một loại hoa vàng mọc dại bên đường. Vệ đường hoa bước vào đời anh từ đó. Dẫu sao khi nhìn lại những ngày đã qua anh vẫn thầm cám ơn em và quãng đời dịu êm có em bên anh. Không có em chắc hẳn đời anh đã đổi khác. Nếu cuộc tình không ban cho anh niềm mơ ước vươn lên, ai biết đâu anh nay chẳng là gã lưu manh ngoài chợ?
Khung cảnh trầm lặng của núi đồi Đà Lạt giúp nguôi ngoai một phần khổ đau trong lòng, anh mong tìm quên và nguồn vui trong công việc. Học trò phần lớn rất ngoan, có những buổi gần trưa anh đang say mê giảng bài bỗng chột dạ dừng lại vì mấy chục cặp mắt theo dõi mình từng lời, từng cử chỉ, những đôi má ửng hồng tự nhiên khiến anh thấy ngạc nhiên vì nét đẹp trời cho của người con gái Đà Lạt. Tuy nhiên, hồn vẫn mộng mơ dõi về thành Huế, vẫn mong ngày về gặp lại em vào mùa hè năm sau, năm 1975.
Nhưng những biến động thời cuộc từ giữa tháng ba năm bảy lăm đã cắt đứt con đường anh tìm về gặp em. Tin đồn đầy dẫy. Khắp nơi những đoàn người nhốn nháo tìm cách rời khỏi thành phố miền cao. Trường đóng cửa, theo đoàn người loạn lạc anh xuôi về đồng bằng , hỏi tin em giữa hàng ngàn người di tản, lòng vẫn nuôi hy vọng ba me sẽ hồi tâm. Bởi dường như nay tình hình đổi khác. Nhưng hoài công vì em vẫn biệt tăm.
Tàn cuộc chiến, anh về Đà Lạt tiếp tục dạy học tại trường xưa. Quanh anh bỗng có lắm người quen cũ đã từng hoạt động cách mạng! Họ vung tay hô hào bừng bừng khí thế. Họp hành liên miên, rồi kiểm thảo, kiểm điểm, học tập, tập huấn.Thành phố Đà Lạt vài năm đầu tiên sau chiến tranh cỏ mọc xanh um trong các sân vườn biệt thự đóng kín. Tên trường, tên cơ quan, thậm chí bảng hiệu cửa hàng cũng thay đổi màu sơn cho hợp với thời thế. Thảm hoa trong nhiều vừơn nhà bị nhổ sạch để thay bằng những luống khoai lang sớm chiều chăm bón. Đồi Cù khoáng đạt, thâm trầm được đào thêm vài ngàn hố nhỏ để trồng cây tạo rừng cho con cháu mai sau. Dẫu sao, mây trời Đà Lạt vẫn bay lồng lộng và mỗi sáng tinh mơ, sương như những sợi khói bạc trên hồ vẫn lập lờ cùng mặt nước yên lặng, như điệu vũ uyển chuyển của ngàn tiên nữ áo trắng mong manh.
Tin em vẫn biền biệt, dù đã nhiều lần anh gửi thư về con phố nay đã thay tên. Bạn bè cho biết gia đình em không còn ở Huế nữa. Mãi hơn một năm sau anh mới nhận được thư em, mỗi lời thư như một giọt buồn vào hồn anh ngay từ câu mở đầu: “Anh yêu, ta xa nhau mãi mãi. Một năm nay em vẫn dõi tìm địa chỉ của anh, vừa biết anh vẫn dạy trường cũ. Bây giờ đại dương đã xa cách chúng mình....”
Thư viết không dài vì có lẽ em ngại thư không đến tay anh. Nhưng anh đã rõ. Tài xoay sở của ba me đã đưa được cả nhà sang bên đó trong những ngày cuối cùng của tháng tư năm ấy. Năm sau anh lại nhận được tin em và cánh thiệp hồng gửi từ Bắc Mỹ báo tin em lấy chồng. Chồng em là con của một trong những người khách vẫn dự tiệc hàng tháng tại nhà em hồi ấy. Thế là mãi mãi em đã xa khỏi tầm tay anh....

Bây giờ anh dồn hết lòng yêu thương cho đám học trò, cố vượt qua những khó khăn của buổi giao thời. Anh cũng vác cuốc theo học trò đi lao động, làm thuỷ lợi hoặc xới đất trồng khoai. Nhưng có những lúc dừng tay cuốc nhìn đám mây trôi nhanh giữa trời xanh ngắt, chợt thấy em hiện về trong tâm tưởng, vẫn hàng mi cong vút và mái tóc dài cuốn gió tung bay trên đồi Từ Hiếu.
Em yêu dấu, tình ta là cuốn sách đã giở sang trang mới. Tuy hoài niệm còn đó, còn trong kỷ vật, trong chồng thư và trong chiếc áo len tự tay em đan anh vẫn mặc chống gió lạnh miền cao. Nhưng chúng mình giờ đã như hai dòng nước từ một con sông chảy về hai hướng càng lúc càng xa nhau rồi. Có gặp nhau chăng ngoài biển lớn cũng chẳng còn là mình ngày xưa.
Lỡ mất em trong cuộc đời, anh chỉ còn cố bám vào chút tình yêu cuối anh dành cho nghề dạy học, dẫu đã phải trải qua nhiều năm cùng cực. Nhưng thời cuộc một lần nữa lại dửng dưng tước đoạt chút lòng còn lại: nợ cơm áo và tình người hờ hững đã buộc anh phải rời xa lớp học, chuyển sang làm thợ máy hầu mong tránh đói nghèo....Vết thương nào cũng nhức nhối trong tim.
Nhớ lại ngày trước, qua bài hát, có người nhạc sĩ đã bảo anh rằng: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng. Để làm gì em biết không?... Để nước cuốn trôi!...” Anh đã muốn vươn lên trong đời để mong có một tấm lòng, và nước đã cuốn trôi tất cả. Như những hạt cát khô của ngày xưa còn bé, lúc cha anh mới mất, anh thường ra bờ biển vốc đầy trong nắm tay, lần hồi cát vuột qua kẽ tay đi hết, có chăng chỉ còn xót xa trong mắt, trong lòng....
Làn không khí lạnh đầu mùa khô bắt đầu mơn man hoa lá trên những lối mòn quanh co của thành phố miền cao. Những cặp tình nhân từ khắp nơi đổ về hưởng vị ngọt của tình yêu hoà trong hơi lạnh. Từng đôi, từng đôi ngập tràn trong hạnh phúc....Có một loài hoa sắc vàng giữa đám lá xanh: Vệ Đường Hoa.

II. DÃ QUỲ TRÊN THẢO NGUYÊN MỘC CHÂU

Mộc Châu, tháng 12, 2007

Anh đứng đây, một mình trên đồi trà nhìn xuống đồng ruộng thảo nguyên sắp đi vào hòang hôn, nắng cuối chiều se se lạnh như những ngày này ở Đà lạt, nhưng đất trời nơi đây hòan tòan khác. Một chút cỏ đơn của kẻ xa nhà, lẫn chút e sợ tầm nhìn xoi mói của những quả núi cao đơn độc, kỳ quái, phủ đầy cây xanh, càng lúc càng bí hiểm khi màn đêm phủ kín dần dà từ chân lên đỉnh. Xa thật rồi, những xe cộ tấp nập trên phố thị Đà Lạt, Sài Gòn hay Hà Nội, chỉ còn yên lặng của buổi chiều và văng vẳng từ rất xa tiếng những bà con bản địa người Thái gọi nhau chiều xuống về nhà.

Vậy là bước chân phiêu lãng cuối cùng cũng đưa anh lần thứ hai đến với những đồi trà mấp mô trên thảo nguyên Mộc Châu ngút ngàn màu xanh cây lá, vì có ai đó mong biến nơi này thành những vườn rau thấm nhuần nước tưới bằng những kỹ thuật trồng trọt của thế kỷ 21. Người ta mơ về một tương lai có thật nhiều rau quả tươi ngon từ những vườn đồng Mộc Châu nối tiếp nhau theo xe lạnh về tận Hà Nội, hay vượt biển đến trên bàn ăn gia đình ở một đất nước xa xôi. Cuộc sống nơi đây rồi sẽ đổi thay, còn chút tiếc nuối chăng là sẽ không còn thấy thấp thóang những cô gái Thái trắng vừa đi học về, buông vội sách vở, miệt mài cuốc đất trên đồng lam lũ, khoe đôi má hồng hào và nói giọng Kinh miền xuôi thật nhuần nhuyễn mỗi khi có dịp chuyện trò với người dân tộc khác?

Mộc Châu, gần hai ngàn cây số cách xa Đà Lạt, anh vẫn gặp lại vệ đường hoa ngày đó, khoe sắc vàng ánh bên đường, trong nắng le lói cuối ngày, trong gió heo may mùa đông Tây Bắc.

Hôm nay bên dã quỳ, anh lại nghĩ về em…

Thời gian…. Ba mươi mấy năm qua đã biến chàng thanh niên đầy mộng mơ ngày đó thành một người nay được giới trẻ gọi bằng “chú, bác”, và ta ý thức đươc rằng phần còn lại của cuộc đời là tuổi già.

Chúng mình đã không còn thấy nhau nữa sau cái lần tình cờ gặp vợ chồng em tại Đà lạt trong một tình huống quá cách biệt về giàu nghèo khiến anh không dám nhận em là người quen. Một lần khác, lãng du trên đất Mỹ, anh có đươc bốn tiếng đồng hồ dừng lại chờ trung chuyển xe búyt Greyhound tại một thị trấn nhỏ miền đông nước Mỹ, nơi anh đươc biết vợ chồng em có căn nhà êm ấm, anh đã cố tình chọn đi tuyến đó để mong có dịp ghé nhà thăm ẹm. Chỉ một quãng đường ngắn thôi, nhưng nghĩ mãi rồi lại thôi, vài lần bấm số điện thọai để cuối cùng không gọi; và anh tìm đến công viên vắng vẻ cạnh thị trấn, ngắm thiên nga trắng hoang dã trên hồ suốt mấy giờ chờ xe.

Nhưng ta chưa bao giờ quên nhau phải không em? Mãi tận năm ngóai, anh mới được biết điều đó qua thư của chồng em, gói ghém nỗi cảm thương vô vàn dành cho người vợ yêu quý. Vĩnh viễn từ nay đến vô cùng, không bao giờ ta còn thấy nhau nữa. Thư có kèm tấm ảnh ngày xưa, ố vàng theo thời gian, chụp em trên lễ đài trong ngày anh ra trường.

Ngày mai, và những ngày kế tiếp, anh sẽ xuống đồng vừa thao tác vừa hướng dẫn vài nông dân Thái vùng cao nơi đây làm quen với những kỹ thuật họ chưa từng thấy trong suốt cuộc đời nương rẫy của họ. Bấy giờ anh của em không còn là người thầy giáo đạo mạo trên bục giảng, hay anh thợ sửa điện xe hơi lấm lem tại gara T.T. Đà Lạt ngày nào... Em sẽ thấy anh cùng dân quê miền núi ngăn đập, bơm nước, đào đào, cuốc cuốc, trồng vòi phun, giăng ống tưới nhỏ giọt... như thể anh đã từng làm công nhân nông nghiệp suốt nửa đời người.

Niềm vui là khi thấy kết quả công việc: những giọt nước trong vắt có hòa tan dưỡng chất nuôi cây như những hạt ngọc mới tạo hình tươm ra từ những ống tưới, nhẹ nhàng thấm xuống bộ rễ, mang sinh lực cho gốc trà khát nước, cho cây rau xanh mướt, cho bụi hoa muôn màu. Lạy trời, sẽ vui biết bao, nếu... giá như có một lúc nào đó, ngẩng nhìn lên bờ ruộng chợt thấy em đang đứng nhìn anh, mỉm cười.

Chỉ còn trong mơ ta mới thấy nhau lần nữa, phải không em?

Mỗi một chúng ta nay có cuộc đời riêng, có những yêu thương dành cho người thân gần gũi. Có những ngăn trong tim đã vĩnh viễn khép kín….

và, giữa em và anh hôm nay còn có thêm những ngăn cách khôn cùng...

III. THÀNH PHỐ BOLOGNA, NƯỚC Ý, CUỐI THU 2008

Giảng đường trang nghiêm cổ kính cùng với bài thuyết trình phức tạp về "Thủy Động Học Trong Tưới Nông Nghiệp" khiến anh e ngại cho cái vốn kiến thức tóan học ít ỏi rỉ sét của mình đã lâu không dùng, nhưng lòng tận tụy của vị giáo sư già uyên bác cùng với khung cảnh Bologna êm đềm và tình người ấm áp nơi đây, đã phần nào đã giúp anh bớt băn khoăn, vẫn cố mong học đươc chút gì mang về quê hương.

Anh bước ra khỏi ngôi trường cổ kính, Bologna đầu mùa đông năm giờ chiều đã tối mịt trong gió se se lạnh. Những thiếu nữ trang phục màu đen rất thời trang, mắt bồ câu hăm hở dạo bước trên hè phố cổ xây hình vòm như hành lang cung điện nhiều thế kỷ trước. Nước Ý tổng hòa hiện tại với quá khứ bằng cảnh quan thành phố Bologna, với mỗi viên đá trên tường nhà, mỗi tượng đài, mỗi bức ảnh chiến sĩ dựng trên quảng trường, tất cả như muốn nhắc lại lich sử đất nước này.

Còn anh, nơi xa kia, xa lắm về phía Đông, cũng có một Việt Nam để thương nhớ, và, xa hơn nữa, tại nghĩa trang nào đó ở miền đông nước Mỹ, em yêu thương của anh đang nằm trong đất lạnh… Ba địa danh ở ba vùng trái đất, chiều nay được kết liền nhau trong ý nghĩ của một người xa xứ...

Lá phong khô lìa cành rơi rụng đầy trên đường phố Indipendenza, một chiếc đáp xuống vai, anh đón lấy, định sẽ ép vào trang giấy sau này mang về quê hương làm kỷ niệm. Chiếc lá khô trong tay bỗng làm anh nhớ lại… chuyện đã hơn ba mươi năm mà sao vẫn còn đây trọn vẹn từng chi tiết. Ngày đó, hai chúng mình chợt ghé thăm người bạn học của anh ở cư xá sinh viên Đội Cung, được anh bạn cho xem con bướm lớn rất đẹp ảnh vừa bắt được và ép công phu trong khung kính. Trước nỗi hăm hở của người bạn và trong nét vui vô tình của anh, em quay đi, nói nhỏ vào tai anh, giọng buồn như trời đông xứ Huế: “Em thấy tội nghiệp con bướm quá…”

Em ạ, từ ngày đó, anh, có khi nghe kể, cũng nhiều lúc tự mình chứng kiến, những cảnh đời bươm bướm trong hình hài thân phận của nhũng con người thật. Chiến tranh ngày trước và cả trong thời bình yên hôm nay, vẫn luôn có đau khổ, mất mát, và thương tổn xót xa.... Không biết còn được bao nhiêu người nhạy cảm, nhân hậu như em để lăn hạt nước mắt long lanh trên đôi má hồng hào, xót thương cho thân bướm…

Nguyễn Văn Ánh
ĐHSP Huế,Thủ khoa Ban Anh Văn,

Khoá Huỳnh Thúc Kháng 1971-1974





Thứ Ba, 28 tháng 2, 2012

HOÀI NIỆM - HOÀNG THỊ THIỀU ANH



Đường xưa
một mình em bước
Vườn ai
cánh tường vi lay

Bàn tay mộng tưởng
ngắt
Hạnh phúc…
tan nhòa khói mây

Tháng ngày
qua trong ngậm ngùi
Xin giữ
chút tình xưa đắng

Giọt cà phê
cuộn quay khói thuốc
Đưa em về
giữa ánh trăng khuya

HTTA

Thứ Hai, 27 tháng 2, 2012

CHÚT GIẤM - LÊ NGỌC THUẬN



Năm giờ chiều - bây giờ em ở đâu
Nâng ly chạm chén đám đông nào
Ta giận dữ tới lui trong quán vắng
Không biết gây ai - ngốn rượu lừng khừng

Em mặc áo màu đen hay trắng
Tóc cột sau hay xỏa hai vai
Ta chợt muốn thành bom khủng bố
Nổ tan tành chỉ sót lại em

Bạn bè ta toàn dân cao thủ
Giỡn cợt ta như gã dại khờ
Ta không thể rút dao - đành ngậm miệng
Uống thầm em riêng lẻ một góc trời

Đôi mắt em vẫn không cần trang điểm
Đôi môi em khi dễ phù hoa
Và đôi chân coi thường thiên hạ
Hãy bước về ta giữa cõi ta bà

Thứ Bảy, 25 tháng 2, 2012

TRƯỚC SAU ĐỀU CỦA RIÊNG MÌNH - NGUYỄN LƯƠNG VỴ



Thi sĩ Võ Chân Cửu tự bạch, anh mần thơ từ khi còn tuổi thiếu niên. Mần thơ từ rất sớm, nhưng sức thơ lại vượt xa cái tuổi của mình, mà thơ lại hay, thơ thứ thiệt nữa thì thật là hiếm và quý.
Võ Chân Cửu in tập thơ đầu tay,Tinh Sương, năm 1972, cách nay gần 40 năm, lúc ấy, thi sĩ cũng vừa tròn 20 tuổi. Gần 40 năm sau, ngồi đọc lại Tinh Sương, tôi vẫn còn niềm rung cảm, xúc động mạnh như thuở nào.

Tinh Sương đúng như tên gọi, một giòng thơ lung linh, trong veo trong vắt, nhất khí từ bài đầu đến bài cuối. Âm vang có một chút gì đó hiu hắt, lành lạnh, trầm trầm. Sắc màu có một chút gì đó vừa ảo diệu , vừa mênh mông. Chữ trong mạch thơ của thi sĩ hình như cố ghìm lại những tiếng nấc thảng thốt của buổi đầu đời, khi bắt đầu cảm nhận được cái cô liêu, côi cút, bơ vơ của kiếp người.
Tinh Sương, tuy với số lượng thơ chắt lọc, 25 bài (phần lớn là thơ bốn chữ [6 bài,] thơ năm chữ [12 bài;] còn lại là thơ sáu chữ [4 bài,] thơ bảy chữ [1 bài,] thơ song thất lục bát [1 bài] và một tiểu trường ca Quẩy Đá Qua Đồng, viết theo lối bài hành cổ phong với phần mở đầu và phần khép lại bằng thơ lục bát,) nhưng về phần thi pháp, Võ Chân Cửu đã chứng tỏ được một bản lĩnh vững vàng, tầm cỡ ngay từ thời tuổi trẻ

Nàng đội nón cời
Đi về phương bắc
Thẳng đứng mặt trời
Soi không thấy mặt
(Vô Tình)

Nhịp hai, bốn chữ, bốn câu. Hình ảnh, tứ thơ rất lạ. Nàng nào vậy? Nàng Thơ? Nón cời? Soi không thấy mặt. Bốn câu mở đầu của tập thơ, tỉnh rụi, lạnh lùng quá đỗi. Câu cuối hun hút bóng hình, buông xuống một âm trắc dứt điểm nghèn nghẹn, thảng thốt. Vô Tình ư? Không hẳn. Nàng Thơ thách thức thi sĩ đó thôi! Thi sĩ lập tức hồi đáp:

Trăm năm bá láp
Nghìn năm điêu tàn
Đi về Tịch Hạp
Soi bóng trăng ngàn
(Soi Bóng)

Vỡ lẽ ra, Soi Bóng trong cõi Tịch Hạp thì sẽ thấy rõ mặt nhau.
Bóng trăng ngàn chỉ là biểu tượng thôi. Tâm thức của thi sĩ tự soi lấy cái bóng “kép” của mình. Cõi Tịch Hạp là mái nhà xưa, cái chốn ban sơ của âm và sắc, cái chốn hỗn mang thiên địa mịt mù. Khởi kỳ thủy là Lời hay là Âm? Hỡi Nàng Thơ huyền ảo kia! Vậy nên:

Sớm về phía mây tụ
Chiều tới nơi mây tan
Phải nơi nầy chốn cũ
Trên mặt đất còn hoang
Trời rộng đau gió hú
Ôi hư không tràn lan

(Một Ngày Bộ Hành)

Thi sĩ cứ bước đi, bước đi. Nhịp một nhịp hai nhịp ba trùng trùng duyên khởi. Cái bóng của thiền sư Không Lộ ở đâu đây? Trường khiếu nhất thanh hàn Thái Hư – Hú dài một tiếng lạnh cả cõi Hư Không. Thi sĩ chắc là đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Cái chốn cũ là cái chốn nào trong tiền kiếp phôi pha? Câu hỏi vu vơ hoang địa, tịch mịch vọng lời đáp. Đúng rồi:

Tuổi mười tám đôi mươi đắm mình dạo chơi trong cõi tịch mịch của buổi tà huy, nhìn thấy và lắng nghe, không kịp gọi thì bóng tà bay cái vụt. Nhạy cảm trong từng cái thấy cái nghe, hạt bụi cũng có linh hồn, cũng có dáng dấp sinh linh ngoa ngoe quẫy đạp. Là ta đấy ư? Là em đấy ư? Lời chưa kịp gọi, cái vụt của chớp nháy không gian thời gian kia đã chia biệt rồi!

Theo mây đi một buổi
Trời đất nhẹ phiêu phiêu
Va đầu tưởng đụng núi
Chỉ đụng bóng sương chiều
Một mặt trời lầm lũi
Trên trần gian tiêu điều.

Tứ thơ thản nhiên, lạ lẫm, pha chút ngông cuồng của tuổi trẻ. Không hề gì! Cô liêu và cô độc quá thôi! Vô núi là vô cái cõi tịch mịch sấm rền. Thi sĩ chỉ biết:

Vô núi nghe núi rền
Tự hỏi rồi tự đáp
Về ù tai cả đêm
Canh tà chỉ buồn ngáp.

(Thâu Đêm)

Bài ngũ ngôn tứ tuyệt hình như có tiếng đồng vọng của Trúc Lâm Yên Tử? Trong sấm sét rền vang của tịch mịch, thi sĩ hốt nhiên vỡ lẽ ra,tự hỏi rồi tự đáp
Tự đáp rồi thì ù tai cả đêm. Buồn ngáp là để hóa giải cái hay là niêm hoa vi tiếu sau cái buồn ngáp ấy? Bài thơ hay là bài kệ? Chẳng biết nữa. Thi sĩ hay thiền sư? Lại càng chẳng biết luôn. Chỉ biết rằng: Thi sĩ đã sớm chạm vào cõi vô ngôn kỳ bí nhất của kiếp người. Vô ngôn đâu hẵn là không lời! Xin mời bạn đọc chậm rãi và tưởng tượng thêm tiếng mõ cầm canh hòa điệu

Chùa cổ bên sông
Mưa lồng chính điện
Mưa dìu mái cong
Về thăm năm cũ
Rã chút hương tàn
Trên bia mộ hoang
Trên cành đa phế
Hồn đựng bình vôi
Và trong ngẫu tượng
Than đất than đá
Than cỏ than cây
Cùng con dế nhỏ
Gáy suốt đêm dài
Gáy suốt mười năm
Chết vùi dưới rễ
Còn mãi kêu em
Bên kia bờ sậy
Sông là nắng mai
Ủ lòng em nhạt
Gáy suốt mười năm
Nở hoa bát ngát
Em đeo trong tim
Em cài lên ngực
Một mai hết rồi
Em biết còn ai
Gọi vầng trăng đục
Chở tình lên mây
Mây tan mây hợp
Mây trắng đầy trời
Tan nát nửa đêm
Xoáy theo tiếng mõ
Vọng từ muôn xưa
Hiện con bướm nhỏ
Đậu bâu áo phai
Ru trong nắng tịnh
Nước mắt như mưa
Cuốn hai bờ mắt
Mắt khép một bờ
Em thấy trăm năm
Một tiếng chuông đồng
Em thấy nghìn năm
Một câu chiêu niệm
Em nhìn vạn kỷ
Một vùng như sương
Chùa cổ bên sông
Mưa mưa không cùng
Mưa mưa kỳ cựu
Những ngày nước dâng
Mưa êm nhập định
Từng mảnh rêu phong
Anh quên kinh kệ
Ra chảy với sông
Tìm em vạn ngã
Bạc áo nâu sồng
Kiệt trên đời cũ
Ơi em vô hình
Một đời bay vụt
Hỏi em bóng dáng
Sông nước chập chùng
Nước xô thiên địa
Chùa cổ bên sông
(Chùa Cổ Bên Sông)

Theo tôi, đây là bài thơ xuất thần nhập thánh nhất trong Tinh Sương. Thi sĩ viết như nhập đồng, chảy trôi một mạch như khúc đồng dao, nhịp theo tiếng mõ thánh thót như những giọt sương trời, vang vang, lắng lắng. Chùa cổ, sông, là biểu tượng đầy ẩn dụ, động và tĩnh, xa và gần, mộng và thực, dìu dặt âm vang, quyện vào nhau trong tiết điệu lung linh, chập chùng, trùng điệp. Bài thơ có thể tụng với nhịp ngân nga trầm bổng, có thể hát lên một mình trong đêm thanh vắng. Tụng hay hát, nhả giọng khoan thai từng chữ, câu chuyện kể sẽ ánh lên một âm vang và sắc màu vừa thực vừa mộng. Tụng hay hát, sẽ bật lên tiếng ca xang bi mẫn giữa bóng đời dâu bể trầm luân. Em là ai? Là duyên nghiệp trùng trùng, là vết thương tâm bạc áo nâu sồng/kiệt trên đời cũ của kiếp người ảo hóa mong manh. Bài thơ thấm đẫm mùi Đạo mà ngan ngát hương Đời nên không có chỗ dừng. Càng tụng, càng hát, càng lung linh màu Sông nước chập chùng/Nước xô thiên địa/Chùa cổ bên sông…

Tinh Sương còn có bài thơ 5 chữ, Quê Nhà, 148 câu, là bài thơ khá dài hơi, ý tứ hàm súc, nội lực thâm trầm. Tôi nghĩ, thi sĩ đã cảm ứng và phát tiết, khai mở và sáng tạo thêm mạch ngầm sâu thẳm mà 2 câu thơ của Huy Cận chưa nói hết:Một chiếc linh hồn nhỏ/Mang mang thiên cổ sầu. Phải chăng, đó cũng là thiện duyên đối với những tâm hồn đồng điệu. Đồng điệu, nhưng đường bay trong cõi văn chương, mỗi người mỗi ngả riêng tây.
Quê nhà, một nơi chốn nào đó trên mặt đất đìu hiu, vòng quay sinh tử dập dìu, đến rồi đi, đi rồi đến, mong manh phận người bụi bặm, hẩm hiu trăng tàn nguyệt tận giọng nói lời chào, Mây bay từ thiên cổ/Cùng nhau trời đất tan/Ta một linh hồn nhỏ/Vơ vẩn miền Đại Hoang.

Quẩy Đá Qua Đồng, gồm 120 câu, là một tiểu trường ca độc đáo. Khổ đầu khai mở bằng 10 câu lục bát để vào chuyện. Tiếp theo, 102 câu phá thể theo kiểu một bài hành cổ phong. Cuối cùng, khép lại bằng 8 câu lục bát. Như một câu chuyện kể, một huyền thoại nơi một vùng địa linh nào đó (không biết có phải là nơi chôn nhau cắt rốn của thi sĩ, hư cấu thêm, muốn ký thác tâm sự chăng?) Trong bài thơ, đá là một vật linh, cất lên tiếng nói, tiếng ngâm ngợi, ca xang giữa thinh không. Giọng đá u trầm

Soi cái hình ta, hề
Minh mông
Soi suốt thiên thu, hề
Thinh không
Trứng con thần ưng
Phơi trên non chóp
Ta nằm muôn năm
Sao chưa thay lốt
Ta uống tinh sương hề bao nhiêu hớp
Thốt với bao la hề khuya hay trưa
Con thần ưng ơi con thần ưng
Con trăn tinh ơi con trăn tinh
Ngươi chơi cùng ta hề
Sao ta chưa bay lên cao hề
Trời xanh xưa hẹn ta hề
Trời xanh nay lừa ta hề
Đất trích chiêm bao
Cho ta hát ngao hề

Đá tâm tình với thần ưng và trăn tinh. Đá hát cho thần ưng vỗ cánh. Đá múa cho trăn tinh phun ngọc. Rồi khi cao hứng, đá bèn

Bày ra một cõi chưa từng có hề
Trời xanh ghen hề đất ghen hề

Thần ưng và trăn tinh đã bỏ đi. Đá tiếp tục độc thoại, tra vấn về bản thân, về mặt đất, trăng sao…Đá hát một mình, đá chơi một mình, đá nghe một mình, đá mộng một mình giữa bốn bề hư không lặng ngắt nhưng vẫn còn nặng lòng với nhân gian:

Trời xanh Nam Hải
Khói vi vu
Soi động hư vô
Mờ nhạt một bầu
Lặng ngắt mênh mông
Câu ca câu hát
Nghe ta xoay vòng
Thiên địa về đâu

Đá lắng tiếng ca, bài thơ khép lại

Nằm nghe đá hát vô minh
Thơ thay con mắt ngó rình hóa công
Bóng ai quảy đá qua đồng
Sầu xưa uất nặng giữa lòng nhân gian

Giọng nói, giọng hát u trầm của đá. Giọng của quỉ thi Lý Hạ đấy chăng? Tôi cũng chẳng biết nữa. Chỉ biết đây là một bài thơ kỳ dị, lạ lùng, ý thơ ảo diệu mùi vị Đạo học Đông phương huyền hoặc trong cái ý huyền chi hựu huyền. Thi sĩ ngơ ngác trước thềm sương của vũ trụ, rồi rùng mình hóa thân vào đá, đá hóa thân thành huyết lệ trùng trùng trong tiếng ca xang giữa bóng đời dâu bể. Bài thơ hóa thành mây trắng, bay đi về chốn tuyệt mù. Đọc bài thơ, nghe rờn rợn sống lưng, nghe óc tuôn trào nỗi nhớ không lời, không tên, không tuổi
Tinh Sương, cũng là tinh huyết của thi sĩ

Đại Mộng là tiếng ngân dài của Tinh Sương. Tiếp tục tra vấn, hồi tưởng bằng những ẩn dụ tượng trưng với những bài thất ngôn tứ tuyệt, lục bát bốn câu trầm tĩnh, đĩnh đạt hơn, sâu lắng hơn. Đặc biệt, một bài thơ khá dài, 58 câu, với 3 khổ điệp khúc dặt dìu trong một buổi Sáng Thinh Không

Một con chó con, một vừng trăng sáng
Hai cõi trời im, một vùng biển cạn
Một con đường đèo sương đục lô nhô
Một chiếc hồn ma quẩn quanh vạn cổ


Một con chó con, một vừng trăng sáng
Hai cõi trời im, một vùng biển cạn
Một chiếc hồn đơn mấy bè mây nổi
Hai con ngựa trắng một chiếc xe tang

Một con chó con, một vừng trăng sáng
Hai con ngựa trắng, một chiếc xe tang
Đất lành gió phủ mây trong mát
Vạn cổ nghe chăng, dưới gót nàng

(Sáng Thinh Không

Nàng,” biểu tượng cho cái Đẹp hiu hắt của trần gian? Hay bóng ma thiên cổ thoáng ẩn thoáng hiện , mệnh hệ của kiếp người hư ảo mù tăm? Vết thương tâm đầu đời, vận vào hồn cốt chữ nghĩa, thấm vào mệnh của thi sĩ?

…Sáng thinh không, sáng dưới chân nàng
Trong lòng vạn đại đã tan hoang
U minh rờn rợn lên vai tóc
Bóng tà vạn thuở đã bay ngang
Sáng thinh không, sáng lặng ngát hương
Êm ả trần gian chợ phố phường
Một bàn tay vẫy trên non tuyết
Một tiếng cười vang cả bốn phương

Tôi đọc và nghe khí lạnh toát ra trong từng con chữ! Bài thơ đã vượt lên cái sự hay bình thường. Bài thơ đã đạt đến cái đỉnh lặng và lạnh của khắp cõi nhân gian. Thi ca đã chết trong thời đại cơ khí gầm gào? Tôi cũng chẳng biết nữa! Nhưng khi được đọc những giòng thơ như trên, tận đáy lòng tôi đang dậy lên một niềm bi mẫn khôn cùng.
Cái Đẹp sẽ cứu vãn thế giới. Ai đã nói như thế? Tôi quên mất. Nhưng tôi tin, tin lắm, cho dẫu là niềm tin hình như không có thật giữa thời buổi nhiễu nhương nầy

Ngả Tư Vầng Trăng và những bài thơ khác trong tuyển tập, hương Đời nhiều hơn, thấm đẫm hơn, nhưng chẳng hiểu vì sao, tôi ít xúc động hơn so với Tinh Sương và Đại Mộng, nhất là Tinh Sương
Ta bước lên đường kêu gọi mãi/Nhớ người bạn cũ thuở anh niên
(Xuân Diệu) Ôi cái thuở anh niên đẹp ngất. Ôi cái thuở anh niên một lần rồi thôi, không có chốn quay về. Góc biển xưa, khung trời cũ hanh hao. Qui Nhơn, Qui Nhơn ngập tràn nắng gió, mộng mị của một thời

Trước Sau như Một. Một cái mối Nhất Dĩ Quán của một đời thơ. Thi sĩ, kẻ thọ nhận điêu linh, mỗi người mỗi kiểu, cô liêu cô độc ngút ngàn. Có còn chăng là tiếng đồng vọng của cố nhân bên trời lận đận. Những trận gió bay đi mịt mờ tuổi dại, nhưng vẫn còn đây những giọt nắng của buổi sơ đầu hạnh ngộ.Quỷ ma đưa mãi lời thiên cổ/ Hiu hắt nghìn thu lạnh khí đồng…Tôi chẳng bao giờ dám quên. Vô cùng biết ơn thi sĩ.

Calif, cuối đông 2011
NLV

Thứ Sáu, 24 tháng 2, 2012

MƠ - PHAN LỆ DUNG

Anh chưa về
Mà cứ tưởng như mình mới gặp
rồi đi
Nỗi nhớ leo qua cửa sổ
Bao nhiêu nồng nàn
Bao nhiêu mùi hương đằm thắm
Như còn phảng phất đâu đây
Anh hôn em ngọt ngào
Anh hôn em hân hoan
Ngoài kia trời nhả nắng hanh vàng
Người đi nói to trên phố
Tháng ba gió thổi từ dòng sông lá
Xôn xao trên ngọn cây
Rộn ràng trên tóc
Người đi hát thầm trong nón
Lời ca sâu thẳm giữa mùa
Ngày tràn ngập ban mai
Em tràn ngập anh
Con đường ngược xuôi
rạo rực
Giá như anh về thật.

Thứ Năm, 23 tháng 2, 2012

CAO HUY KHANH - VN HỒ SƠ HẬU CHIẾN 1975 - 2012 (KỲ 103 )


NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ

1031 - Duy Lam
BA LẦN TỪ CHỐI DI TẢN
Nhà văn Việt kiều Mỹ tên thật Nguyễn Kim Tuấn sinh 1932 tại Hà Nội. Sống ở Mỹ (2012).
Cháu ruột cố văn hào Nhất Linh (cậu ruột), anh ruột nhà văn Thế Uyên.
Năm 1954 di cư vào Nam. Được Nhất Linh phát hiện văn tài nên dìu dắt bước vào nghiệp văn bắt đầu viết trên tạp chí Văn hóa Ngày nay do Nhất Linh chủ trương. Dần dần được xem tiêu biểu cho thế hệ kế thừa Tự lực Văn đoàn thời Tiền chiến, đã in một vài tác phẩm truyện ngắn, truyện dài.
Rồi động viên đí lính trường sĩ quan Thủ Đức từ đó gắn liền với binh nghiệp, ít có thì giờ sáng tác. Có quan hệ với Quân Dân Đảng và sau này là Phong trào Quốc gia Cấp tiến đều chống Cộng.
Vào thời cao điểm chiến tranh sau 1970 là trung tá chánh văn phòng cho trung tướng Ngô Quang Trưởng Tư lệnh Quân đoàn 1 đóng ở Đà Nẵng (tướng Trưởng là em rể con cậu, lấy con Thạch Lam là em ruột mẹ mình).
Cuối tháng 3.1975 khi Đà Nẵng thất thủ đã cùng tướng Trưởng rút về Sài Gòn trong tình cảnh hỗn quân hỗn quan chỉ còn biết nằm “chờ thời”.
Đến cận ngày 30.4 đã ba lần được tướng Trưởng và cố vấn Mỹ đề nghị đưa đi di tản nhưng đều từ chối chấp nhận ở lại đi cải tạo!
Bởi tự thấy phải có lòng tự trọng liêm sỉ khi trước đó từng 2 lần ký tên ở lại “quyết tử” (lần đầu tại Đà Năcng, lần sau tại Sài Gòn cùng các thành viên Phong trào Quốc gia Cấp tiến). Do đó tự nguyện ở lại để đồng cam cộng khổ với anh em đồng chí trong phong trào này với thái độ “bình tĩnh và đầy đủ tự tin đón chờ số phận của mình”.
Thêm lý do sâu xa hơn nữa sau này mới thố lộ: “Chính cái con người nhà văn dấn thân trong tôi đã chi phối sự lựa chọn này. Tôi sợ nếu tôi đã ra đi một ngày nào đó lưu vong ở một đất nước xa xôi và xa lạ nào đó tôi sẽ tiếc là không có dịp ở lại để bị tù đày hành hạ vì như vậy tôi sẽ thành một người ngoại cuộc đối với nỗi thống khổ mà dân tộc tôi phải chịu…”
Với niềm tự tin quyết liệt: “Tôi tin dù họ bỏ tù được thân xác tôi họ không có thể tha hóa được tôi, biến đổi tôi thành một bộ máy vô hồn…
Quả thật đi cải tạo 12 năm, đến 1987 mới về. Một thời gian sau đi Mỹ định cư diện H.O.
Bấy giờ mới chấp nhận thân phận lưu đày tha hương, bắt đầu viết trở lại, in truyện ngắn năm 1995-96. Viết hồi ký dài cả ngàn trang chưa xuất bản.
Tập yoga, luyện khí công để tìm cuộc sống tinh thần thanh thản chờ câu trả lời: “Cuối cùng ai sẽ thắng? Điều đó thì phải 50 năm nữa tôi mới có câu trả lời chính xác.”

1032 - Ka Hin
TRỞ THÀNH NGƯỜI DÂN TỘC
Nông dân sinh 1972 tại Long An. Sống ở Lâm Đồng (2008).
Cha tham gia kháng chiến đánh Mỹ thỉnh thoảng mới về nhà, mẹ ở nhà nuôi chị gái và mình tên cũ là Phạm Thị Phụng.
Sau chiến tranh cha trở về nhưng dắt theo thêm… 3 đứa con ngoại hôn nữa (1 trai 2 gái). Vì vậy mẹ ghen tương sinh chuyện lộn xộn trong nhà đưa đến năm 1978 mẹ giận dẫn 2 con gái ruột bỏ nhà lên Tây Ninh sống nhờ nhà bà con.
Đến cuối năm một phần vì buồn phiền mẹ mắc bệnh lao nên phải lên đường đem 2 con định về lại quê cũ với chồng không ngờ trên đường đi phát bệnh nặng phải vào bệnh viện Thủ Đức (TPHCM) cấp cứu. Rồi qua đời tại đây bỏ lại 2 con nhỏ (chị mới 12 tuổi còn mình 7 tuổi) bơ vơ nơi miền đất lạ chỉ biết sống vất va vất vưởng bám vào bệnh viện.
Sau đó 2 chị em mới được đưa vào Trung tâm Thiếu nhi Thủ Đức. Đến năm 1981 bản thân bị đem cho một bà mẹ người dân tộc K’ Ho làm con nuôi tận Bảo Lộc (Lâm Đồng) giấu không cho người chị hay biết. Hai chị em mất tích nhau từ đó.
Phần mình được mẹ nuôi đặt tên lại là Ka Hin thành người dân tộc luôn.
Lớn lên lấy chồng người dân tộc, sinh con gái đầu lòng. Hai vợ chồng trồng cây cà phê làm lụng vất vả vừa nuôi con vừa lo cho mẹ già ốm đau liệt cả 2 chân.
Mãi đến năm 2008 định mệnh xui khiến tình cờ xem chương trình tìm người thân mất tích trên VTV4 (đang xem VTV3 bỗng chuyển sang kênh VTV4) mới nhận ra chị gái từng lạc mình xưa kia xuất hiện nhắn gửi lời tìm em nên… ngất xỉu ngay tại chỗ!
Bấy giờ chị em mới đoàn viên sau 27 năm lưu lạc. Chỉ tiếc không còn gặp được cha vì ông đã qua đời hơn một năm trước rồi.

1033 - Ngô Thế Vinh
NGƯỜI CẢNH BÁO VỀ DÒNG MEKONG
Bác sĩ nhà văn Việt kiều Mỹ sinh 1943 tại VN. Sống ở Mỹ (2012).
Tốt nghiệp bác sĩ từ ĐH Y khoa Sài Gòn rồi bị động viên đi lính làm sĩ quan quân y. Song song đó còn sáng tác, viết truyện ngắn và tiểu thuyết.
Năm 1970 tiểu thuyết “Vòng đai xanh” viết về biến cố Fulro nổi loạn ở Tây Nguyên được trao giải văn học VNCH. Nhưng tiếp sau đó viết một số truyện đăng báo in thành tập “Mặt trận ở Sài Gòn” phản ánh tình hình xã hội miền Nam nóng bỏng, ở nông thôn là chiến tranh còn tại thành thị nổ ra nhiều cuộc biểu tình xuống đường chống chính quyền khiến bị đưa ra tòa khép tội gây hậu quả “có hại cho tinh thần chiến đấu” của binh lính VNCH!
Không biết có phải vì vậy hay không mà năm 1971 chuyển về làm quân y sĩ cho lực lượng Biệt kích Dù 81, một đơn vị đặc nhiệm tinh nhuệ chuyên làm nhiệm vụ bí mật nguy hiểm nhảy dù xuống hậu phương miền Bắc đột kích, lấy thông tin địch.
Tháng 4.75 học xong khóa tu nghiệp ở Mỹ nhiều người khuyên hãy ở lại vì trước sau gì miền Nam cũng mất vào tay cộng sản song vẫn nhất quyết trở về.
Kết quả sau ngày 30.4 đương nhiên đi cải tạo nhưng nhờ miền Nam thời đó rất cần bác sĩ (do đa số đều đã di tản hoặc vượt biên) nên chỉ 3 năm thì được cho về làm việc ở Trung tâm Phục hồi - Vật lý trị liệu TPHCM.
Có “đóng góp” cho chế độ mới nên năm 1983 mới được phép qua Mỹ đoàn tụ với gia đình.
Tại Mỹ trải qua 5 năm học lại nghề y để ra hành nghề bác sĩ.
Bây giờ có điều kiện quay lại hoạt động song song bác sĩ – nhà văn như ngày xưa.
Đặc biệt quan tâm tập trung nghiên cứu vấn đề mới có tính chất thời sự về sông Mekong từ Trung Quốc chảy qua các nước Đông Nam Á đang bị Trung Quốc có tham vọng khống chế dòng chảy bằng cách xây một hệ thống nhà máy thủy điện trên thượng nguồn. Từ đó sẽ gây nguy cơ chặn nguồn nước đe dọa làm khô hạn sinh hoạt đời sống các dân tộc sống ở hạ nguôn trong đó có VN.
Đã lặn lội qua Lào, qua tận Vân Nam lãnh thổ Trung Quốc để tìm hiểu. Sau đó năm 1999 đã đưa ra lời cảnh báo sớm đầu tiên về hiểm họa này trong cuốn tiểu thuyết đồ sộ “Cửu Long cạn dòng, biển Đông dậy sóng” dày đến 700 trang. Rồi năm 2007 tiếp tục nhấn mạnh vấn đề trong cuốn “Mekong dòng sông nghẽn mạch”.
Năm 2006 trở về thăm quê hương, nhân đó có tìm đến tham quan tràm chim Tam Nông ở Đồng Tháp lấy tư liệu viết về thực trạng loài sếu đầu đỏ quý hiếm có thể bỏ đi trước mối đe dọa ô nhiễm hủy diệt môi trường.

1034 - Nguyễn Văn Vinh
BỆNH SUY TỦY SỐNG
Lao động nghèo sinh tại Vĩnh Phúc. Sống ở Vĩnh Phúc (2010).
Bố là bộ đội chiến đấu ở miền Nam về phục viên đến năm 2002 mắc chứng bệnh lạ toàn thân cơ bắp và tay chân cứ teo dần chỉ còn xương bọc da rồi qua đời năm 2003.
Bản thân làm nghề gánh cát dưới bãi sông đi bán nuôi vợ và 2 con cùng mẹ già hơn 70 tuổi. Nào ngờ chỉ một năm sau đến lượt mình cũng bị bệnh tương tự như bố, đi khắp các bệnh viện đều lắc đầu không biết bệnh gì. Mãi sau đến bệnh viện Bạch Mai ở Hà Nội mới chẩn đoán là bệnh suy tủy sống hiếm gặp có lẽ do hậu quả CĐDC thời chiến tranh bố bị lây nhiễm.
Điều trị căn bệnh lạ này đã khó mà tiền bạc gia đình không có nên đành chịu trận uống đại mấy thứ thuốc thày lang rẻ tiền cũng như không!
Vì vậy ban đầu còn đi đứng lắt nhắt được tự lo cho bản thân nhưng qua năm 2006 thì nằm liệt một chỗ không gượng dậy nổi nữa. Mới 37 tuổi mà trông cứ như ông già 60 tuổi!
Từ đó tất cả việc nhà đều đặt gánh nặng lên vai vợ phải bỏ làm công nhân nhà máy da giày để chuyển qua làm công nhân quét rác mong có thì giờ lo việc ruộng đồng phụ thêm để nuôi cả nhà với chồng bệnh, 2 con nhỏ dại và bà mẹ già.
Nhưng một mình người đàn bà làm sao gồng gánh nổi, đến lúc cả 2 vợ chồng phải xót xa thừa nhận rằng “Tôi và nhà tôi gần như bất lực thực sự rồi”…

1035 - Nguyễn Văn Xê
CÁN BỘ CHỊU ÁN OAN NGẬM HỜN NƠI CHÍN SUỐI
Nông dân sinh 1937 tại Bến Tre – Mất 2006 ở Bến Tre (70 tuổi).
Từng bị bắt đi lính VNCH rồi được giác ngộ cách mạng theo chí hướng cha trước kia theo cộng sản nên tình nguyện hoạt động nội tuyến. Năm 1962 ra vùng giải phóng làm phó công an rồi trưởng công an kiêm chủ tịch xã (bí danh Tùng Cương).
Thình lình giữa năm 1974 bị bắt vì tội làm gián điệp cho địch, bị một nữ điệp viên của địch gài vào nội bộ dụ dỗ, hủ hóa! Cùng lúc vợ hoạt động kinh tài cũng bị chính quyền VNCH bắt giữ.
Liên tục kêu oan, nhiều lần đòi tự tử nhưng tiếng kêu không ai nghe thấy, không được đưa ra xét xử, đối chất cho đàng hoàng mà cứ giam mãi.
Sau ngày giải phóng vẫn bị giam giữ, người cha đau buồn tủi hổ quá sinh bệnh mất năm 1976 mà mình không được về thọ tang. Cả người em trai đi bộ đội cũng bị mang vạ lây cho ra quân về bỏ đi xứ khác làm mướn do không chịu nổi dư luận làng xóm phỉ nhổ “gia đình phản bội”.
Đến năm 1977 mới được trả tự do về làm dân mà không hề có bản án xét xử nào.
Tủi nhục quá muốn chết cho xong may mà bên cạnh còn người vợ tuyệt vời hết lòng an ủi, khuyên giải phải sống để tìm cách giải oan, nếu không chết rồi phải chịu tiếng oan muôn đời: “Con đường mình đi lỡ có oan khiên phải tìm cách mà gỡ. Đảng không có lỗi, cách mạng cũng không có lỗi, chiến tranh là phải mất mát. Nó rơi vô chỗ mình thì mình gánh chịu thôi…”
Nhờ đó mà gượng sống lây lất trong cảnh bần cùng vợ con nheo nhóc khốn khổ.
Đến năm 2006 được một đồng chí cũ nay lên chức trưởng ban tổ chức tỉnh ủy cảm thương mới vận động tiến hành lật lại hồ sơ vụ án. Nhưng chưa kịp làm gì thì mình đã bị tai nạn qua đời với nỗi oan khiên chưa được giải tỏa!
Tuy nhiên cái chết oan khuất đó cũng đánh động lương tâm đồng đội cùng một thời chiến đấu vào sinh ra tử nay kẻ còn thì phải lo cho người mất buộc phải tiếp tục tiến hành cuộc điều tra cho rõ đâu là sự thật. Kết quả cho thấy đúng là đồng chí mình đã chịu án oan từ âm mưu của nữ điệp viên kia (cô này sau đó đã bị xử tử) cộng với sự hiềm kích mâu thuẫn giữa đương sự với vị bí thư xã lúc đó.
Từ đó án oan được xóa bỏ, trả lại danh dự cho gia đình, chỉ tiếc người được minh oan mãi mãi không biết được điều đó.

1036 - Nguyễn Xuân Bảo
MỤC SƯ “KHÔNG NGỦ YÊN”
Mục sư đạo Tin Lành Việt kiều Mỹ sinh tại VN. Sống ở Mỹ (2012).
Năm 1977 vượt biên qua Mỹ, học tiếp lấy bằng tiến sĩ.
Năm 1989 quay về VN với ý định tham gia công tác từ thiện giúp đỡ đồng bào nghèo, bệnh tật ở quê nhà. Nhưng được một thời gian đến năm 1993 bị chính quyền nghi kỵ ra lệnh trục xuất cấm trở về.
Đến năm 2000 mới được cho phép về nước lại để hoạt động từ thiện. Từ đó đã lập tổ chức Thánh đường Sài Gòn đặt tại California nhằm vận động Việt kiều đóng góp công của mang về VN cứu trợ đồng bào gặp nạn bão lụt, bệnh nhân phong, thương phế binh chế độ cũ….
Dù đang mắc bệnh nan y vẫn nhiều lần về nước tổ chức nhiều chuyến đi đưa hàng cứu trợ đồng bào không phân biệt tôn giáo khắp các tỉnh thành.
Việc làm đó đã bị các nhóm chống Cộng hải ngoại quá khích phản đối kịch liệt, bôi nhọ vu khống, thậm chí còn đốt cháy nhà thờ của ông ở Quận Cam trong dịp lễ Giáng sinh 2004.
Dù vậy vẫn kiên trì mục tiêu cao thượng của mình: “Ngày nào mà dân mình còn nghèo không có cơm ăn không có mái ấm để ở thì ngày ấy tôi không ngủ yên… Tôi không muốn chết trong nhà hay trong nhà thờ. Tôi muốn chết khi đang đi phát gạo cho dân nghèo.”

1037 - Nguyễn Xuân Hưng
TỪ NGUỒN CẢM HỨNG RỪNG TRƯỜNG SƠN
Doanh nhân sinh 1942 tại Hà Nam. Sống ở Hà Nam (2007).
Năm 1964 dù đã có vợ 2 con vẫn nhập ngũ lên đường vượt Trường Sơn vào Nam chiến đấu. Con đường Trường Sơn thật đúng là con đường gian khổ nhưng qua đó lại đem đến cho người lính này một tình yêu hoa phong lan đằm thắm khó quên.
Năm 1968 trong cuộc chiến đẫm máu chiếm giữ Huế gần một tháng đã bị thương phải cưa mất bàn chân trái rồi chuyển về Hà Nam an dưỡng. Sau đó xuất ngũ năm 1971 ra làm kế toán công ty ở Hà Nam Ninh.
Năm 1989 về hưu nhưng trong thời buổi bao cấp đời sống quá khó khăn đồng lương hưu không nuôi nổi vợ và 5 con dù đã cố xoay xở mở một quán nhỏ bán hàng lặt vặt. Vì thế nặn óc suy nghĩ tính kế tìm thêm cách kiếm sống thêm.
Từ đó bỗng nhiên lóe lên hình ảnh kỷ niệm những giò phong lan rực rỡ trên dặm đường Trường Sơn ngày nào. Thế là với một bàn chân giả đi khập khễnh vẫn chống gậy lên đường quay về lại đường Trường Sơn năm xưa tìm mang về một số giò phong lan đẹp quý hiếm với ý định thử nuôi trồng làm cây cảnh đạp xe thồ đi bán dạo.
May mà lúc đó đây là thú chơi khá lạ nên cũng có người mua. Rồi được nhiều người ủng hộ, khuyến khích và gợi ý thêm, còn học hỏi phát triển ra làm thêm các loại cây cảnh tương tự và bonsai kèm hòn non bộ.
Để có đá và cây cảnh đẹp, lại tập tễnh đi đến các vùng rừng núi khác ở Hòa Bình, Thanh Hóa, Hoàng Liên Sơn chọn lựa vật liệu ưng ý về chế tác. Bao nhiêu ký ức về một thời từng trải rừng núi Trường Sơn hoang dã được gọi về làm niềm cảm hứng phong phú giúp sáng tạo nên những hòn non bộ và cây cảnh đặc sắc, độc đáo rất có hồn.
Nhờ đó nghề chế tác và kinh doanh mới mẻ này ngày càng thu hút khách mua khắp nơi, tiến lên thành lập 4 cơ sở có vốn đầu tư trên 10 tỉ đồng, từ năm 1999 còn xuất khẩu ra các nước ngoài nữa. Với gần 400 công nhân làm việc trong đó ưu tiên con em đồng đội cũ, gia đình thương binh liệt sĩ…
1038 - Nguyễn Xuân Phong
NHÂN VẬT “HÒA ĐÀM”
Trí thức Việt kiều Mỹ sinh tại VN. Sống ở Mỹ (2012).
Học ở Pháp và Anh (tốt nghiệp ĐH Oxford) năm 1960 về miền Nam làm doanh nhân ở Sài Gòn. Đến 1965 bắt đầu tham chính giữ nhiều chưc vụ cao trong chính phủ Nguyễn Văn Thiệu, làm Tổng trưởng Xã hội – Chiêu hồi rồi Bộ trưởng Ngoại giao.
Năm 1973 được cử làm Trưởng phái đoàn VNCH tại hòa đàm Paris qua đó làm quen với Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch kiêm Phó đoàn miền Bắc cùng dự hội nghị Paris. Cả 2 gặp gỡ nhau cùng ý hướng muốn vãn hồi hòa bình cho VN vì “cuối cùng hận thù và đắng cay không bao giờ sinh ra điều gì tốt đẹp thật sự.”
Cuối tháng 4.1975 quyết định rời Pháp khi cuộc hòa đàm đã tạm ngưng do quân cộng sản đang thắng thế trên chiến trường chuẩn bị tiếng vào Sài Gòn để về nước bất chấp mọi lời khuyên can đừng về sẽ bị cộng sản bắt giam. Những vẫn về vì không muốn bỏ rơi cha mẹ, vợ con đồng thời thâm tâm vẫn mong mỏi thấy hòa bình trở lại trên quê hương.
Hậu quả là chỉ 5 ngày sau quân cộng sản giải phóng Sài Gòn, bắt đi cải tạo 5 năm ở miền Bắc.
Năm 1980 được trả tự do về Sài Gòn đi dạy tiếng Anh độ nhật. Bình thản chấp nhận thực tế phải thế để sống nhẹ nhàng với niềm tin đạo Thiên Chúa vững chắc.
Có dịp gặp lại “đối tác” Nguyễn Cơ Thạch nay đã là bộ trưởng ngoại giao, vẫn được trân trọng và đã có góp ý chế độ cộng sản nên đổi mới kinh tế cũng như khôi phục quan hệ bình thường với Mỹ.
Mãi đến năm 2000 mới được cho phép qua Mỹ định cư.
Năm 2001 xuất bản hồi ký “Hope and Vanquished Reality” (“Hy vọng và thực tế tan biến”) ở Mỹ. Cộng tác với Trung tâm Nghiên cứu VN tại đây.

1039 - Nguyễn Xuân Phượng
ĐÁNH PHÁP NHƯNG ĐƯỢC PHÁP GẮN BẮC ĐẨU BỘI TINH
Cán bộ về hưu sinh 1929 tại Huế. Sống ở TPHCM (2011).
Là nữ sinh trường Đồng Khánh đã tham gia chống Pháp ở Huế rồi ra Khu IV gia nhập đoàn kịch cách mạng. Sau đó được đưa lên Việt Bắc tham gia công tác chế tạo vũ khí đánh Pháp.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ được giao nhiệm vụ thông dịch viên tiếng Pháp tiếp các đoàn nước bạn qua thăm, tham quan, làm phim về cuộc chiến Việt – Pháp kể cả một số đạo diễn Pháp.
Chiến tranh chống Mỹ bùng nổ, tiếp tục hướng dẫn các đoàn bạn đi thực tế chiến trường đánh Mỹ vừa kiêm luôn phóng viên chiến trường trong đó không ít lần thoát chết dưới làn bom đạn Mỹ.
Khi đất nước đã hòa bình thống nhất lại chuyển qua làm đạo diễn phim tài liệu từ đề tài về nạn diệt chủng Pol Pot ở Campuchia đến cuộc đời và sự nghiệp nhà bác học Pháp Yersin ở Khánh Hòa.
Năm 1989 về hưu đã 60 tuổi mà vẫn còn tràn trề sức sống hăm hở muốn hoạt động tiếp tục nữa. Nhưng bây giờ một lần nữa muốn chuyển qua một lĩnh vực và môi trường khác nên tự vay tiền bạn bè để mua vé qua Pháp tìm hướng làm việc.
Nhờ từng là thông dịch tiếng Pháp và quen biết nhiều bạn Pháp nên nhanh chóng được nhận vào làm khâu chuyển ngữ cho hãng phim Pháp, đặc biệt làm quen tạo được mối thân tình với giới họa sĩ Pháp. Từ đó học thêm nghề về hội họa.
Năm 1990 quay về TPHCM mở phòng tranh Lotus (Bông sen) triển lãm tranh ảnh của các nghệ sĩ VN. Đồng thời thông qua mối quan hệ rộng rãi với bạn bè quốc tế đã đứng ra làm nhịp cầu đưa các tác phẩm đó ra giới thiệu ở nước ngoài, hơn cả chục nước từ Pháp, Mỹ, Anh, Đức, Ý, Hà Lan, Phần Lan, Thụy Sĩ, Hong Kong, Malaysia…
Bên cạnh đó còn tham gia làm phim, dịch sách Pháp – Việt lẫn Việt – Pháp, tổ chức hội thảo, gặp gỡ hai giới họa sĩ Việt – Pháp nhằm phát triển mối giao lưu văn hóa, lịch sử giữa hai nước.
Từ đó gần cuối năm 2011 Chính phủ Pháp đã tổ chức lễ trao tặng cho bà Huân chương Bắc đẩu Bội tinh cao quý ghi nhận những cống hiến đó.
Đã 83 tuổi nhưng người phụ nữ đa năng xông xáo như một lão tướng này vẫn còn làm việc 12 giờ mỗi ngày cả ở trong nước lẫn ra nước ngoài vì “Ai cũng chỉ có sống có một lần thôi. Làm sao để hơn 80 năm cuộc đời mà không phải hối tiếc chuyện gì.”

1040 - Nguyễn Xuân Quang
TÌNH YÊU TÁO BẠO
Thương binh sinh 1941 tại Phú Yên. Sống ở Phú Yên (2007).
Năm 1969 đi du kích xã bị trúng mảnh đạn cối vào thái dương làm mất 2 mắt.
Được đưa ra Bắc chữa trị nhưng mảnh đạn nằm trong đầu không gắp ra được nên gặp trái gió trở trời thường xuyên làm nhức đầu như búa bổ.
Sau chiến tranh được đưa về lại quê nhà vào trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh.
Tại đây gặp một nữ điều dưỡng góa chồng (2 con) nhỏ hơn 18 tuổi sinh lòng yêu thương mới quyết tâm tỏ tình muốn lấy làm vợ, hoàn toàn không một chút mặc cảm thương binh nặng bất chấp lời khuyên can của mọi người chuyện bản thân mình đui mù, bệnh tật lại đã lớn tuổi mà vợ tuổi nhỏ như con mình. Mặc kệ, đây là mối tình đầu tiên cũng là cuối cùng phải lấy thôi: “Yêu nhau thì sợ gì?”
Thế là hôn lễ vẫn cử hành năm 1998 với chú rể 57 tuổi cô dâu 39 tuổi. Và một năm sau đã có được bé gái con đầu lòng như ai!
(Còn tiếp)

Thứ Tư, 22 tháng 2, 2012

LA ĐÀ CÀNH XUÂN - HOA THI

mười hai tuổi, dậy núm cau
chợt như ghiền bệnh chải đầu soi gương
thèm đi khống khứ ngoài đường
hàng cây, cỏ dại bình thường, lạ ra

một đôi khi hoảng, như là
đụng nhằm phải những bóng ma vô hình
mười lăm tuổi, bước rung rinh
lụa thơm gói trái đào tinh khiết hồng

hai bàn chân bớt lông bông
đẩy cho đầu óc khi không phiêu bồng
giọt mưa chợt rớt trong lòng
ngọn nắng chợt ghé chở hồn đâu đâu

mười bảy “bẻ gãy sừng trâu”
bờ hoa cỏ ướt bên đầu gối mơ
soi mình trong mỗi sợi thơ
đời cho lòng nhận, lòng cho ai chờ ?

hạt tình gieo giữa hư vô
nở ra triệu nụ vu vơ nhớ, buồn
hai mươi tuổi, ngát tình hương...
chừ ba mươi, vượt bình thường hơi xa

nhánh xuân óng ánh mượt mà
nguồn thơm vẫn ở chánh tòa phát hương
em không kiểu cách, dị thường
em là người đẹp biết buồn biết vui

xuân xanh lững thững theo đời
tình em ở lại với người yêu thơ

Thứ Ba, 21 tháng 2, 2012

TÂM SỰ CỦA MỘT NGƯỜI - PHAN LỆ DUNG

Tiếng ru tôi đầu tiên
Là tiếng ê a của những học trò áo rách
còn dính đầy bùn đất.
Tiếng hát của cha không vào nhịp
Lũ học trò hì hục hòa âm
Tiếng cối xay của mẹ ngày ngày
Tiếng lúa chảy xuống sàn nhà nửa đêm
Xoáy vào tim tôi sâu thẳm
Sâu tận đáy lòng.

Ngày tháng trôi
Tôi lớn lên trong căn nhà lạ
Ở đó không có đàn gà bươi trong đụn rơm rả mục
Không có củ khoai củ sắn cây cà cây ớt
Không có tàu lá chuối non
Không có cái lu lặng im đứng ở góc nhà
Không có con chó con mèo đuổi nhau đụng bàn đụng ghế
Không có cái liềm cái hái sớm mai lũ lượt ra đồng
ngày mùa háo hức.

Đêm
Tôi nhớ cái nhà nhỏ có bụi tre vàng
Nhớ giọt mưa mắc trên ngọn lá cỏ mực
Nhớ con búp bê gãy tay
nằm lăn lóc giữa nhà
Nhớ con chuồn chuồn đậu trên nhánh nè
ngoài vườn buổi sáng
Nhớ cọng rơm khô rơi vãi giữa đường
Nhớ chiếc chiếu rách phơi ngoài hàng rào
buổi trưa trời nắng
Nhớ mẹ
Nhớ cha.

Rồi ngày tháng cứ trôi
Tóc tôi điểm bạc
Nỗi nhớ tôi thành sẹo
Mang theo
ký ức buồn
Tiếng súng lẻn vào ngõ xóm
Đêm
Tiếng rên của mẹ
tiếng lạnh buốt
một bàn tay
ẵm tôi.

Thứ Hai, 20 tháng 2, 2012

GIỌT TÌNH SỦI TĂM - ĐỨC PHỔ



Bước ra buổi sớm mù sương
Không em phố bỗng dị thường nụ mơ.
Đầu năm tình lặng như tờ
Quán cà phê ngó khách hờ hững qua.

Phủi lòng rớt hột phù sa
Cảm quan phiến diện người xa lạ người.
Trắng đêm vui hớp suối mời
Đã trong tình tự đọng lời dối gian!

Tỏ bày! Ngôn ngữ bất kham
Giọt tình vắt kiệt hồn xuân cạn mùa.
Trời buồn chẳng khóc. Mà mưa
Bao người phúc hạnh chỉ chừa một ta!

Giăng tình gặp buổi can qua
Bủa nhằm ma nữ phù hoa nẻo tình.
Biết yêu đương chỉ nhục hình
Còn gieo nhung nhớ giữa vành oan khiên!

Đầu năm sầu quậy tâm điên
Sủi tăm đầu lưỡi giọt phiền khốn khuây.
Nuốt tình cùng ngụm đắng cay
Cố cà phê sớm cõng ngày phiêu linh…


ĐỨC PHỔ

Thứ Bảy, 18 tháng 2, 2012

CHẮP TAY DÒNG ĐỜI (KỲ 3) - VÕ CHÂN CỬU


Trăng tháng Giêng
(Tản mạn)
“Hãy khoác cho thi sĩ một vòng hoa và mời hắn ra khỏi thành phố ” ! Câu nói của triết gia Platon từ khoảng 350 năm trước công nguyên đến nay như vẫn còn thấy đúng. Làm sao cho thi sĩ không còn gặp cảnh này ?

Hàng năm, cứ ăn Tết xong, chúng tôi lại hẹn nhau gặp mặt nhân ngày giỗ Vũ Hữu Định (VHĐ). Từ đêm 16 âm lịch, tháng Giêng 1981, đến nay đã vào năm cách biệt thứ 32.



Vào cuối 1980, tôi ngầm tính toán các điều kiện để vào năm mới cho vợ con về lại Sài Gòn sinh sống. Bỗng nhiên Định cùng một người bạn là Cao Trần từ Đà Nẵng vào có mặt ở Quy Nhơn, mục đích chính là để thăm tôi. Lúc này vừa bị nhà máy điện Đà Nẵng thanh lọc ra khỏi tầng lớp “giai cấp công nhân”, và cũng là lần đầu tiên sau 1975 anh tung cánh giang hồ trở lại.

Nhà thơ “ngoại lệ”

Trong số những người làm thơ nổi bật ở Sài Gòn giai đoạn 1968-1975 thì VHĐ là một ngoại lệ. Cao trào văn nghệ-triết học và tác động chiến tranh lúc này khiến nhiều nhà thơ mới xuất hiện đều có dáng vẻ “nặng phần trình diễn” cả trong ngôn từ thơ ca lẫn cách ăn mặc, xuất hiện ở các quán cà phê. Người thì ‘bất cần đời” qua bộ treilli nhuốm màu bụi đỏ, bông mai xộc xệch; người kính cận dày trệ sống mũi, hoặc choàng bộ áo cà sa, tay ôm những chồng sách nặng. Có người đưa cả những dòng triết học tiếng Pháp, tiếng Đức để thơ mình có dáng vẻ hiện đại. Vũ Hữu Định thì không như vậy. Vừa lên tới căn gác trọ của chúng tôi, anh đã cởi áo sơ mi ra, chiếc bụng tròn trần trùng trục. Trải chiếc, lăn một giấc, ngáy khò xong là anh ngồi dậy dựa tường, lấy giấy kê lên đùi. Dòng thơ tuôn chảy.

Lớn hơn tôi cả 10 tuổi nhưng anh vẫn nhất định cùng tôi gọi nhau là mi, tau, không kiểu cách. Dạo ấy trên căn gác gỗ đường hẻm Nguyễn Huỳnh Đức-Phú Nhuận, tôi ở trọ chung cùng Lê Phiên Vươn, Nam Chữ, Nguyễn Lương Vỵ. Mỗi người một góc, một bàn học, một va-ly riêng. Mỗi người đều tôn trọng nhau, dành sự yên lặng để bạn mình làm việc, học hành. Và ai cũng thích Định vì anh xởi lởi, nói huỵch toẹt mọi vấn đề. Chúng tôi hiếu khách nên nhiều lớp làm văn nghệ ở xa về Sài Gòn lại tìm đến đây ngủ nhờ. Đủ mọi thành phần cùng dịp gặp nhau, như Nguyễn Nguyên Phương từ Trường chiến tranh chính trị Đà Lạt xuống, Nguyễn Mạnh Dạn từ chi khu Trị Tâm Tây Ninh về, hoặc Nguyễn Miên Thảo ngấm ngầm hoạt động “bí mật” khi làm nhật báo…nhưng không ai đụng nhau.

Sự có mặt của Định làm phá tan những định kiến về người làm văn nghệ. Anh học hành không đến nơi đến chốn, từng làm đủ thứ nghề: bán báo, đánh giày, lính đào ngũ, quẳng áo xây dựng nông thôn…nhưng chữ nghĩa viết ra câu nào ra câu đó, thơ thì bài nào cũng tràn đầy cảm xúc, từ tình yêu đến men rượu giang hồ. Cứ dăm ba ngày, kiếm đâu ra được ít tiền thì anh lại bảo: để tao đi chơi một chuyến. Hết Cần Thơ đến Sa Đéc, Long Xuyên. Khi tôi dọn đi ở riêng ở quận 1 rồi quận 3, anh lại theo tôi. Một bữa tối, khi cả 2 đều hết tiền ăn, Định chợt ngĩ ra, bảo tôi: mi chở tau xuống Đêm Màu Hồng, đứng ngoài đường chờ. Kỳ này nhất định lấy được tiền. Té ra anh xăm xăm vào để gặp nhà nhạc sĩ nổi tiếng đã phổ bài “Còn chút gì để nhớ”, nói thật rằng mình mới đào ngũ về. Và anh đã lấy lấy được tiền “tác quyền” lời thơ.

Lăn lóc dòng đời nên Định đã chơi thân với ai thì rất thương bạn, sẵn sàng làm bất cứ điều gì để bạn vui, khỏi âu lo. Đến Quy Nhơn, Định và Cao Trần suốt ngày đi uống rượu, hết dọc bờ biển lại vào quán cóc ven sườn núi. Giới văn nghệ cũ ở Quy Nhơn lúc này ngoài tôi, còn Đặng Tấn Tới ở Thị trấn Bình Định. Riêng một nhà thơ “tranh đấu” gốc Huế và vài cây bút văn xuôi “30-4” thì được chính quyền chiếu cố, đưa vào biên chế sáng tác cùng các nhà thơ “cách mạng chính thống” được trại viết Quân khu 5 phân công về. Biết tính “dĩ hòa” của tôi, sau ngày đầu rong chơi, Định đến gõ cửa Tạp chí Văn nghệ tỉnh gửi ngay bài thơ có xu hướng ca ngợi cảnh đẹp quê hương mà anh đã làm ở Đà Nẵng sau khi được dự các buổi “nâng cao tư tưởng”. Bài thơ tựa đề “Mùa lúa mượt” mở đầu với 2 câu: Sương chiều thổi xuống ruộng non, Gió hấp tấp theo mây luồn qua núi.., nhưng sau đó thì hình ảnh gượng gạo…Rõ ràng là dù sử dụng ngôn từ, gieo vần nhuần nhuyễn nhưng sáng tác không thực sự từ cảm hứng thì sẽ vô hồn. Loại thơ “vô thưởng vô phạt” này chỉ nhằm để khỏi bị bắt bẻ là không hào hứng với cuộc sống mới nên không sáng tác !

Gửi thơ xong, Định và Cao Trần tiếp tục đi ra phố kêu rượu, chờ tôi. Sau 3 ngày rong chơi, tôi tiễn cả hai lên chiếc xe đò có động cơ chạy bằng than về lại Đà Nẵng. Sau những ngày tết Tân Dậu (1981), tôi nhận được bức thư tay có bài thơ “chào năm 41 tuổi” do Định chép gửi từ Đà Nẵng vào. Bài thơ có nội dung “tổng kết đời minh”. Ai ngờ đó là những câu linh cảm. Sau một cuộc rượu say túy lúy cùng các bạn văn nghệ, Định đưa đưa về ngủ ở nhà người em ruột là Lê Quang Tấn ở bên kia cầu sông Hàn (quận 3) cho mát. Nhà Tấn mới xây, anh ra nằm ngoài tấm Veranda cho mát. Nhưng tấm bao lơn này chưa có lan can. Nửa đêm trăng sáng, anh đứng dậy bước ra, như để đi về nhà. Tính Định vẫn vậy, dù nhậu say, ngủ vùi, nhưng khi tỉnh dậy, việc đầu tiên là anh đi về ngay nơi ở thân thuộc nhất. Khi ở Sai Gòn là về nhà trọ có tôi.

Vòng hoa xứng đáng



Mỗi lần em sinh nở

Là anh lại vắng nhà

Mai này em nằm ổ

Anh lại trên đường xa…

“Bài thơ cho vợ” mà Định làm trên “căn gác nhỏ dưới tàn cây vú sữa/Mùa lá khô lật saấp những trang đời”(VCHC) như thế. Tôi viết những dòng này mà lòng ô vàn cảm ơn chị Vân, người vợ hiền hậu của Định. Nếu không có chị chăm lo “Năm đứa con như năm hạt ngọc” thì có lẽ những dòng thơ đắm say của anh không thể tuôn trào: Đời để lại cho anh ngoài ô cửa sỏ/ Một hình mây, bóng núi, tin sông... Năm 2006, nhà phê bình Đặng Tiến đã ghi nhận rất chính xác: “Thơ VHĐ là điển hình cho thơ trữ tình hiện đại. Nó không gai góc thách thức; ngược lại nó kết thêm đằm thắm, quen thuộc. Lay đọc người đọc bằng tình cảm trong sáng và thiết tha, bằng nét tài hoa vô tội”.

Những người phụ nữ tuyệt vời, là vợ các nhà thơ như chị Vân ngoài sự chiều ông chồng làm thơ, còn có sự cảm thông sâu sắc với những thi sĩ là bạn hữu thân thiết của chồng mình. Ông Bùi Bảy, người thay mặt tộc họ Bùi chăm lo phần mộ và giỗ chạp thi sĩ Bùi Giáng vẫn công bố với mọi người: sau năm 1975, tai Saigon có 5 người vợ các nhà thơ bày tỏ sự quý trọng đối với Bùi thi sĩ bằng cách: đưa anh ra tắm dội, tự tay mình giặt gỵa bộ quần áo hôi hám rồi lấy đồ mới cho mặc. Đó là các bà: Đông Phương Huệ, vợ Lê Nhược Thủy, Ngọc Phượng-vợ Nguyễn Lương Vỵ, Phương Bình-vợ Trần Từ Duy (Đông Ki Rét), Hoàng thị Hiệp-vợ anh Phạm Trung Cang (em ruột thi sĩ Phạm Công Thiện) và bà Hữu Hạnh, vợ Võ Chân Cửu. 4 chị đầu tiên đều lần lượt ra định cư ở nước ngoài. Giữa thập kỷ 90, căn nhà của vợ chồng tôi ở sau lưng chùa Già Lam là nơi lui tới hàng ngày của Bùi Thi sĩ. Nơi ở chính của anh cách đó chỉ vài trăm mét. Và thi sĩ Bùi Giáng mỗi khi được ai tặng món tiền nhỏ nào cũng đem tới đưa cho bà vợ VCHC cất để khi cần thì tới lấy một ít đi uống rượu ! Anh còn viết cả mấy dòng trên giấy để nói rõ về sự cấtư4 này !

Một bữa tháng giêng 1995 có một người nói giọng Hà Nội mò vào hẻm 482 Lê Quang Định hỏi tìm nhà tôi. Anh ta gặp ngay người đàn ông áo quần xốc xếch nằm ở ngã ba đường hẻm, đứng lại tò mò. Bà bán tạp hóa-cóc ổi và rượu nhạt ven hè nói: Ông thầy đây là “thầy” của “ông thầy” mà anh muốn tìm, nhà ở trong kia ! Người khách lạ không hiểu gì hết !

Thì ra người đàn ông tên Cảm, ngoài 30 tuổi này được thi sĩ Nguyễn Đức Sơn từ Bảo Lộc giới thiệu xuống. Anh cho biết anh đã từng viết văn, làm thơ, và là chồng của một nhà văn nữ thời danh ở Hà Nội. Hai người kết hôn khi còn là sinh viên, nhưng phải ly dỵ nhau sau khi cô nổi tiếng. Buồn đời, nghe qua tin đồn, anh mò vào Bảo Lộc để học theo cách sống của thi sĩ NĐS: tự trồng trỉa, hái lượm. Sau một năm, anh phải ra đi.

Về Saigon, lại gặp một trời thơ như hình ảnh Bùi Giáng, anh bạn người Hà Nội từng muốn thành nhào7 càng tá hỏa về cách sống của các văn nghệ sĩ Sài gòn. Vợ tôi giải thích rằng vợ chồng tôi kính trọng và quý anh Giáng như ông anh. Mỗi người thích sống kiểu nào mặc kệ họ. Còn như anh, có nhà ở Hà Nội thì nên về Hà Nội, khi nào cưới được cô vợ người Miền Nam thì hãy vào. Vì trên đời, tất cả thơ ca, nghệ thuật đề không thể tồn tại khi không có bàn tay người phụ nữ.


Nghe lời, Cảm tiếp tục tên đường tìm kiếm. Cuối cùng, anh đã gặp được một cô gái trẻ Phú Yên cảm thông. Một bữa nọ, anh quay lại Sàigòn, nói: em hiểu ra rồi !

Vợ chồng tôi liền nhận lời thay mặt họ nhà trai đi cưới vợ cho anh. Vợ tôi trao cho người từng muốn thành thi sĩ một vòng hoa trong ngày cưới.


Thứ Sáu, 17 tháng 2, 2012

GIÊNG HAI - NGUYỄN MIÊN THẢO

Chừ anh đã có Giêng Hai
Em đem đến một sớm mai diệu kỳ
Anh trao em nụ thầm thì
Em trao anh nụ thầm thì ngày xưa
Yêu em biết mấy cho vừa
Yêu em biết mấy cho vừa , người ơi
Hàm Luông đã nổi sóng rồi
Mùa Xuân chào đón Hai Người :
Tình Nhân

NMT
BT,16.02.2012

Thứ Năm, 16 tháng 2, 2012

CAO HUY KHANH - VN HỒ SƠ HẬU CHIẾN 1975 -2012 (KỲ 102 )

NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ
1021 - Bùi Xuân Bào
ĐỌC THUỘC THÁNH KINH TRONG TRẠI CẢI TẠO
Giáo sư đại học sinh 1916 tại Huế – Mất 1991 ở Pháp (76 tuổi).
Học trung học trường Quốc Học ở Huế (mẹ dòng hoàng tộc). Rồi đi du học Pháp tốt nghiệp tiến sĩ văn chương Pháp, được xem là người VN viết văn Pháp hay nhất.

Về nước dạy đại học môn Pháp văn, từng 2 lần làm khoa trưởng ĐH Sư phạm Sài Gòn và ĐH Văn khoa Sài Gòn, có viết một số bài báo nghiên cứu văn học phương Tây.

Đã 2 lần làm Thứ trưởng Bộ Văn hóa – Giáo dục tuy không quan tâm gì nhiều đến chính trị (được mời tham gia chính phủ vì có uy tín khoa bảng lớn trong nước).

Lần thứ hai nhận chức thứ trưởng được vài ngày trong chính phủ cuối cùng của VNCH thì giải phóng 1975. Vì vậy phải đi cải tạo ba năm (có 2 em ruột dạy học và sĩ quan VNCH đều chết trong chiến tranh).

Là anh cả trong gia đình nề nếp Nho giáo song chịu ảnh hưởng Công giáo từ nhỏ do đi dạy trường Công giáo ở Huế và lại có một người em ruột theo đạo Công giáo nhưng bản thân mình vẫn chưa chịu cải đạo. Đến năm 1947 khi người em trai đang làm hiệu trưởng một trường Công giáo ở Quảng Bình bị cộng sản bắt giam rồi thủ tiêu, quá thương nhớ em nên mới quyết định theo đạo từ đó để được “gần em và gặp em” trong cùng chung một niềm tin cứu rỗi, để “tiếp tục giương cao ngọn đuốc đức tin mà hình như em đã trao lại cho con”.

Ngoài ra còn một em gái cũng đi tu sau này nổi tiếng là Mẹ Mai Thành dòng Đức Bà (Couvent des Oiseaux) ở TPHCM hiện nay.

Vì thế trong trại cải tạo đã nghiền ngẫm đọc đi đọc lại trọn bộ cuốn Thánh kinh (giấu mang theo vào trại) hơn 30 lần để thấu suốt ý nghĩa giúp giữ vững đức tin trong bất cứ hoàn cảnh đày đọa gian khổ nào.

Có lẽ cũng nhờ đó mà năm 1978 ra trại được cho đi dạy tiếg Pháp ở ĐH Tổng hợp TPHCM vẫn giữ được cách sống hiền hòa thanh thản, chỉ biết tận tâm dạy học chứ không hề có chút gì thở than oán hận nhân sinh thế sự.

Năm 1982 mắc bệnh tim nặng nên được cho đi Pháp giải phẫu rồi ở lại luôn. Đến 1991 qua đời được kể lại là “trong cảnh cô đơn”.

Có điều trùng hợp lạ lùng là linh mục Pháp cử hành thánh lễ an táng trên đất Pháp cũng chính ông đã làm lễ rửa tội cho tín đồ này năm 1947 ở Huế.

1022 - Đinh Văn Đệ
VIỆT CỘNG NẰM VÙNG TRỞ THÀNH TRƯỞNG LÃO CAO ĐÀI
Chức sắc đạo Cao Đài sinh 1923 tại Tây Ninh. Sống ở Tây Ninh (2012).
Năm 1951 từ Tây Ninh lên Sài Gòn dạy học, sau đó bị bắt đi lính Pháp.

Sau 1954 gia nhập quân đội VNCH lên tới hàm trung tá rồi chuyển qua làm thị trưởng Đà Lạt kiêm tỉnh trưởng Tuyên Đức (Lâm Đồng ngày nay), tỉnh trưởng Bình Thuận.

Từ quân sự, hành chính nhảy qua làm chính trị ứng cử vào Hạ viện thời Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đắc cử giữ chức Phó Chủ tịch Hạ viện, Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng từng qua Mỹ làm việc với Tổng thống Mỹ G. Ford.

Đùng một cái sau 30.4.75 mới lộ diện là “nội gián” cộng sản (có 2 em ruột tập kết miền Bắc, một người em khác và một chú ruột hoạt động miền Nam)!

Do gốc đạo Cao Đài nên được phân công phụ trách lĩnh vực tôn giáo này. Trở thành một trưởng lão đạo Cao Đài pháp danh Thiên Vương Tinh. Về hưu viết sách “Nói chuyện Cao Đài” năm 2007.
1023 - Nguyễn Thị Dần
NỮ ANH HÙNG BẮN MÁY BAY MỸ VỀ NUÔI LỢN
Nông dân sinh 1950 tại Nghệ An. Sống ở Nghệ An (2011).
Năm 1967 mới 17 tuổi đã tình nguyện vào đội dân quân trực chiến phòng không bảo vệ bầu trời TP Vinh chống máy bay Mỹ đánh bom.

Trở thành xạ thủ số 1 nhận nhiệm vụ bắn khẩu 12 ly 7.

Tháng 4.1968 bị sức ép bom máy bay Mỹ thả xuống làm ngất xỉu trên trận địa. Nhưng vẫn kiên cường bám trụ đến tháng 7 bắn rơi một máy bay F4 của Mỹ. Là dân quân nữ xạ thủ súng phòng không hiếm hoi làm nên kỳ tích này nên được cho đi tham quan Liên Xô và trở thành niềm cảm hứng cho nhạc sĩ Nguyên Nhung làm ca khúc “Cô dân quân làng Đỏ”.

Sau chiến tranh trong 10 năm lần lượt làm cán bộ xã rồi chủ tịch xã. Năm 1967 được đưa đi học nghiệp vụ thì ở nhà chồng chết tai nạn để lại 4 con thơ. Học xong về lại không được bố trí công tác với lý do “không đáp ứng yêu cầu”.

Làm đơn kiện lên cấp trên nêu thành tích bắn rơi máy bay Mỹ thì bị cật vấn “bằng chứng đâu”?!

Đành chấp nhận về nhà nuôi lợn nuôi gà lo cho bầy con. Năm 1971 biết tin mình được tặng Huân chương Chiến công song cũng bị địa phương “ém” không trao. Thậm chí nửa chừng còn bị cắt mất suất trợ cấp thương binh 29% mà không nêu lý do gì hết!

1024 - Nguyễn Thị Sâm
“ĐỜI CÁT”
Nông dân sinh tại Quảng Bình. Sống ở Quảng Bình (2007).
Nguyên thành viên đội nữ pháo thủ Ngư Thủy nổi tiếng thời chống Mỹ, đội nữ pháo binh duy nhất miền Bắc thời đó. Lập nhiều chiến công nên từng được cử đi học khóa ngắn hạn tại trường sĩ quan pháo binh Sơn Tây năm 1972.

Sau ngày hòa bình, đội nữ pháo binh hoàn thành nhiệm vụ nên giải thể năm 1977.

Trở về làm thường dân không được hưởng chế độ trợ cấp nào trong khi trình độ học vấn không có, không nghề nghiệp chuyên môn nên chỉ còn biết bán mặt bán lưng cho trời trên đồng ruộng cày sâu cuốc bẫm kiếm miếng ăn thời hậu chiến quá khó quá khổ. Trong gần 90 đồng đội ngày nào nay chỉ còn khoảng 10 chị em tương đối sống được chủ yếu dựa vào chồng.

Còn mình lớn tuổi quá thì nên không chồng con lại mắc bệnh bại liệt toàn thân không tiền đi bệnh viện đành nằm chờ chết trong căn lều rách nát. Chỉ còn biết than thân trách phận: “Nghèo chi mà nghèo rứa. Đêm nằm cát vẫn còn theo lên giường”!

Giống như một nữ nhân vật cụt cả 2 chân nạn nhân chiến tranh ở Quảng Trị “thèm” một đứa con để nương tựa tuổi già trong bộ phim “Đời cát” đoạt giải lớn năm 1999 (đạo diễn Nguyễn Thanh Vân). Quảng Trị cũng là xứ cát, còn nhà văn Nguyễn Quang Lập viết kịch bản chính gốc dân Quảng Bình.
1025 - Nguyễn Văn Sửu
HY SINH 41 NĂM CHƯA CÔNG NHẬN LIỆT SĨ
Bộ đội sinh 1950 tại Thái Bình – Mất 1968 ở Thừa Thiên – Huế (19 tuổi).
Là con út trong gia đình 7 anh chị em, lên 10 tuổi thì cha mẹ đều qua đời. Đến năm 1967 gia nhập bộ đội lên đường vào Nam chiến đấu.

Chỉ một năm sau gia đình nhận được tin báo tử từ đơn vị cho biết đã hy sinh, mai táng ở tỉnh Thừa Thiên lúc đó. Xã đã tổ chức lễ truy điệu đàng hoàng và năm 1985 Nhà nước đã truy tặng Huân chương Kháng chiến hạng 3.

Nhưng có điều lạ là từ đó kéo dài hơn 40 năm tử sĩ này vẫn chưa được các cơ quan chức năng chính thức công nhận là liệt sĩ nên không được hưởng chế độ trợ cấp cho thân nhân.

Hai thế hệ thân nhân đã thay phiên nhau làm đơn khiếu nại đi khắp nơi đều không được giải quyết, trả lại đơn hoặc đùn đẩy qua cho cơ quan khác, từ địa phương đến Quân khu 3, Bộ Quốc phòng, Bộ Lao động – Thương binh – Xã hội…

Dần dần mới truy tìm ra lý do là giấy báo tử của đơn vị khi đó chỉ gửi thẳng về cho gia đình và chính quyền xã mà “quên” gửi cùng lúc cho chính quyền huyện và tỉnh nên tên anh không có trong danh sách lưu trữ của cơ quan cấp trên có thẩm quyền chứng thực liệt sĩ!

Biết là biết vậy nhưng đến năm 2009 liệt sĩ này vẫn chưa có tên “Tổ quốc ghi công” xứng đáng.

1026 - Nguyễn Văn Thọ
NHÀ VĂN HẢI NGOẠI KIỂU KHÁC
Nhà văn sinh tại Hà Nội. Sống ở Đức (2012).
Từng là bộ đội trên chiến trường miền Nam trực tiếp tham gia chiến dịch giải phóng Sài Gòn.

Sau ngày hòa bình, xuất ngũ trở về Hà Nội làm công nhân, lấy vợ sinh con.

Vợ con đùm đìa, làm công nhân lương chết đói trong thời hậu chiến bao cấp không sống nổi nên đành chấp nhận xa gia đình đi xuất khẩu lao động qua Đông Đức.

Qua Đức tưởng có cơ hội “đổi đời” thì thực tế không đơn giản, vẫn phải làm lụng đầu tắt mặt tối mới dành dụm được chút ít gửi về nuôi vợ con.

Chẳng được bao lâu lại lâm vào tình thế bi đát khi bức tường Bá Linh sụp đổ, Đông Đức tan rã sáp nhập vào Tây Đức khiến bản thân để còn tồn tại phải đi làm công nhân vệ sinh… chùi nhà cầu! Trong lúc đó ở quê nhà cũng xảy ra những sự cố đau lòng làm tan nát gia đình, mất mát người thân, con cái mỗi đứa một nơi…

Bao nhiêu cảnh đời trớ trêu như thế cùng lúc đổ ập vào đẩy bản thân tới chỗ khủng hoảng sinh ra mặc cảm dồn nén, từ đó mới tự tìm cách giải tỏa bằng… viết văn từ năm 1979. Viết về những hoài niệm thời chiến tranh xen kẽ tâm sự dân Việt tha hương lắm nỗi buồn đau hờn tủi rút ra từ gan ruột hơn 20 năm lưu lạc trên đất Đức.

Thành quả là 3 tập truyện ngắn, 2 tập tùy bút và tạp văn, một cuốn tiểu thuyết thấm đẫm một phong cách thể hiện chất bi tráng dữ dội – kết tinh từ kinh nghiệm lăn lóc chiến trường - kể cả trong khung cảnh thời bình ở nước ngoài. Tất cả đều viết từ Đức đưa về in ở VN rồi lại được đích thân tác giả mang qua Đức đi… bán dạo! Có tác phẩm đã đoạt giả văn học trong nước.

Cũng từ đó trở thành một nhà văn hải ngoại thế hệ cũ hiếm hoi xuất phát từ phía bên này chiến tuyến khác hẳn đa số nhà văn hải ngoại từ miền Nam di tản và vượt biên qua Mỹ.

1027 Nguyễn Văn Tịnh
RA ĐI VÀ TRỞ VỀ VÌ MỘT LỜI THỀ
Nông dân sinh 1977 tại Quảng Trị. Sống ở Quảng Trị (2006).
Sinh ra từ vùng đất lửa tiền tuyến trong tranh (huyện Cam Lộ, Quảng Trị) trung bình cứ 2 gia đình có một đứa trẻ bị nhiễm CĐDC.

Gia đình mình có 4 anh em thì một đã mất sớm, 2 mắc chứng tâm thần cả ngày chỉ biết gào rú la hét. Chỉ riêng mình khá may mắn tạm xem bình thường chỉ có mái tóc chưa đến tuổi 19 đã bạc trắng hết!

Nhưng thời đó trong thôn xóm chưa ai nghe nói đến CĐDC là gì nên cứ đổ cho gia đình mình tội “làm chuyện thất đức” nên nay con cái mới ra nông nỗi này!

Không chịu nổi “tiếng ác” mà người ta vu cho, năm 1997 mới quyết tâm tìm đường đến xứ khác – Gia Lai - làm ăn cho đến ngày nào khấm khá rồi mới trở về để chứng minh cho mọi người thấy sự bất hạnh của gia đình không phải do “ác quả ác báo”.

Trên quê hương mới Tây Nguyên chí thú làm ăn lao động cực lực dần dà tự lực cánh sinh vươn lên trong cuộc sống. Rồi gặp và kết hôn với một cô gái đồng hương cũng lên đây lập nghiệp.

Khi sinh con đầu lòng năm 1999 lòng không khỏi lo âu sợ con cũng lãnh di chứng CĐDC như mình, may mà không sao con vẫn lớn lên lành mạnh. Đến đứa con trai thứ hai sinh năm 2003 cũng vậy.

Mừng rỡ không xiết chắc rằng đã xóa bỏ, đã vượt qua được “lời nguyền CĐDC” bấy giờ mới dám đưa vợ con về quê thăm cha mẹ. Thấy cảnh cha mẹ già còn phải chăm lo cho 2 đứa con điên khùng. Xót xa quá nên thuyết phục vợ đưa cả gia đình nhỏ của mình hồi cư – với chút ít gia sản dành dùm được – để sớm hôm thăm nom cha mẹ báo hiếu và giúp nuôi 2 đứa em bệnh tật.

Đồng thời cũng là cách thể hiện, giữ đúng lời thề năm xưa khi ra đi rằng sẽ trở về đàng hoàng chứng tỏ cho làng xóm biết rằng tai uơng của gia đình mình là từ hậu qủa chiến tranh chứ chẳng phải là bị trời hành trời phạt. Bằng chứng là bản thân mình vẫn sống và làm việc gây dựng cơ đồ từ 2 bàn tay trắng như ai. Bởi vậy mới đặt tên cho 2 con trai là Tây và Định nói lái là… “Tịnh đây!”

1028 - Nguyễn Văn Trại
CHẤP NHẬN CHẾT TRONG TÙ
Tù chính trị sinh 1937 tại VN – Mất 2011 ở Đồng Nai (74 tuổi).
Tham gia hoạt động chống chính quyền Cộng sản ở miền Nam sau 1975 nên bị bắt năm 1996 ra tòa lãnh án 15 năm tù giam ở Đồng Nai.

Năm 2010 phát hiện bị ung thư gan nhưng vẫn không được cứu xét cho giảm án (cộng thêm lớn tuổi) vì không đáp ứng 2 điều kiện là phải “nhận tội” và viết đơn xin ân xá.

Qua năm 2011 bệnh phát nặng nên được đưa ra bệnh viện Biên Hòa chữa trị cũng vô phương cứu vãn. Đành chuyển lại về trại thì qua đời trong khi chỉ còn 5 tháng nữa là mãn án.

Gia đình xin đem xác về nhà không được chấp thuận vì người chết vẫn còn trong thời gian thụ án!

1029 - Nguyễn Văn Tuấn
BAN NGÀY LÀM VIỆC CHO ÚC, BAN ĐÊM LÀM VIỆC CHO VN
Giáo sư đại học Việt kiều Uc sinh tại Rạch Giá. Sống ở Úc (2012).
Cha gốc Bình Định từng là vệ quốc quân chống Pháp đi Nam tiến chống Pháp rồi định cư luôn ở Kiên Giang. Lớn lên được cha mẹ cho lên Sài Gòn học.

Sau biến cố 30.4.75 theo xu hướng thiên tả cấp tiến nên có thời gian ngắn làm việc cho cơ quan chế độ mới nhưng sau đó sớm “vỡ mộng” khi ở dưới quê gia đình bị liệt vào hàng địa chủ bị tịch thu đất đai ruộng nương. Thấy khó sống nổi nên năm 1981 vượt biên qua Thái Lan rồi được Úc cho nhập cư năm 1982. Trước đó 2 năm người anh cả cũng vượt biên bị mất tích.

Trên xứ người vừa làm phụ bếp vừa học đại học y, tốt nghiệp tiến sĩ y khoa ngành dịch tễ học và  được mời dạy đại học. Bên cạnh đó mở rộng nghiên cứu qua nhiều lĩnh vực khác nữa trong đó có CĐDC Mỹ rải xuống VN thời chiến tranh.

Năm 1997 lần đầu tiên quay về quê hương thăm cha mẹ anh em. Qua đó tận mắt chứng kiến đất nước đang trên đường đổi mới cởi mở nên từ đó khi trở lại Úc đã liên tục có nhiều hoạt động giúp đỡ VN rất nhiệt tình trên lĩnh vực y học, giáo dục, khoa học qua nhiều bài viết đăng báo, in sách ở VN, tham gia hội nghị, hội thảo quốc tế tại VN hoặc về đề tài VN…

Năm 2004 đã in cuốn sách nghiên cứu khoa học đầu tiên về CĐDC in ở VN, Mỹ, Pháp...

Xem tất cả việc làm đó đơn giản như một nghĩa vụ của nhà khoa học trong tư cách một người con của quê hương – dù vượt biên! - không thể chối bỏ được: “Làm khoa học thì không có bên này hay bên kia, chỉ có sự thật mà thôi… Nhưng nói rằng làm việc cho phía VN thì có làm vì đó là quê hương tôi. Tôi rất quan tâm đến quê nhà như con thương cha mẹ mình một cách tự nhiên và đơn giản như hít thở khí trời vậy thôi… Cứ như thế, ban ngày làm việc cho Úc và thế giới, ban đêm làm việc cho VN…”

1030 Nguyễn Văn Tùng
“DŨNG SĨ DIỆT MỸ” CHỊU ÁN OAN 24 NĂM
Nông dân sinh 1942 tại Bến Tre. Sống ở Bến Tre (2009).
Đang là anh hùng “Dũng sỹ diệt Mỹ” sau 14 năm đi theo cộng sản làm xã đội trưởng kiêm bí thư đoàn ở quê hương Bến Tre thì đùng một cái một đêm cuối năm 1974 bị đồng chí mình bắt giam vì tội làm gián điệp cho địch. Vợ ở vùng tạm chiếm buôn bán lẻ nuôi 5 con cũng bị bắt luôn đưa vào vùng giải phóng điều tra.

Nỗi oan chất ngất khiến từng có lần đang đêm tìm cách trốn ra ngoài tìm đến nhà lãnh đạo cấp trên trần tình vẫn không kết quả mà còn bị bắt lại giải vào nhà giam tiếp tục.

Sau ngày giải phóng vẫn y án dù không hề được đưa ra xét xử.

Đến năm 1977 mới được phóng thích sau 4 năm 4 tháng bị giam giữ không lý do rõ ràng do di lý lên cấp tỉnh thấy không có hồ sơ, chứng cứ vụ án cụ thể.

Nhưng về nhà thì vợ đã bỏ đi rồi, đất đai cũng bị tịch thu hết nên 6 cha con đành kiếm một mảnh đất hoang trên bãi bồi bên bờ sông dựng lều nương thân làm nghề chăn vịt sống tạm bợ qua ngày.

May sao trong cảnh cùng khốn đó năm 1978 gặp được ân nhân là một phụ nữ đơn thân đã có một con vốn là chị của một bạn tù cũ đem lòng thương cảm chịu chắp nối lại 2 mảnh đời dang dở. Rồi cũng nhờ người vợ sau này khuyến khích, tìm đường kêu oan lên cấp trên trong đó có cả vị nguyên bí thư tỉnh.

Từ đó vụ án oan được lật lại hồ sơ mới tìm ra nguyên nhân sâu xa là do một số lãnh đạo xã hồi đó có tư thù với vợ cũ mình mới dựng chuyện lên như vậy! Mà thời chiến trong bối cảnh nội bộ chống địch trà trộn nên đề cao cảnh giác cao độ cộng thêm công tác an ninh điều tra quá đơn giản sơ sài đã dễ dàng vu oan giá họa cho người vô tội kể cả đồng chí trung kiên.

Cuối năm 1998 nhận được quyết định giải oan cùng niềm an ủi cuối đời có thêm được 2 đứa con nữa từ người vợ sau đã cứu vớt đời mình.

(Còn tiếp)