Thứ Bảy, 18 tháng 2, 2012

CHẮP TAY DÒNG ĐỜI (KỲ 3) - VÕ CHÂN CỬU


Trăng tháng Giêng
(Tản mạn)
“Hãy khoác cho thi sĩ một vòng hoa và mời hắn ra khỏi thành phố ” ! Câu nói của triết gia Platon từ khoảng 350 năm trước công nguyên đến nay như vẫn còn thấy đúng. Làm sao cho thi sĩ không còn gặp cảnh này ?

Hàng năm, cứ ăn Tết xong, chúng tôi lại hẹn nhau gặp mặt nhân ngày giỗ Vũ Hữu Định (VHĐ). Từ đêm 16 âm lịch, tháng Giêng 1981, đến nay đã vào năm cách biệt thứ 32.



Vào cuối 1980, tôi ngầm tính toán các điều kiện để vào năm mới cho vợ con về lại Sài Gòn sinh sống. Bỗng nhiên Định cùng một người bạn là Cao Trần từ Đà Nẵng vào có mặt ở Quy Nhơn, mục đích chính là để thăm tôi. Lúc này vừa bị nhà máy điện Đà Nẵng thanh lọc ra khỏi tầng lớp “giai cấp công nhân”, và cũng là lần đầu tiên sau 1975 anh tung cánh giang hồ trở lại.

Nhà thơ “ngoại lệ”

Trong số những người làm thơ nổi bật ở Sài Gòn giai đoạn 1968-1975 thì VHĐ là một ngoại lệ. Cao trào văn nghệ-triết học và tác động chiến tranh lúc này khiến nhiều nhà thơ mới xuất hiện đều có dáng vẻ “nặng phần trình diễn” cả trong ngôn từ thơ ca lẫn cách ăn mặc, xuất hiện ở các quán cà phê. Người thì ‘bất cần đời” qua bộ treilli nhuốm màu bụi đỏ, bông mai xộc xệch; người kính cận dày trệ sống mũi, hoặc choàng bộ áo cà sa, tay ôm những chồng sách nặng. Có người đưa cả những dòng triết học tiếng Pháp, tiếng Đức để thơ mình có dáng vẻ hiện đại. Vũ Hữu Định thì không như vậy. Vừa lên tới căn gác trọ của chúng tôi, anh đã cởi áo sơ mi ra, chiếc bụng tròn trần trùng trục. Trải chiếc, lăn một giấc, ngáy khò xong là anh ngồi dậy dựa tường, lấy giấy kê lên đùi. Dòng thơ tuôn chảy.

Lớn hơn tôi cả 10 tuổi nhưng anh vẫn nhất định cùng tôi gọi nhau là mi, tau, không kiểu cách. Dạo ấy trên căn gác gỗ đường hẻm Nguyễn Huỳnh Đức-Phú Nhuận, tôi ở trọ chung cùng Lê Phiên Vươn, Nam Chữ, Nguyễn Lương Vỵ. Mỗi người một góc, một bàn học, một va-ly riêng. Mỗi người đều tôn trọng nhau, dành sự yên lặng để bạn mình làm việc, học hành. Và ai cũng thích Định vì anh xởi lởi, nói huỵch toẹt mọi vấn đề. Chúng tôi hiếu khách nên nhiều lớp làm văn nghệ ở xa về Sài Gòn lại tìm đến đây ngủ nhờ. Đủ mọi thành phần cùng dịp gặp nhau, như Nguyễn Nguyên Phương từ Trường chiến tranh chính trị Đà Lạt xuống, Nguyễn Mạnh Dạn từ chi khu Trị Tâm Tây Ninh về, hoặc Nguyễn Miên Thảo ngấm ngầm hoạt động “bí mật” khi làm nhật báo…nhưng không ai đụng nhau.

Sự có mặt của Định làm phá tan những định kiến về người làm văn nghệ. Anh học hành không đến nơi đến chốn, từng làm đủ thứ nghề: bán báo, đánh giày, lính đào ngũ, quẳng áo xây dựng nông thôn…nhưng chữ nghĩa viết ra câu nào ra câu đó, thơ thì bài nào cũng tràn đầy cảm xúc, từ tình yêu đến men rượu giang hồ. Cứ dăm ba ngày, kiếm đâu ra được ít tiền thì anh lại bảo: để tao đi chơi một chuyến. Hết Cần Thơ đến Sa Đéc, Long Xuyên. Khi tôi dọn đi ở riêng ở quận 1 rồi quận 3, anh lại theo tôi. Một bữa tối, khi cả 2 đều hết tiền ăn, Định chợt ngĩ ra, bảo tôi: mi chở tau xuống Đêm Màu Hồng, đứng ngoài đường chờ. Kỳ này nhất định lấy được tiền. Té ra anh xăm xăm vào để gặp nhà nhạc sĩ nổi tiếng đã phổ bài “Còn chút gì để nhớ”, nói thật rằng mình mới đào ngũ về. Và anh đã lấy lấy được tiền “tác quyền” lời thơ.

Lăn lóc dòng đời nên Định đã chơi thân với ai thì rất thương bạn, sẵn sàng làm bất cứ điều gì để bạn vui, khỏi âu lo. Đến Quy Nhơn, Định và Cao Trần suốt ngày đi uống rượu, hết dọc bờ biển lại vào quán cóc ven sườn núi. Giới văn nghệ cũ ở Quy Nhơn lúc này ngoài tôi, còn Đặng Tấn Tới ở Thị trấn Bình Định. Riêng một nhà thơ “tranh đấu” gốc Huế và vài cây bút văn xuôi “30-4” thì được chính quyền chiếu cố, đưa vào biên chế sáng tác cùng các nhà thơ “cách mạng chính thống” được trại viết Quân khu 5 phân công về. Biết tính “dĩ hòa” của tôi, sau ngày đầu rong chơi, Định đến gõ cửa Tạp chí Văn nghệ tỉnh gửi ngay bài thơ có xu hướng ca ngợi cảnh đẹp quê hương mà anh đã làm ở Đà Nẵng sau khi được dự các buổi “nâng cao tư tưởng”. Bài thơ tựa đề “Mùa lúa mượt” mở đầu với 2 câu: Sương chiều thổi xuống ruộng non, Gió hấp tấp theo mây luồn qua núi.., nhưng sau đó thì hình ảnh gượng gạo…Rõ ràng là dù sử dụng ngôn từ, gieo vần nhuần nhuyễn nhưng sáng tác không thực sự từ cảm hứng thì sẽ vô hồn. Loại thơ “vô thưởng vô phạt” này chỉ nhằm để khỏi bị bắt bẻ là không hào hứng với cuộc sống mới nên không sáng tác !

Gửi thơ xong, Định và Cao Trần tiếp tục đi ra phố kêu rượu, chờ tôi. Sau 3 ngày rong chơi, tôi tiễn cả hai lên chiếc xe đò có động cơ chạy bằng than về lại Đà Nẵng. Sau những ngày tết Tân Dậu (1981), tôi nhận được bức thư tay có bài thơ “chào năm 41 tuổi” do Định chép gửi từ Đà Nẵng vào. Bài thơ có nội dung “tổng kết đời minh”. Ai ngờ đó là những câu linh cảm. Sau một cuộc rượu say túy lúy cùng các bạn văn nghệ, Định đưa đưa về ngủ ở nhà người em ruột là Lê Quang Tấn ở bên kia cầu sông Hàn (quận 3) cho mát. Nhà Tấn mới xây, anh ra nằm ngoài tấm Veranda cho mát. Nhưng tấm bao lơn này chưa có lan can. Nửa đêm trăng sáng, anh đứng dậy bước ra, như để đi về nhà. Tính Định vẫn vậy, dù nhậu say, ngủ vùi, nhưng khi tỉnh dậy, việc đầu tiên là anh đi về ngay nơi ở thân thuộc nhất. Khi ở Sai Gòn là về nhà trọ có tôi.

Vòng hoa xứng đáng



Mỗi lần em sinh nở

Là anh lại vắng nhà

Mai này em nằm ổ

Anh lại trên đường xa…

“Bài thơ cho vợ” mà Định làm trên “căn gác nhỏ dưới tàn cây vú sữa/Mùa lá khô lật saấp những trang đời”(VCHC) như thế. Tôi viết những dòng này mà lòng ô vàn cảm ơn chị Vân, người vợ hiền hậu của Định. Nếu không có chị chăm lo “Năm đứa con như năm hạt ngọc” thì có lẽ những dòng thơ đắm say của anh không thể tuôn trào: Đời để lại cho anh ngoài ô cửa sỏ/ Một hình mây, bóng núi, tin sông... Năm 2006, nhà phê bình Đặng Tiến đã ghi nhận rất chính xác: “Thơ VHĐ là điển hình cho thơ trữ tình hiện đại. Nó không gai góc thách thức; ngược lại nó kết thêm đằm thắm, quen thuộc. Lay đọc người đọc bằng tình cảm trong sáng và thiết tha, bằng nét tài hoa vô tội”.

Những người phụ nữ tuyệt vời, là vợ các nhà thơ như chị Vân ngoài sự chiều ông chồng làm thơ, còn có sự cảm thông sâu sắc với những thi sĩ là bạn hữu thân thiết của chồng mình. Ông Bùi Bảy, người thay mặt tộc họ Bùi chăm lo phần mộ và giỗ chạp thi sĩ Bùi Giáng vẫn công bố với mọi người: sau năm 1975, tai Saigon có 5 người vợ các nhà thơ bày tỏ sự quý trọng đối với Bùi thi sĩ bằng cách: đưa anh ra tắm dội, tự tay mình giặt gỵa bộ quần áo hôi hám rồi lấy đồ mới cho mặc. Đó là các bà: Đông Phương Huệ, vợ Lê Nhược Thủy, Ngọc Phượng-vợ Nguyễn Lương Vỵ, Phương Bình-vợ Trần Từ Duy (Đông Ki Rét), Hoàng thị Hiệp-vợ anh Phạm Trung Cang (em ruột thi sĩ Phạm Công Thiện) và bà Hữu Hạnh, vợ Võ Chân Cửu. 4 chị đầu tiên đều lần lượt ra định cư ở nước ngoài. Giữa thập kỷ 90, căn nhà của vợ chồng tôi ở sau lưng chùa Già Lam là nơi lui tới hàng ngày của Bùi Thi sĩ. Nơi ở chính của anh cách đó chỉ vài trăm mét. Và thi sĩ Bùi Giáng mỗi khi được ai tặng món tiền nhỏ nào cũng đem tới đưa cho bà vợ VCHC cất để khi cần thì tới lấy một ít đi uống rượu ! Anh còn viết cả mấy dòng trên giấy để nói rõ về sự cấtư4 này !

Một bữa tháng giêng 1995 có một người nói giọng Hà Nội mò vào hẻm 482 Lê Quang Định hỏi tìm nhà tôi. Anh ta gặp ngay người đàn ông áo quần xốc xếch nằm ở ngã ba đường hẻm, đứng lại tò mò. Bà bán tạp hóa-cóc ổi và rượu nhạt ven hè nói: Ông thầy đây là “thầy” của “ông thầy” mà anh muốn tìm, nhà ở trong kia ! Người khách lạ không hiểu gì hết !

Thì ra người đàn ông tên Cảm, ngoài 30 tuổi này được thi sĩ Nguyễn Đức Sơn từ Bảo Lộc giới thiệu xuống. Anh cho biết anh đã từng viết văn, làm thơ, và là chồng của một nhà văn nữ thời danh ở Hà Nội. Hai người kết hôn khi còn là sinh viên, nhưng phải ly dỵ nhau sau khi cô nổi tiếng. Buồn đời, nghe qua tin đồn, anh mò vào Bảo Lộc để học theo cách sống của thi sĩ NĐS: tự trồng trỉa, hái lượm. Sau một năm, anh phải ra đi.

Về Saigon, lại gặp một trời thơ như hình ảnh Bùi Giáng, anh bạn người Hà Nội từng muốn thành nhào7 càng tá hỏa về cách sống của các văn nghệ sĩ Sài gòn. Vợ tôi giải thích rằng vợ chồng tôi kính trọng và quý anh Giáng như ông anh. Mỗi người thích sống kiểu nào mặc kệ họ. Còn như anh, có nhà ở Hà Nội thì nên về Hà Nội, khi nào cưới được cô vợ người Miền Nam thì hãy vào. Vì trên đời, tất cả thơ ca, nghệ thuật đề không thể tồn tại khi không có bàn tay người phụ nữ.


Nghe lời, Cảm tiếp tục tên đường tìm kiếm. Cuối cùng, anh đã gặp được một cô gái trẻ Phú Yên cảm thông. Một bữa nọ, anh quay lại Sàigòn, nói: em hiểu ra rồi !

Vợ chồng tôi liền nhận lời thay mặt họ nhà trai đi cưới vợ cho anh. Vợ tôi trao cho người từng muốn thành thi sĩ một vòng hoa trong ngày cưới.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét