Thứ Năm, 2 tháng 2, 2012

CAO HUY KHANH - VN HỒ SƠ HẬU CHIẾN 1975 - 2011(KỲ 100B)

NHỮNG SỐ PHẬN KỲ LẠ

1001 - Lê Văn Tính
TÙ CHÍNH TRỊ LỚN TUỔI NHẤT
Tù nhân sinh 1939 tại VN.Bị giam ở Đồng Nai (2012).
Trước 1975 là dân biểu chế độ cũ.
Sau 1975 đi cải tạo 10 năm
Ra trại lại tiếp tục tham gia các tổ chức chống Cộng. Khi bị phát hiện bèn bỏ trốn định theo đường bộ vượt biên qua Thái Lan nhưng đuợc nửa đường thì bị bắt ra tòa lãnh án 20 năm tù.
Đến hết năm2011 vẫn còn nằm tù ở Đồng Nai dù tuổi cao đã 73 tuổi mắc nhiều chứng bệnh người già.

1002 - Nguyễn Thị Bích
CƯỚI VỢ CHO CHỒNG
Nông dân sinh 1946 tại Hà Nội. Sống ở Hà Nội (2008).
Năm 1968 lấy chồng là bộ đội lái xe đường Trường Sơn
Qua những lần chồng về phép đã mang thai sinh con gái đầu lòng năm 1969 nhưng con mắc bệnh trí óc chậm phát triển, khờ khạo vụng dại như con nít không lớn nổi. Năm 1974 sinh con thứ hai thì chết ngay sau khi lọt lòng mẹ.
Sau chiếntranh, chồng thương binh ra quân trở về quê làm ruộng. Hai vợ chồng sinh thêm một trai một gái nữa năm 1975 và 1983 và cả 2 cũng vẫn mắc bệnh trầm kha nhưcon gái đầu. Sau này mới biết ấy là hậu quả của CĐDC mà chồng đã mắc phải thờichiến tranh lái xe chuyển quân trên đường Trường Sơn.
Bản thân không dám sinh thêm nữa trong khi chồng vẫn ao ước muốn có một đứa con trai lành lặn để nối dõi. Thương chồng nên năm 1986 mới tự mình đi tìm… cưới vợ lẻ cho chồng là một phụ nữ lỡ thời ở làng bên.
Từ đó sống cảnh một chồng 2 vợ 2 nhà nhưng vẫn cố gìn giữ không khí hòa thuận đôi bên. May sao người vợ sau sinh được một trai 2 gái đều khỏe mạnh bình thường.
Bấy giờ ngườichồng có thể mãn nguyện yên tâm ra đi, tiếp theo là cô con gái đầu tiên cũngmất năm 2003.
Bấy giờ 2 ngườivợ còn lại phải tìm đến sống chung một nhà để nương tựa tuổi già cùng lo cho 5 con.Bản thân mắc bệnh gai cột sống còng lưng gập cả người vẫn phải lụm cụm đi chămsóc miếng cơm giấc ngủ cho 2 đứa con bệnh tật đã hơn 30 tuổi mà vẫn ngơ ngơngác ngác trước cánh cửa cuộc đời khép kín.

1003 - Nguyễn Thị Hồng
CÔ NHI VIỆN CÔNG GIÁO NUÔI CON CỘNG SẢN
Lao động sinh 1963 tại Quảng Nam.Sống ở Đà Nẵng (2007).
Cha là du kích chống Mỹ ở huyện Tiên Phước, năm 1972 cho vợ đưa con gái đầu lòng bị bệnh ra bệnh viện ở Tam Kỳ chữa trị.
Nhưng khi con lành bệnh cũng là lúc nhận được tin chồng đã hy sinh nên 2 mẹ con lâm vào cảnh tứ cố vô thân không tiền bạc mà cũng không ai giúp đỡ nên bồng con đến cho cônhi viện Thánh Tâm Sao Biển của các xơ Công giáo ở Đà Nẵng. Đồng thời mẹ cũng xin ở lại đây làm người phục vụ vừa để có dịp gần gũi con mình.
Năm 1974 đếnlượt mẹ mắc bệnh qua đời, thế là bản thân thành trẻ mồ côi tiếp tục được cô nhi viện nuôi dưỡng.
Sau hòa bình,năm 1976 được một gia đình ở Đồng Nai nhận về làm con nuôi. Nhưng thực chất là giống như mướn người làm không công, bắt làm lụng vất vả và còn thường xuyên đánh đập nữa.
Vì thế một thời gian sau chịu đựng không nổi bèn bỏ trốn tìm đường quay về lại mái ấm cô nhi viện ngày xưa, được các xơ giang rộng vòng tay ấp ủ yêu thương.
Tới tuổi trưởng thành mới chia tay cô nhi viện ra ngoài lấy chồng. Dần dần cuộc sống ổn định sinh được 4 con trai học hành đàng hoàng.
Được như vậy nhờ công nuôi dưỡng của cô nhi viện không bao giờ dám quên, không biết cách nào trả ơn cho đủ thì tự nhiên người con trai đầu sau khi tốt nghiệp đại học tin học đã tình nguyện vào chủng viện đi tu. Như định mệnh đã sắp xếp cho một sự đền đáp ơn trên đã cứu vớt cuộc
đời mẹ mình.

1004 - Nguyễn Tuấn Nam
TÙ CHÍNH TRỊ “ĐẶC BIỆT”
Tù nhân sinh 1935 tại VN.Bị giam ở Đồng Nai (2012).
Nguyên là sĩ quan bộ đội năm 1975 từ Bắc vào tiếp quản miền Nam mới giải phóng, sau đó tiếp tục được điều qua mặt trận Campuchia.
Nhưng trên đấtCampuchia lại nảy sinh ý đồ “ly khai” bằng cách bắt liên lạc với một số tổ chứcchống Cộng tại đây. Aâm mưu bại lộ nên bị bắt ở biên giới Campuchia – Thái Lan rồi di lý về VN năm 1996 ra tòa chịu án 19 năm tù.
Có lẽ là tùchính trị lớn tuổi nhất (77 tuổi) song đây là một tù chính trị khác thường,không phải là “tù nhân lương tâm” thường thuộc người của chế độ cũ chống Cộng sau 75 mà là từ phía Cộng sản (có bí danh Bảo Giang đàng hoàng) nhảy qua chốngđối thành tù “chiêu hồi” giống như cán binh Việt Cộng bỏ ngũ ra hàng chế độ VNCH thời trước!
Còn đến 3 năm mới mãn hạn tù trong khi đã 2 lần bị tai biến khiến nay không đi đứng được nữa.

1005 - Nguyễn Văn Chiến
KIỆN TƯỚNG BÓNG BÀNKHUYẾT TẬT QUỐC TẾ
Thương binh sinh 1948 tại Quảng Nam.Sống ở Đà Nẵng (2007).
Gia đình cộngsản nhà nòi với cả cha và 5 anh em đều là liệt sĩ thời đánh Mỹ nên năm 16 tuổiđã thoát ly đi làm giao liên. Năm 1966 vào bộ đội chiến đấu trên mặt trận Quảng Đà.
Giữa năm 1967được tin cha hy sinh thì chỉ mấy tháng sau đến lượt mình bị thương nặng chấn thương cột sống lẫn sọ não và gãy đùi trái được chuyển ra Bắc chữa trị.
Sau thời gian dài năm viện được cho về an dưỡng thương binh ở miền Bắc. Dù đi đứng phải chống nạng song không muốn bỏ phí tuổi trẻ vẫn còn khát vọng vươn lên đóng góp với đời nên xin đi học ĐH Y Hà Nội.
Năm 1982 tốtnghiệp bác sĩ tình nguyện tha thiết xin về lại Đà Nẵng phục vụ đồng bào quê hương. Trở thành một bác sĩ chống nạng vẫn rất tận tâm cứu người tuy đôi khi bản thân mình cũng phải… nhập viện cấp cứu do vết thương cũ tái phát nguy hiểm.
Năm 1992 về hưu vẫn không chịu nghỉ ngơi mà tiếp tục tham gia dạy lớp xóa mù chữ cho người lớn.
Chừng đó xem ra vẫn chưa đủ đối với “người lính già đầu bạc” nên từ năm 1999 còn quay qua tập môn thể thao bóng bàn xe lăn. Mỗi sáng sớm đều đặn chống nạng đi bộ cả gần 7km từnhà đến CLB luyện tập, trưa ở lại ăn cơm nắm tập tiếp đến chiều mới lội bộ về.Con cái muốn lấy xe đạp chở đi, không chịu vì xem đi bộ cũng như một cách rèn luyện thể lực, sức bền vậy.
Có công mài sắtcó ngày nên kim, từ năm 1996 đã giành tổng cộng 34 huy chương môn bóng bàn xe lăn cả trong lẫn ngoài nước. Trong đó nổi bật nhất là 11 huy chương (6 HCV) các giải người khuyết tật Châu Á – Thái Bình Dương và Đông Nam Á cùng 23 huy chương giải NKT trong nước (9 HCV cá nhân, 4 HCV đồng đội).

1006 - Nguyễn Văn Chính
CHUYÊN GIA TÌM HÀI CỐTLIỆT SĨ
Thương binh sinh 1941 tại NamHà cũ. Sống ở Hà Nội (2007).
Từng trải trên chiến trường miền Nam với nhiều thương tích trong đó có 7 mảnh đạn trong người còn nằm yên.
Hòa bình lập lại, trở về Hà Nội vẫn phục vụ trong quân ngũ. Lấy vợ xuất thân bộ đội thông tin, sinh 4 con.
Từ cuối năm1995 chuẩn bị về hưu mới bắt tay vào thực hiện kế hoạch ấp ủ bấy lâu là đi tìmhài cốt đồng đội còn thất tán, mất tích. Bằng cách làm rất bài bản tập hợp tất cả thông tin, tư liệu góp nhặt được về liệt sĩ từ giấy báo tử, thư từ, kỷ vật,đồng đội, bạn bè, đơn vị cũ, hội cựu chiến binh… không bỏ sót bất cứ chi tiết nào.Từ đó sàng lọc để tập trung nghiên cứu kỹ lưỡng những chỉ dấu dù nhỏ nhất chogiả thuyết hài cốt hay mộ liệt sĩ đó nằm ở đâu. Sau đó mới cùng bạn bè, người thân liệt sĩ lên đường truy tìm.
Nhờ cách làm khoa học đó mà kếùt quả tìm kiếm khá chính xác, tìm được nhiều hài cốt trên cácchiến trường cũ Quảng Trị và miền đông Nam Bộ khiến ai biết cũng nể phục tưởng mình có tài “ngoại cảm”!
Bà vợ cũng từng một thời chịu đựng gian khổ chiến tranh nên hết lòng ủng hộ, dành dụm tiền bạc được đồng nào đều đưa hết cho chồng làm nghĩa vụ thiêng liêng không ai bắt buộc. Vì thế suốt đời vẫn ở căn nhà thuê 20m2, đơn vị cấp đất cho xây nhà thì lại nhường cho một gia đình liệt sĩ.
Không may năm 1999 bà vợ qua đời để lại người lính già gà trống nuôi con. Nhưng không cô đơn vì đượïc biết bao ngườichịu hàm ơn tìm hài cốt chia sẻ hoàn cảnh để vẫn vượt lên nỗi đau đời riêng tiếp tục cuộc hành trình tìm đưa đồng đội về với gia đình, quê nhà.

1007 - Nguyễn Văn Chơi
“HÀNG CÂY SÁU ĐẤU”
Cán bộ về hưu sinh 1940 tại Bến Tre. Sống ở Bến Tre (2009).
Gốc nông dân nghèo nên cả nhà đều đi theo cộng sản, anh và em trai hy sinh trong chiến tranh chống Mỹ. Bản thân đi chăn trâu, làm mướn, học hết lớp nhất tiểu học cũng vào chiến khu luôn, bí danh Sáu Đấu (con thứ năm quyết chiến đấu tới cùng).
Năm 1970 làm bí thư xã ngay quê mình rồi lên huyện phụ trách tài chính.
Sau 1975 phát bệnh nhiều phải lên TPHCM điều trị tại bệnh viện Chợ Rẫy. Nhân đó mới có dịpngắm nghía hàng cây dầu đồ sộ chạy dài trước cổng bệnh viện mê lắm uớc gì quê nghèo của mình có được hàng cây như vậy bởi trong chiến tranh bao nhiều cây cốitrong làng đều bị bắn phá sát rạt không còn đâu bóng mát cho đất và người.
Từ đó nảy sinhý nghĩ sao không bắt chước đưa cây dầu về trồng đất quê mình? Nghĩ là làm bằng cách buổi chiều tản bộ ra trước đường đi nhặt… trái dầu rụng trên đường về cấttrong phòng bệnh. Đến ngày ra viện năm 1980 gom được 3 bao bố khiêng ra xe đò về quê tiếp tục làm bí thư xã như cũ.
Từ 3 bao bố trái dầu khô đó mới ươm giống rồi tiến hành kế hoạch trồng dọc hai bên con đường chính xuyên qua xã chạy dài qua đến xã lân cận, đường được mở rộng thêm lấy đó làm trục trung tâm để đắp đập thủy lợi bao quanh xã ngăn mặn trồng lúa.Thời đó tất cả hầu như đều làm bằng công sức lao động người dân trong xã nên 5năm mới hoàn thành công trình tổng hợp cây – nước – lúa.
Ban đầu cũng có ý kiến phản đối vì làm đường, mở đường lấy mất đất của dân (thời đó những khái niệm đền bù, giải phóng mặt bằng làm gì có!), rồi cây trồng án ngữ trước nhà dân có khi bất tiện… Thậm chí dân còn kiện lên tới tỉnh!
Nhưng rồi thời gian qua hàng cây dầu dần lớn lên cao thẳng tắp cành lá xum xuê rợp bóng mát quá đẹp cho thấy hiệu quảû của nó. Lại còn sinh sôi lợi nhuận chặt bán gỗ làm nhà chia tiền cho bà con có công chăm sóc và góp quỹ xây trường học, trạm xá y tế, nhà tình nghĩa… Nếu bây giờ phải tặng huy chương bảo vệ môi trường xanh – sạch nhưng lúc đó cây cũng đã không phụ ơn người mới sinh ra tên đặt cho nó là “Hàngcây Sáu Đấu”!
Năm 1995 về hưu nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo: “Đời tui như sãi ở chùa quét lá đa. Qué txong thấy lòng thanh sạch nhẹ nhàng.”

1008 - Nguyễn Văn Diệp
SỐNG TRÊN BÃI MÌN
Nông dân sinh 1931 tại Bình Dương. Sống ở Bình Dương (2008).
Năm 1956 bắt đầu theo cộng sản đánh Mỹ.
Năm 1960 lấy vợ làm y tá trong chiến khu. Sinh được 4 con thì vợ và đứa con mới sinh mắc bệnh nặng không đủ phương tiện thuốc thang chạy chữa nên qua đời.
Sau chiến tranh một mình gà trống nuôi con sống lại thêm 2 đứa con nữa cũng mang bệnh chết sớm.
Năm 1988 lấy vợ mới làm ngành công an cũng góa chồng (chồng bộ đội thương binh mất năm 1978 để lại 2 con).
Hai vợ chồng đều đến tuổi về hưu phải sống nhờ trong khu tập thể công an tỉnh. Năm 1998 hai vợ chồng mới làm đơn xin đất làm nhà tình nghĩa thì được cấp cho một khu đất hoang nằm trước một đồn lính chế độ cũ.
Hai vợ chồng đưa 4 con lên đó bắt tayvào dọn dẹp dựng nhà ở tạm bợ, lúc đó mới tá hỏa phát hiện rằng nơi đây toàn chôn… mìn và cả nhiều ngôi mộ vô danh nữa! Do đồn lính thời trước gài mìn chống Việt Cộng xâm nhập, vì thế đã có nhiều người không biết giẫm phải mìn chết chôn luôn tại đó.
Nhưng đã lỡ lâm vào cảnh tiến thối lưỡng nan rồi, sợ mìn nổ mà bỏ đi thì cuối đời biết nương tựa vào đâu nên đànhchấp nhận sống chung với mìn và mộ địa. Hai vợ chồng cố gắng ra tay phát quang,dọn sạch được chỗ nào hay chỗ đó, hễ nghi điểm nào có mìn thì đánh dấu để cả nhà biết mà tránh xa.
Ngày qua ngày cứ thế mà khai hoang mảnh đất chết chóc để dần dần biến nó thành một vườn cây trái xum xuê cũng thu hoạch được hoa trái bán kiếm sống nuôi con. Còn mìn bẫy nằm quanh quất đây đó may mà cũng cám cảnh không nổ bất tử!
Nhưng đến năm 2004 chính quyền lại bất thần ra quyết định… thu hồi gần một nửa mảnh đất (toàn bộ nhà và vườn khoảng400m2) mà 2 vợ chồng đã đổ mồ hôi – và cả tính mạng đem ra đánh đố với bom mìn– khai khẩn, với lý do “chiếm dụng đất công”!
Làm đơn kiện tứ phương đến năm 2008 vẫn
chưa đi đến đâu.

1009 - Nguyễn Văn Đôi
“ANH NUÔI” LÂM CẢNH ĐÓI ĂN
Nông dân sinh tại Cao Bằng. Sống ở Buôn Ma Thuột (2011).
Người dân tộc Nùng vào bộ đội làm anh nuôi vừa cầm súng chiến đấu vừa lo nuôi quân đánh Mỹ,tham gia chiến dịch giải phóng Buôn Ma Thuột rồi sau đó còn chuyển qua mặt trận Campuchia truy kích bọn tàn quân Pol Pot.
Giải phóng Campuchia xong một thời gian thì bị thương được giải ngũ quay về quê Cao Bằng.
Nhưng lúc đó quê hương cũng mới xảy ra cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc khiến nhà cửa cha mẹ bị cháy rụi trong khi bản thân bị mất hết giấy tờ quân ngũ lại gặp cảnh cuộc sống đảo lộn không biết xoay xở thế nào. Đành cùng vợ con làm rẩy đốt than gắng gượng sống qua ngày.
Nhưng ở vùng sơn cước xa xôi ngày ấy  lại trong thời bao cấp khó sống nổi nên cuối cùng dắt díu vợ con tìm đường quayvề… chiến trường xưa Buôn Ma Thuột hy vọng đã từng quen biết một thời gian có thể kiếm sống được.
Tuy nhiên cảnh cũ người xưa nay đổi khác rồi, không còn nơi nào không còn ai nương tựa mà gánh nặng gia đình đùm đìa nên lại tiếp tục kéo dài phận lam lủ thiếu ăn thiếu mặc, dược địa phương liệt vào diện hộ nghèo phải thường xuyên cứu đói.
Mãi đến năm 2011 đồng đội cũ ở đơn vịcũ – một Sư đoàn Anh hùng – mở cuộc vận động tìm kiếm thông qua Đài truyền hìnhVN mới gặp lại được người anh nuôi đáng quý ngày xưa mừng mừng tủi tủi.
Từ đó anh nuôi mới được khôi phục danhnghĩa và chế độ cựu chiến binh, được đồng đội tặng cho chiếc máy kéo và vốn liếng để “nuôi quân gia đình” đánh thắng giặc nghèo giặc đói.

1010 - Nguyễn Văn Hà
MẤT “KHẢ NĂNG LÀM CHỒNG”
Công chức sinh 1953 tại Nam Định. Sống ở Ninh Bình (2007).
Dù là con traiduy nhất được miễn nghĩa vụ quân sự nhưng năm 1971 vẫn tình nguyện đi bộ đội.
Năm 1972 được tung vào trận chiến mùa hè đỏ lửa bảo vệ Thành cổ Quảng Trị. Bị thương khá nặng ởû háng và đùi đượcchuyển về Nghệ An điều trị rồi ra Hải Dương an dưỡng.
Năm 1973 được chuyển ngành đi học nghề tài chính, năm 1976 ra trường về làm ở Ninh Bình.
Tại đây năm 1984 lấy vợ làm nhân viên cấp huyện. Nào ngờ đến đêm tân hôn bản thân mới phát hiện thì ra vết thương ởđùi và háng trước kia đã khiến mình không còn khả năng tính dục đàn ông nữa,lâu rồi vậy mà không hề hay biết chút gì! Có thể bác sĩ lúc đó vì tế nhị không nói hoặc sau này sinh ra di chứng hậu quả không lường trước được.
Từ đó dễ hiểu dần dần đưa đến cảnh vợ chồng tình nghĩa phai nhạt rồi hầu như trở thành lạnh lùng xa cách nhau. Bản thân đi tìm quên trong men rượu, rơi vào cảnh sống bê tha trác táng, còn vợ thì quay qua… ngoại tình với người tình nhỏ tuổi hơn. Không chỉ thế, năm 1992 vợcòn sinh con với người khác nhưng bắt chồng phải nhận làm cha hờ mà chỉ có riêng mình phải cắn răng chịu đựïng âm thầm!
Đề nghị ly hônthì vợ không chịu với ý đồ đợi đứa con khôn lớn để lãnh quyền thừa kế gia sản.Đến năm 2002 mới đồng ý ly hôn sau khi vợ đã dàn xếp… lấy hết tiền bạc, của cải, nhà cửa của người chồng “bất lực”.
Trong cảnh bơ vơ cô độc lại hầu như trắng tay may sao năm 2003 vẫn có một cô giáo góa chồng(2 con) thương cảm chấp nhận chắp nối tình già dù lần này đã được anh nói thẳng sự thật về vết thương chiến tranh cay đắng của mình, vết thương đã làm cho mình“bất hạnh chẳng ai giống ai”.
(Còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét