Thi sĩ Võ Chân Cửu tự bạch, anh mần thơ từ khi còn tuổi thiếu niên. Mần thơ từ rất sớm, nhưng sức thơ lại vượt xa cái tuổi của mình, mà thơ lại hay, thơ thứ thiệt nữa thì thật là hiếm và quý.
Võ Chân Cửu in tập thơ đầu tay,Tinh Sương, năm 1972, cách nay gần 40 năm, lúc ấy, thi sĩ cũng vừa tròn 20 tuổi. Gần 40 năm sau, ngồi đọc lại Tinh Sương, tôi vẫn còn niềm rung cảm, xúc động mạnh như thuở nào.
Tinh Sương đúng như tên gọi, một giòng thơ lung linh, trong veo trong vắt, nhất khí từ bài đầu đến bài cuối. Âm vang có một chút gì đó hiu hắt, lành lạnh, trầm trầm. Sắc màu có một chút gì đó vừa ảo diệu , vừa mênh mông. Chữ trong mạch thơ của thi sĩ hình như cố ghìm lại những tiếng nấc thảng thốt của buổi đầu đời, khi bắt đầu cảm nhận được cái cô liêu, côi cút, bơ vơ của kiếp người.
Tinh Sương, tuy với số lượng thơ chắt lọc, 25 bài (phần lớn là thơ bốn chữ [6 bài,] thơ năm chữ [12 bài;] còn lại là thơ sáu chữ [4 bài,] thơ bảy chữ [1 bài,] thơ song thất lục bát [1 bài] và một tiểu trường ca Quẩy Đá Qua Đồng, viết theo lối bài hành cổ phong với phần mở đầu và phần khép lại bằng thơ lục bát,) nhưng về phần thi pháp, Võ Chân Cửu đã chứng tỏ được một bản lĩnh vững vàng, tầm cỡ ngay từ thời tuổi trẻ
Nàng đội nón cời
Đi về phương bắc
Thẳng đứng mặt trời
Soi không thấy mặt
(Vô Tình)
Nhịp hai, bốn chữ, bốn câu. Hình ảnh, tứ thơ rất lạ. Nàng nào vậy? Nàng Thơ? Nón cời? Soi không thấy mặt. Bốn câu mở đầu của tập thơ, tỉnh rụi, lạnh lùng quá đỗi. Câu cuối hun hút bóng hình, buông xuống một âm trắc dứt điểm nghèn nghẹn, thảng thốt. Vô Tình ư? Không hẳn. Nàng Thơ thách thức thi sĩ đó thôi! Thi sĩ lập tức hồi đáp:
Trăm năm bá láp
Nghìn năm điêu tàn
Đi về Tịch Hạp
Soi bóng trăng ngàn
(Soi Bóng)
Vỡ lẽ ra, Soi Bóng trong cõi Tịch Hạp thì sẽ thấy rõ mặt nhau.
Bóng trăng ngàn chỉ là biểu tượng thôi. Tâm thức của thi sĩ tự soi lấy cái bóng “kép” của mình. Cõi Tịch Hạp là mái nhà xưa, cái chốn ban sơ của âm và sắc, cái chốn hỗn mang thiên địa mịt mù. Khởi kỳ thủy là Lời hay là Âm? Hỡi Nàng Thơ huyền ảo kia! Vậy nên:
Sớm về phía mây tụ
Chiều tới nơi mây tan
Phải nơi nầy chốn cũ
Trên mặt đất còn hoang
Trời rộng đau gió hú
Ôi hư không tràn lan
(Một Ngày Bộ Hành)
Thi sĩ cứ bước đi, bước đi. Nhịp một nhịp hai nhịp ba trùng trùng duyên khởi. Cái bóng của thiền sư Không Lộ ở đâu đây? Trường khiếu nhất thanh hàn Thái Hư – Hú dài một tiếng lạnh cả cõi Hư Không. Thi sĩ chắc là đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Cái chốn cũ là cái chốn nào trong tiền kiếp phôi pha? Câu hỏi vu vơ hoang địa, tịch mịch vọng lời đáp. Đúng rồi:
Tuổi mười tám đôi mươi đắm mình dạo chơi trong cõi tịch mịch của buổi tà huy, nhìn thấy và lắng nghe, không kịp gọi thì bóng tà bay cái vụt. Nhạy cảm trong từng cái thấy cái nghe, hạt bụi cũng có linh hồn, cũng có dáng dấp sinh linh ngoa ngoe quẫy đạp. Là ta đấy ư? Là em đấy ư? Lời chưa kịp gọi, cái vụt của chớp nháy không gian thời gian kia đã chia biệt rồi!
Theo mây đi một buổi
Trời đất nhẹ phiêu phiêu
Va đầu tưởng đụng núi
Chỉ đụng bóng sương chiều
Một mặt trời lầm lũi
Trên trần gian tiêu điều.
Tứ thơ thản nhiên, lạ lẫm, pha chút ngông cuồng của tuổi trẻ. Không hề gì! Cô liêu và cô độc quá thôi! Vô núi là vô cái cõi tịch mịch sấm rền. Thi sĩ chỉ biết:
Vô núi nghe núi rền
Tự hỏi rồi tự đáp
Về ù tai cả đêm
Canh tà chỉ buồn ngáp.
(Thâu Đêm)
Bài ngũ ngôn tứ tuyệt hình như có tiếng đồng vọng của Trúc Lâm Yên Tử? Trong sấm sét rền vang của tịch mịch, thi sĩ hốt nhiên vỡ lẽ ra,tự hỏi rồi tự đáp
Tự đáp rồi thì ù tai cả đêm. Buồn ngáp là để hóa giải cái hay là niêm hoa vi tiếu sau cái buồn ngáp ấy? Bài thơ hay là bài kệ? Chẳng biết nữa. Thi sĩ hay thiền sư? Lại càng chẳng biết luôn. Chỉ biết rằng: Thi sĩ đã sớm chạm vào cõi vô ngôn kỳ bí nhất của kiếp người. Vô ngôn đâu hẵn là không lời! Xin mời bạn đọc chậm rãi và tưởng tượng thêm tiếng mõ cầm canh hòa điệu
Chùa cổ bên sông
Mưa lồng chính điện
Mưa dìu mái cong
Về thăm năm cũ
Rã chút hương tàn
Trên bia mộ hoang
Trên cành đa phế
Hồn đựng bình vôi
Và trong ngẫu tượng
Than đất than đá
Than cỏ than cây
Cùng con dế nhỏ
Gáy suốt đêm dài
Gáy suốt mười năm
Chết vùi dưới rễ
Còn mãi kêu em
Bên kia bờ sậy
Sông là nắng mai
Ủ lòng em nhạt
Gáy suốt mười năm
Nở hoa bát ngát
Em đeo trong tim
Em cài lên ngực
Một mai hết rồi
Em biết còn ai
Gọi vầng trăng đục
Chở tình lên mây
Mây tan mây hợp
Mây trắng đầy trời
Tan nát nửa đêm
Xoáy theo tiếng mõ
Vọng từ muôn xưa
Hiện con bướm nhỏ
Đậu bâu áo phai
Ru trong nắng tịnh
Nước mắt như mưa
Cuốn hai bờ mắt
Mắt khép một bờ
Em thấy trăm năm
Một tiếng chuông đồng
Em thấy nghìn năm
Một câu chiêu niệm
Em nhìn vạn kỷ
Một vùng như sương
Chùa cổ bên sông
Mưa mưa không cùng
Mưa mưa kỳ cựu
Những ngày nước dâng
Mưa êm nhập định
Từng mảnh rêu phong
Anh quên kinh kệ
Ra chảy với sông
Tìm em vạn ngã
Bạc áo nâu sồng
Kiệt trên đời cũ
Ơi em vô hình
Một đời bay vụt
Hỏi em bóng dáng
Sông nước chập chùng
Nước xô thiên địa
Chùa cổ bên sông
(Chùa Cổ Bên Sông)
Theo tôi, đây là bài thơ xuất thần nhập thánh nhất trong Tinh Sương. Thi sĩ viết như nhập đồng, chảy trôi một mạch như khúc đồng dao, nhịp theo tiếng mõ thánh thót như những giọt sương trời, vang vang, lắng lắng. Chùa cổ, sông, là biểu tượng đầy ẩn dụ, động và tĩnh, xa và gần, mộng và thực, dìu dặt âm vang, quyện vào nhau trong tiết điệu lung linh, chập chùng, trùng điệp. Bài thơ có thể tụng với nhịp ngân nga trầm bổng, có thể hát lên một mình trong đêm thanh vắng. Tụng hay hát, nhả giọng khoan thai từng chữ, câu chuyện kể sẽ ánh lên một âm vang và sắc màu vừa thực vừa mộng. Tụng hay hát, sẽ bật lên tiếng ca xang bi mẫn giữa bóng đời dâu bể trầm luân. Em là ai? Là duyên nghiệp trùng trùng, là vết thương tâm bạc áo nâu sồng/kiệt trên đời cũ của kiếp người ảo hóa mong manh. Bài thơ thấm đẫm mùi Đạo mà ngan ngát hương Đời nên không có chỗ dừng. Càng tụng, càng hát, càng lung linh màu Sông nước chập chùng/Nước xô thiên địa/Chùa cổ bên sông…
Tinh Sương còn có bài thơ 5 chữ, Quê Nhà, 148 câu, là bài thơ khá dài hơi, ý tứ hàm súc, nội lực thâm trầm. Tôi nghĩ, thi sĩ đã cảm ứng và phát tiết, khai mở và sáng tạo thêm mạch ngầm sâu thẳm mà 2 câu thơ của Huy Cận chưa nói hết:Một chiếc linh hồn nhỏ/Mang mang thiên cổ sầu. Phải chăng, đó cũng là thiện duyên đối với những tâm hồn đồng điệu. Đồng điệu, nhưng đường bay trong cõi văn chương, mỗi người mỗi ngả riêng tây.
Quê nhà, một nơi chốn nào đó trên mặt đất đìu hiu, vòng quay sinh tử dập dìu, đến rồi đi, đi rồi đến, mong manh phận người bụi bặm, hẩm hiu trăng tàn nguyệt tận giọng nói lời chào, Mây bay từ thiên cổ/Cùng nhau trời đất tan/Ta một linh hồn nhỏ/Vơ vẩn miền Đại Hoang.
Quẩy Đá Qua Đồng, gồm 120 câu, là một tiểu trường ca độc đáo. Khổ đầu khai mở bằng 10 câu lục bát để vào chuyện. Tiếp theo, 102 câu phá thể theo kiểu một bài hành cổ phong. Cuối cùng, khép lại bằng 8 câu lục bát. Như một câu chuyện kể, một huyền thoại nơi một vùng địa linh nào đó (không biết có phải là nơi chôn nhau cắt rốn của thi sĩ, hư cấu thêm, muốn ký thác tâm sự chăng?) Trong bài thơ, đá là một vật linh, cất lên tiếng nói, tiếng ngâm ngợi, ca xang giữa thinh không. Giọng đá u trầm
Soi cái hình ta, hề
Minh mông
Soi suốt thiên thu, hề
Thinh không
Trứng con thần ưng
Phơi trên non chóp
Ta nằm muôn năm
Sao chưa thay lốt
Ta uống tinh sương hề bao nhiêu hớp
Thốt với bao la hề khuya hay trưa
Con thần ưng ơi con thần ưng
Con trăn tinh ơi con trăn tinh
Ngươi chơi cùng ta hề
Sao ta chưa bay lên cao hề
Trời xanh xưa hẹn ta hề
Trời xanh nay lừa ta hề
Đất trích chiêm bao
Cho ta hát ngao hề
Đá tâm tình với thần ưng và trăn tinh. Đá hát cho thần ưng vỗ cánh. Đá múa cho trăn tinh phun ngọc. Rồi khi cao hứng, đá bèn
Bày ra một cõi chưa từng có hề
Trời xanh ghen hề đất ghen hề
Thần ưng và trăn tinh đã bỏ đi. Đá tiếp tục độc thoại, tra vấn về bản thân, về mặt đất, trăng sao…Đá hát một mình, đá chơi một mình, đá nghe một mình, đá mộng một mình giữa bốn bề hư không lặng ngắt nhưng vẫn còn nặng lòng với nhân gian:
Trời xanh Nam Hải
Khói vi vu
Soi động hư vô
Mờ nhạt một bầu
Lặng ngắt mênh mông
Câu ca câu hát
Nghe ta xoay vòng
Thiên địa về đâu
Đá lắng tiếng ca, bài thơ khép lại
Nằm nghe đá hát vô minh
Thơ thay con mắt ngó rình hóa công
Bóng ai quảy đá qua đồng
Sầu xưa uất nặng giữa lòng nhân gian
Giọng nói, giọng hát u trầm của đá. Giọng của quỉ thi Lý Hạ đấy chăng? Tôi cũng chẳng biết nữa. Chỉ biết đây là một bài thơ kỳ dị, lạ lùng, ý thơ ảo diệu mùi vị Đạo học Đông phương huyền hoặc trong cái ý huyền chi hựu huyền. Thi sĩ ngơ ngác trước thềm sương của vũ trụ, rồi rùng mình hóa thân vào đá, đá hóa thân thành huyết lệ trùng trùng trong tiếng ca xang giữa bóng đời dâu bể. Bài thơ hóa thành mây trắng, bay đi về chốn tuyệt mù. Đọc bài thơ, nghe rờn rợn sống lưng, nghe óc tuôn trào nỗi nhớ không lời, không tên, không tuổi
Tinh Sương, cũng là tinh huyết của thi sĩ
Đại Mộng là tiếng ngân dài của Tinh Sương. Tiếp tục tra vấn, hồi tưởng bằng những ẩn dụ tượng trưng với những bài thất ngôn tứ tuyệt, lục bát bốn câu trầm tĩnh, đĩnh đạt hơn, sâu lắng hơn. Đặc biệt, một bài thơ khá dài, 58 câu, với 3 khổ điệp khúc dặt dìu trong một buổi Sáng Thinh Không
Một con chó con, một vừng trăng sáng
Hai cõi trời im, một vùng biển cạn
Một con đường đèo sương đục lô nhô
Một chiếc hồn ma quẩn quanh vạn cổ
Một con chó con, một vừng trăng sáng
Hai cõi trời im, một vùng biển cạn
Một chiếc hồn đơn mấy bè mây nổi
Hai con ngựa trắng một chiếc xe tang
Một con chó con, một vừng trăng sáng
Hai con ngựa trắng, một chiếc xe tang
Đất lành gió phủ mây trong mát
Vạn cổ nghe chăng, dưới gót nàng
(Sáng Thinh Không
Nàng,” biểu tượng cho cái Đẹp hiu hắt của trần gian? Hay bóng ma thiên cổ thoáng ẩn thoáng hiện , mệnh hệ của kiếp người hư ảo mù tăm? Vết thương tâm đầu đời, vận vào hồn cốt chữ nghĩa, thấm vào mệnh của thi sĩ?
…Sáng thinh không, sáng dưới chân nàng
Trong lòng vạn đại đã tan hoang
U minh rờn rợn lên vai tóc
Bóng tà vạn thuở đã bay ngang
Sáng thinh không, sáng lặng ngát hương
Êm ả trần gian chợ phố phường
Một bàn tay vẫy trên non tuyết
Một tiếng cười vang cả bốn phương
Tôi đọc và nghe khí lạnh toát ra trong từng con chữ! Bài thơ đã vượt lên cái sự hay bình thường. Bài thơ đã đạt đến cái đỉnh lặng và lạnh của khắp cõi nhân gian. Thi ca đã chết trong thời đại cơ khí gầm gào? Tôi cũng chẳng biết nữa! Nhưng khi được đọc những giòng thơ như trên, tận đáy lòng tôi đang dậy lên một niềm bi mẫn khôn cùng.
Cái Đẹp sẽ cứu vãn thế giới. Ai đã nói như thế? Tôi quên mất. Nhưng tôi tin, tin lắm, cho dẫu là niềm tin hình như không có thật giữa thời buổi nhiễu nhương nầy
Ngả Tư Vầng Trăng và những bài thơ khác trong tuyển tập, hương Đời nhiều hơn, thấm đẫm hơn, nhưng chẳng hiểu vì sao, tôi ít xúc động hơn so với Tinh Sương và Đại Mộng, nhất là Tinh Sương
Ta bước lên đường kêu gọi mãi/Nhớ người bạn cũ thuở anh niên
(Xuân Diệu) Ôi cái thuở anh niên đẹp ngất. Ôi cái thuở anh niên một lần rồi thôi, không có chốn quay về. Góc biển xưa, khung trời cũ hanh hao. Qui Nhơn, Qui Nhơn ngập tràn nắng gió, mộng mị của một thời
Trước Sau như Một. Một cái mối Nhất Dĩ Quán của một đời thơ. Thi sĩ, kẻ thọ nhận điêu linh, mỗi người mỗi kiểu, cô liêu cô độc ngút ngàn. Có còn chăng là tiếng đồng vọng của cố nhân bên trời lận đận. Những trận gió bay đi mịt mờ tuổi dại, nhưng vẫn còn đây những giọt nắng của buổi sơ đầu hạnh ngộ.Quỷ ma đưa mãi lời thiên cổ/ Hiu hắt nghìn thu lạnh khí đồng…Tôi chẳng bao giờ dám quên. Vô cùng biết ơn thi sĩ.
Calif, cuối đông 2011
NLV
Võ Chân Cửu in tập thơ đầu tay,Tinh Sương, năm 1972, cách nay gần 40 năm, lúc ấy, thi sĩ cũng vừa tròn 20 tuổi. Gần 40 năm sau, ngồi đọc lại Tinh Sương, tôi vẫn còn niềm rung cảm, xúc động mạnh như thuở nào.
Tinh Sương đúng như tên gọi, một giòng thơ lung linh, trong veo trong vắt, nhất khí từ bài đầu đến bài cuối. Âm vang có một chút gì đó hiu hắt, lành lạnh, trầm trầm. Sắc màu có một chút gì đó vừa ảo diệu , vừa mênh mông. Chữ trong mạch thơ của thi sĩ hình như cố ghìm lại những tiếng nấc thảng thốt của buổi đầu đời, khi bắt đầu cảm nhận được cái cô liêu, côi cút, bơ vơ của kiếp người.
Tinh Sương, tuy với số lượng thơ chắt lọc, 25 bài (phần lớn là thơ bốn chữ [6 bài,] thơ năm chữ [12 bài;] còn lại là thơ sáu chữ [4 bài,] thơ bảy chữ [1 bài,] thơ song thất lục bát [1 bài] và một tiểu trường ca Quẩy Đá Qua Đồng, viết theo lối bài hành cổ phong với phần mở đầu và phần khép lại bằng thơ lục bát,) nhưng về phần thi pháp, Võ Chân Cửu đã chứng tỏ được một bản lĩnh vững vàng, tầm cỡ ngay từ thời tuổi trẻ
Nàng đội nón cời
Đi về phương bắc
Thẳng đứng mặt trời
Soi không thấy mặt
(Vô Tình)
Nhịp hai, bốn chữ, bốn câu. Hình ảnh, tứ thơ rất lạ. Nàng nào vậy? Nàng Thơ? Nón cời? Soi không thấy mặt. Bốn câu mở đầu của tập thơ, tỉnh rụi, lạnh lùng quá đỗi. Câu cuối hun hút bóng hình, buông xuống một âm trắc dứt điểm nghèn nghẹn, thảng thốt. Vô Tình ư? Không hẳn. Nàng Thơ thách thức thi sĩ đó thôi! Thi sĩ lập tức hồi đáp:
Trăm năm bá láp
Nghìn năm điêu tàn
Đi về Tịch Hạp
Soi bóng trăng ngàn
(Soi Bóng)
Vỡ lẽ ra, Soi Bóng trong cõi Tịch Hạp thì sẽ thấy rõ mặt nhau.
Bóng trăng ngàn chỉ là biểu tượng thôi. Tâm thức của thi sĩ tự soi lấy cái bóng “kép” của mình. Cõi Tịch Hạp là mái nhà xưa, cái chốn ban sơ của âm và sắc, cái chốn hỗn mang thiên địa mịt mù. Khởi kỳ thủy là Lời hay là Âm? Hỡi Nàng Thơ huyền ảo kia! Vậy nên:
Sớm về phía mây tụ
Chiều tới nơi mây tan
Phải nơi nầy chốn cũ
Trên mặt đất còn hoang
Trời rộng đau gió hú
Ôi hư không tràn lan
(Một Ngày Bộ Hành)
Thi sĩ cứ bước đi, bước đi. Nhịp một nhịp hai nhịp ba trùng trùng duyên khởi. Cái bóng của thiền sư Không Lộ ở đâu đây? Trường khiếu nhất thanh hàn Thái Hư – Hú dài một tiếng lạnh cả cõi Hư Không. Thi sĩ chắc là đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Cái chốn cũ là cái chốn nào trong tiền kiếp phôi pha? Câu hỏi vu vơ hoang địa, tịch mịch vọng lời đáp. Đúng rồi:
Tuổi mười tám đôi mươi đắm mình dạo chơi trong cõi tịch mịch của buổi tà huy, nhìn thấy và lắng nghe, không kịp gọi thì bóng tà bay cái vụt. Nhạy cảm trong từng cái thấy cái nghe, hạt bụi cũng có linh hồn, cũng có dáng dấp sinh linh ngoa ngoe quẫy đạp. Là ta đấy ư? Là em đấy ư? Lời chưa kịp gọi, cái vụt của chớp nháy không gian thời gian kia đã chia biệt rồi!
Theo mây đi một buổi
Trời đất nhẹ phiêu phiêu
Va đầu tưởng đụng núi
Chỉ đụng bóng sương chiều
Một mặt trời lầm lũi
Trên trần gian tiêu điều.
Tứ thơ thản nhiên, lạ lẫm, pha chút ngông cuồng của tuổi trẻ. Không hề gì! Cô liêu và cô độc quá thôi! Vô núi là vô cái cõi tịch mịch sấm rền. Thi sĩ chỉ biết:
Vô núi nghe núi rền
Tự hỏi rồi tự đáp
Về ù tai cả đêm
Canh tà chỉ buồn ngáp.
(Thâu Đêm)
Bài ngũ ngôn tứ tuyệt hình như có tiếng đồng vọng của Trúc Lâm Yên Tử? Trong sấm sét rền vang của tịch mịch, thi sĩ hốt nhiên vỡ lẽ ra,tự hỏi rồi tự đáp
Tự đáp rồi thì ù tai cả đêm. Buồn ngáp là để hóa giải cái hay là niêm hoa vi tiếu sau cái buồn ngáp ấy? Bài thơ hay là bài kệ? Chẳng biết nữa. Thi sĩ hay thiền sư? Lại càng chẳng biết luôn. Chỉ biết rằng: Thi sĩ đã sớm chạm vào cõi vô ngôn kỳ bí nhất của kiếp người. Vô ngôn đâu hẵn là không lời! Xin mời bạn đọc chậm rãi và tưởng tượng thêm tiếng mõ cầm canh hòa điệu
Chùa cổ bên sông
Mưa lồng chính điện
Mưa dìu mái cong
Về thăm năm cũ
Rã chút hương tàn
Trên bia mộ hoang
Trên cành đa phế
Hồn đựng bình vôi
Và trong ngẫu tượng
Than đất than đá
Than cỏ than cây
Cùng con dế nhỏ
Gáy suốt đêm dài
Gáy suốt mười năm
Chết vùi dưới rễ
Còn mãi kêu em
Bên kia bờ sậy
Sông là nắng mai
Ủ lòng em nhạt
Gáy suốt mười năm
Nở hoa bát ngát
Em đeo trong tim
Em cài lên ngực
Một mai hết rồi
Em biết còn ai
Gọi vầng trăng đục
Chở tình lên mây
Mây tan mây hợp
Mây trắng đầy trời
Tan nát nửa đêm
Xoáy theo tiếng mõ
Vọng từ muôn xưa
Hiện con bướm nhỏ
Đậu bâu áo phai
Ru trong nắng tịnh
Nước mắt như mưa
Cuốn hai bờ mắt
Mắt khép một bờ
Em thấy trăm năm
Một tiếng chuông đồng
Em thấy nghìn năm
Một câu chiêu niệm
Em nhìn vạn kỷ
Một vùng như sương
Chùa cổ bên sông
Mưa mưa không cùng
Mưa mưa kỳ cựu
Những ngày nước dâng
Mưa êm nhập định
Từng mảnh rêu phong
Anh quên kinh kệ
Ra chảy với sông
Tìm em vạn ngã
Bạc áo nâu sồng
Kiệt trên đời cũ
Ơi em vô hình
Một đời bay vụt
Hỏi em bóng dáng
Sông nước chập chùng
Nước xô thiên địa
Chùa cổ bên sông
(Chùa Cổ Bên Sông)
Theo tôi, đây là bài thơ xuất thần nhập thánh nhất trong Tinh Sương. Thi sĩ viết như nhập đồng, chảy trôi một mạch như khúc đồng dao, nhịp theo tiếng mõ thánh thót như những giọt sương trời, vang vang, lắng lắng. Chùa cổ, sông, là biểu tượng đầy ẩn dụ, động và tĩnh, xa và gần, mộng và thực, dìu dặt âm vang, quyện vào nhau trong tiết điệu lung linh, chập chùng, trùng điệp. Bài thơ có thể tụng với nhịp ngân nga trầm bổng, có thể hát lên một mình trong đêm thanh vắng. Tụng hay hát, nhả giọng khoan thai từng chữ, câu chuyện kể sẽ ánh lên một âm vang và sắc màu vừa thực vừa mộng. Tụng hay hát, sẽ bật lên tiếng ca xang bi mẫn giữa bóng đời dâu bể trầm luân. Em là ai? Là duyên nghiệp trùng trùng, là vết thương tâm bạc áo nâu sồng/kiệt trên đời cũ của kiếp người ảo hóa mong manh. Bài thơ thấm đẫm mùi Đạo mà ngan ngát hương Đời nên không có chỗ dừng. Càng tụng, càng hát, càng lung linh màu Sông nước chập chùng/Nước xô thiên địa/Chùa cổ bên sông…
Tinh Sương còn có bài thơ 5 chữ, Quê Nhà, 148 câu, là bài thơ khá dài hơi, ý tứ hàm súc, nội lực thâm trầm. Tôi nghĩ, thi sĩ đã cảm ứng và phát tiết, khai mở và sáng tạo thêm mạch ngầm sâu thẳm mà 2 câu thơ của Huy Cận chưa nói hết:Một chiếc linh hồn nhỏ/Mang mang thiên cổ sầu. Phải chăng, đó cũng là thiện duyên đối với những tâm hồn đồng điệu. Đồng điệu, nhưng đường bay trong cõi văn chương, mỗi người mỗi ngả riêng tây.
Quê nhà, một nơi chốn nào đó trên mặt đất đìu hiu, vòng quay sinh tử dập dìu, đến rồi đi, đi rồi đến, mong manh phận người bụi bặm, hẩm hiu trăng tàn nguyệt tận giọng nói lời chào, Mây bay từ thiên cổ/Cùng nhau trời đất tan/Ta một linh hồn nhỏ/Vơ vẩn miền Đại Hoang.
Quẩy Đá Qua Đồng, gồm 120 câu, là một tiểu trường ca độc đáo. Khổ đầu khai mở bằng 10 câu lục bát để vào chuyện. Tiếp theo, 102 câu phá thể theo kiểu một bài hành cổ phong. Cuối cùng, khép lại bằng 8 câu lục bát. Như một câu chuyện kể, một huyền thoại nơi một vùng địa linh nào đó (không biết có phải là nơi chôn nhau cắt rốn của thi sĩ, hư cấu thêm, muốn ký thác tâm sự chăng?) Trong bài thơ, đá là một vật linh, cất lên tiếng nói, tiếng ngâm ngợi, ca xang giữa thinh không. Giọng đá u trầm
Soi cái hình ta, hề
Minh mông
Soi suốt thiên thu, hề
Thinh không
Trứng con thần ưng
Phơi trên non chóp
Ta nằm muôn năm
Sao chưa thay lốt
Ta uống tinh sương hề bao nhiêu hớp
Thốt với bao la hề khuya hay trưa
Con thần ưng ơi con thần ưng
Con trăn tinh ơi con trăn tinh
Ngươi chơi cùng ta hề
Sao ta chưa bay lên cao hề
Trời xanh xưa hẹn ta hề
Trời xanh nay lừa ta hề
Đất trích chiêm bao
Cho ta hát ngao hề
Đá tâm tình với thần ưng và trăn tinh. Đá hát cho thần ưng vỗ cánh. Đá múa cho trăn tinh phun ngọc. Rồi khi cao hứng, đá bèn
Bày ra một cõi chưa từng có hề
Trời xanh ghen hề đất ghen hề
Thần ưng và trăn tinh đã bỏ đi. Đá tiếp tục độc thoại, tra vấn về bản thân, về mặt đất, trăng sao…Đá hát một mình, đá chơi một mình, đá nghe một mình, đá mộng một mình giữa bốn bề hư không lặng ngắt nhưng vẫn còn nặng lòng với nhân gian:
Trời xanh Nam Hải
Khói vi vu
Soi động hư vô
Mờ nhạt một bầu
Lặng ngắt mênh mông
Câu ca câu hát
Nghe ta xoay vòng
Thiên địa về đâu
Đá lắng tiếng ca, bài thơ khép lại
Nằm nghe đá hát vô minh
Thơ thay con mắt ngó rình hóa công
Bóng ai quảy đá qua đồng
Sầu xưa uất nặng giữa lòng nhân gian
Giọng nói, giọng hát u trầm của đá. Giọng của quỉ thi Lý Hạ đấy chăng? Tôi cũng chẳng biết nữa. Chỉ biết đây là một bài thơ kỳ dị, lạ lùng, ý thơ ảo diệu mùi vị Đạo học Đông phương huyền hoặc trong cái ý huyền chi hựu huyền. Thi sĩ ngơ ngác trước thềm sương của vũ trụ, rồi rùng mình hóa thân vào đá, đá hóa thân thành huyết lệ trùng trùng trong tiếng ca xang giữa bóng đời dâu bể. Bài thơ hóa thành mây trắng, bay đi về chốn tuyệt mù. Đọc bài thơ, nghe rờn rợn sống lưng, nghe óc tuôn trào nỗi nhớ không lời, không tên, không tuổi
Tinh Sương, cũng là tinh huyết của thi sĩ
Đại Mộng là tiếng ngân dài của Tinh Sương. Tiếp tục tra vấn, hồi tưởng bằng những ẩn dụ tượng trưng với những bài thất ngôn tứ tuyệt, lục bát bốn câu trầm tĩnh, đĩnh đạt hơn, sâu lắng hơn. Đặc biệt, một bài thơ khá dài, 58 câu, với 3 khổ điệp khúc dặt dìu trong một buổi Sáng Thinh Không
Một con chó con, một vừng trăng sáng
Hai cõi trời im, một vùng biển cạn
Một con đường đèo sương đục lô nhô
Một chiếc hồn ma quẩn quanh vạn cổ
Một con chó con, một vừng trăng sáng
Hai cõi trời im, một vùng biển cạn
Một chiếc hồn đơn mấy bè mây nổi
Hai con ngựa trắng một chiếc xe tang
Một con chó con, một vừng trăng sáng
Hai con ngựa trắng, một chiếc xe tang
Đất lành gió phủ mây trong mát
Vạn cổ nghe chăng, dưới gót nàng
(Sáng Thinh Không
Nàng,” biểu tượng cho cái Đẹp hiu hắt của trần gian? Hay bóng ma thiên cổ thoáng ẩn thoáng hiện , mệnh hệ của kiếp người hư ảo mù tăm? Vết thương tâm đầu đời, vận vào hồn cốt chữ nghĩa, thấm vào mệnh của thi sĩ?
…Sáng thinh không, sáng dưới chân nàng
Trong lòng vạn đại đã tan hoang
U minh rờn rợn lên vai tóc
Bóng tà vạn thuở đã bay ngang
Sáng thinh không, sáng lặng ngát hương
Êm ả trần gian chợ phố phường
Một bàn tay vẫy trên non tuyết
Một tiếng cười vang cả bốn phương
Tôi đọc và nghe khí lạnh toát ra trong từng con chữ! Bài thơ đã vượt lên cái sự hay bình thường. Bài thơ đã đạt đến cái đỉnh lặng và lạnh của khắp cõi nhân gian. Thi ca đã chết trong thời đại cơ khí gầm gào? Tôi cũng chẳng biết nữa! Nhưng khi được đọc những giòng thơ như trên, tận đáy lòng tôi đang dậy lên một niềm bi mẫn khôn cùng.
Cái Đẹp sẽ cứu vãn thế giới. Ai đã nói như thế? Tôi quên mất. Nhưng tôi tin, tin lắm, cho dẫu là niềm tin hình như không có thật giữa thời buổi nhiễu nhương nầy
Ngả Tư Vầng Trăng và những bài thơ khác trong tuyển tập, hương Đời nhiều hơn, thấm đẫm hơn, nhưng chẳng hiểu vì sao, tôi ít xúc động hơn so với Tinh Sương và Đại Mộng, nhất là Tinh Sương
Ta bước lên đường kêu gọi mãi/Nhớ người bạn cũ thuở anh niên
(Xuân Diệu) Ôi cái thuở anh niên đẹp ngất. Ôi cái thuở anh niên một lần rồi thôi, không có chốn quay về. Góc biển xưa, khung trời cũ hanh hao. Qui Nhơn, Qui Nhơn ngập tràn nắng gió, mộng mị của một thời
Trước Sau như Một. Một cái mối Nhất Dĩ Quán của một đời thơ. Thi sĩ, kẻ thọ nhận điêu linh, mỗi người mỗi kiểu, cô liêu cô độc ngút ngàn. Có còn chăng là tiếng đồng vọng của cố nhân bên trời lận đận. Những trận gió bay đi mịt mờ tuổi dại, nhưng vẫn còn đây những giọt nắng của buổi sơ đầu hạnh ngộ.Quỷ ma đưa mãi lời thiên cổ/ Hiu hắt nghìn thu lạnh khí đồng…Tôi chẳng bao giờ dám quên. Vô cùng biết ơn thi sĩ.
Calif, cuối đông 2011
NLV
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét