Thứ Ba, 11 tháng 2, 2014

DỌC ĐƯỜNG - VÕ CHÂN CỬU



           Bài 10
Hoài Niệm Xuân Xa
Tượng đài mới không còn cảnh súng ống và giáo mác chĩa ngang. Hình tượng đã thu gọn. Chỉ một biểu tượng họng súng và bên kia là chiếc cò chờ lảy. 40 năm sau chiến tranh, sự nghi ngại hoặc quy chụp vẫn còn lấp ló đâu đó.

Trên thế giới, cái ác hình như đã được nâng cấp với những loại súng giết người hàng loạt, với bom vi khuẩn…Những câu thơ liệu có còn giúp con người gần nhau không ?
Sau buổi viếng tang một  nhà thơ vừa nằm xuống sau thời gian dài ủ bệnh, chúng tôi dừng lại nghỉ bên lề một đô thị mới. Màu xanh cây trồng và những mặt hồ khiến mọi người khó nghĩ nơi đây xưa kia là bãi chiến trường. Chỉ có màu hoa tím bằng lăng và những chảo truyền hình.
Đã vào cuối năm, người, xe trên phố đều hối hả. Tôi cảm ơn những phút thảnh thơi trên sườn đồi sau khung biệt thự mà người bạn văn nghệ tạo dựng được. Bỗng chuông Viber trên điện thoại reng êm. Một bạn hữu từ bên kia bờ đại dương sau lời chúc Tết nói những lời khá thẳng thắn: “Chúc các ông sẽ viết được nhiều nữa. Nhưng làm sao viết cho thế hệ trẻ mai sau và lới trẻ hôm nay đọc được. Chứ đừng cứ than vãn hay hoài niệm mãi. Mong thay” !
Lời nhắc như nhát dao cứa. Tôi về đem câu nhắc nhở ấy đến cho nhiều bạn làm văn chương. Có người đang chăm bẳm dựng cốt truyện cho những cuộc thi mới phát động. Có người chuyên lục, xào những bài báo để biến thành bút ký để trả nợ cho những ngày được đi giao lưu, nghỉ dưỡng từ nguồn kinh phí mang danh đi thực tế. Người suốt ngày hí hố lên “phây”-(Face book) tự cho mình tự do nhất lập tức ngụy biện rằng ta viết cho muôn đời, trước sau đều có thể đọc, chứ việc gì phải đặt vấn đề cũ rích là “viết cho ai” !
Vô thường !
Tôi giao thiệp khá nhiều lứa cầm bút. Chuyện văn chương mà, “văn mình vợ người” ! Thôi thì “Xấu đẹp tùy người đối diện”. Câu đùa giỡn ngày xưa về những chàng hoặc nàng chuyên tham gia “tìm bạn bốn phương”, không ngờ là cách trả lời khéo nhất để tránh mất lòng nhau. Từ bao năm nay, tôi luôn  nhắc mình không để lệ thuộc vào yêu cầu của các phe nhóm cầm chịch việc đăng tải. Vậy thì nhân dịp hết năm, thử điểm qua vài tác phẩm của những anh em quen biết vậy.
“Dì Lucia”, tập truyện ngắn của Mang Viên Long, cùng tập thơ “Phục Hưng Tôi & Em” của Từ Hoài Tấn phát hành trong tháng 12-2013. Hai tác phẩm được các tác giả gửi gắm nhiều tâm trạng. Cả 2 đều là tác giả quen thuộc, nhiều triển vọng trước năm 1975. Dì Lucia gồm 13 truyện ngắn được Mang Viên Long viết cả trước và sau mốc lịch sử đáng nhớ (1975). Dưới mỗi truyện đều có ghi ngày hoàn thành. Truyện “Những Mùa Trăng Có Nhau” đã đăng trên Tuổi Ngọc, tạp chí dành cho tuổi mới lớn ở Sài Gòn năm 1972; Dì Lucia đăng trên tạp chí Bách Khoa tháng 11-1973. Còn “Điều Bất Ngờ Đã Đến” được viết năm 1985; “Dọc Theo Một Dãy Phố” được sáng tác vào tháng 12-2012.
Người ta dễ nhận ra một Mang Viên Long trước sau như một trong cách hành văn, cách chọn và diễn tả nhân vật. Mang Viên Long khác với một Võ Phiến chi ly khi diễn tả bên ngoài mà lắt léo khi suy diễn nội tâm của con người, sự việc. Anh cũng rất khác với Võ Hồng, vị thầy giáo đôn hậu, chi tiết nào cũng mang tình cảm hướng về cái đẹp. Đó là 2 nhà văn Miền Trung khá gần gũi, nên hình như anh thừa hưởng được sự tinh tế của cả 2 vị. Anh không nói thẳng về nỗi đau mình phải chịu đựng sau ngày “mất dạy”; không oán trách cũng không than thở. Chỉ cho nó trôi đi như dòng đời. Nhưng nếu để ý, người ta nhìn thấy sự mất mát đâu đó làm trái tim tiếc nuối. Trong truyện ngắn “Chim Bay Về Đâu” viết năm 1985, nhân vật cô giáo Thương bị gia đình chồng buộc phải tự nguyện ly hôn vì lý do lý lịch, cho con đường thăng tiến của chồng được thênh thang. Đầu đuôi là 2 anh trai của Thương “vượt biên”. Ai đã sống ở Miền Trung những năm sau ngày hòa bình mới cảm thông được sự dòm ngó, tác động đến “sinh mệnh chính trị” của những người thuộc gia đình có người vượt biên. Cô giáo Thương sau khi ký đơn ly dị, đã bồng con về sống với cha mẹ ruột. Nhưng mỗi tuần cô phải bồng con đến trình diện công an xã một lần ! Cuối cùng nàng chọn cách lẳng lặng bỏ đi xứ khác ở. Bức thư để lại cho cha mẹ viết:
Ngày 23 tháng 10 năm 1978
Kính thưa Ba Má
Con đã đắn đo, suy nghĩ kỹ rồi, con không thể  sống ở nơi đây được nữa, con phải đi đến một nơi xa, thật xa, để kiếm một việc làm,để nuôi con, để có thể giúp đỡ ba má, để khỏi phải chết mòn vì kỷ niệm.
Con có để lại chút ít tiền trong ngăn tủ, ba má hãy cứ lấy ra mà chi tiêu. Con sẽ xin làm bất cứ việc gì để sống, miễn sống xa nơi này. Con xin gửi cháu Hải ở lại với Ba Má. Rồi con sẽ trở về đón cháu khi đã có nơi ăn ở, việc làm ổn định.
………..
Đoạn cuối, Mang Viên Long diễn tả cảnh người thiếu phụ một mình ra khỏi nhà:
“Buổi sớm mai thật tĩnh lặng. Thương thoáng ngước nhìn lên bầu trời, những cánh cò trắng đang chao đi, vỗ cánh lặng lẽ, không biết sẽ dừng nghỉ nơi đâu? Thương chợt dừng lại. nàng quay n hìn quê nhà một lần nữa. Làng xóm đang ngủ thiếp. Vạn vật im ắng, hoang sơ, n hư một thuở đất trời vừa mới được tạo dựng. Thương nghĩ thầm: Trong cõi đất trời mênh mông lạnh buốt này, ta sẽ đi về đâu ?”
Chắc có người đọc truyện này sẽ thốt lên rằng “nỗi khổ đau quá lớn mà tác giả hiền quá” ! Thực ra, ở đoạn trước, tác giả đã cho người cha của Thương nói với vợ: “Bà tưởng tôi là gỗ đá hay sao ? Nhưng bà phải hiểu rằng, trên cõi đời này, không có ai lột da sống đời được cả. Đêm nào bà cũng tụng kinh mà không nhớ lời Đức Phật dạy là: “Vạn vật đều vô thường và khổ đau” sao ?
Quả nhiên vạn vật đều vô thường. Người vượt biên năm xưa, nay trở về sẽ trở thành “Việt Kiều yêu nước”. Nhưng còn nhân vật Thương ? Có lẽ số phận nàng cũng đã bình yên nhưn tác giả. Trong những năm thất nghiệp, Mang Viên Long dựng quầy “sửa khóa, làm chìa”. đêm về anh yên bình viết văn. Từ 2003 anh liên tục xin “liên kết” xuất bản tác phẩm mới. Dì Lucia được NXB Hội Nhà Văn cấp phép, là tác phẩm thứ 18, là tập sách thứ 13 in sau 1975. Sách được tác giả tự phát hành, nhưng nghe đâu cuốn nào cũng thu hồi được đủ tiền in !
Búp vẫn còn non ?
Khác với Mang Viên Long, các bài thơ đưa vào “Phục Hưng Tôi & Em” đều được Từ Hoài Tấn sáng tác trước 1975. Ngoài nhiều tập thơ in chung, năm 2003 và 2012 anh đã xuất bản 2 tập thơ riêng nhưng không để nhiều dấu ấn. Ngược lại, những bài sang tác trước 1975 lại được độc giả đón nhận. Chính nhiều bạn bè, than hữu ở trong nước và nước ngoài đã giúp anh thực hiện tuyển tập thơ này. Một cách hoài niệm chăng ? Hỏi cũng là trả lời.
Có mặt trong tuyển tập “Bông & Giấy” (NXB Lao Động 2010), Từ Hoài Tấn từng được xếp vào các tác giả “hậu hiện đại Việt Nam”. Nhưng đọc Phục Hưng Tôi & Em, người ta lại thấy giọng thơ phá cách của anh đã có từ xưa, như trong bài:
          trên những búp non báo hiệu
          Nơi ấy, nơi tất cả những khổ đau đã mọc thành cây cổ thụ và hoàng
          hôn không bao giờ dời đi  
          Mọi người sống và chết
          Dưới trời cô đơn

          Nơi ấy, nơi những bàn tay rời rã đưa lên không kịp chào
          Giữa hai chuyến xe tốc hành về vực thẳm
          Những người yêu nhau trong một thời đại cuối cùng
          Không bao giờ  nữa
          Không bao giờ nữa

          Nơi ấy, nơi những chùm hoa đầy giọt độc
          Là thức ăn từng ngày của mọi người
          Hãy vui sước hãy ca hát
          Hãy xum xoe hãy đòa giỡn
          Trong bóng tối của lưỡi hái khổng lồ
          Cái chết khôn g ngừng bủa xuống
          Cùng với lời kêu gọi
          Cùng với lời ca ngợi
          Những chùm nho thành sủng
          Nơi ấy, có những điều nghe không được nói không được
          Và phải bịt chặt hai lỗ tai phải khâu lại mồm mép
          Con mắt đượic chế tạo sẵn trưng bày ở các cửa hàng
Cùng những hình nhân  qua lại trong lồng kiếng

Nơi ấy không có gì để nói
Nhưng
Trên những búp non vừa mới thấy đêm qua
Trong khu vườn của loài hoa tội ác
Như báo hiệu một điều gì
                                                                          (1969)
         (Lưu ý : tựa bài không viết hoa)
Qua Từ Hoài Tấn, tập thơ này cho thấy mọi phân định, gán ghép về trường phái đều khiên cưỡng. Sau trường thơ tự do mà Thanh Tâm Tuyền khởi xưởng, nhiều nhà thơ Việt Nam cũng biết nhìn sự vật với cặp mắt sắp đặt sự vật. Cái bí của các nhà thơ tự nhận là đang “đương đại” là đã không thấy hết dòng chảy thơ ca Miền Nam 1954-1975. Phải chăng búp thơ năm nào nay vẫn còn non ?
          “…Phê bình đã bỏ quên thơ Miền Nam sau 1954-đây là mảng rất quan trọng. Thơ hiện nay vẫn nằm trong lãnh địa mà thơ Miền Nam cũ tạo ra…Thơ hôm nay đang cố vươn lên thơ Miền Nam trước đây và thơ chống Mỹ.”
                                                                      Nguyễn Thụy Kha
                                                         ( trích từ Tạp chí Văn học số 1-1994)
Trong những ngày tất niên Quý Tỵ, tôi muốn trích những dòng mà  nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Thụy Kha ở đất Bắc đã viết từ 20 năm trước để tạm dừng chuyện “Dọc Đường”.
                                                                                                Võ Chân Cửu

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét