Bài 10
Hoài
Niệm Xuân Xa
Tượng
đài mới không còn cảnh súng ống và giáo mác chĩa ngang. Hình tượng đã thu gọn.
Chỉ một biểu tượng họng súng và bên kia là chiếc cò chờ lảy. 40 năm sau chiến
tranh, sự nghi ngại hoặc quy chụp vẫn còn lấp ló đâu đó.
Trên
thế giới, cái ác hình như đã được nâng cấp với những loại súng giết người hàng
loạt, với bom vi khuẩn…Những câu thơ liệu có còn giúp con người gần nhau không ?
Sau
buổi viếng tang một nhà thơ vừa nằm xuống
sau thời gian dài ủ bệnh, chúng tôi dừng lại nghỉ bên lề một đô thị mới. Màu
xanh cây trồng và những mặt hồ khiến mọi người khó nghĩ nơi đây xưa kia là bãi
chiến trường. Chỉ có màu hoa tím bằng lăng và những chảo truyền hình.
Đã
vào cuối năm, người, xe trên phố đều hối hả. Tôi cảm ơn những phút thảnh thơi
trên sườn đồi sau khung biệt thự mà người bạn văn nghệ tạo dựng được. Bỗng
chuông Viber trên điện thoại reng êm. Một bạn hữu từ bên kia bờ đại dương sau lời
chúc Tết nói những lời khá thẳng thắn: “Chúc các ông sẽ viết được nhiều nữa.
Nhưng làm sao viết cho thế hệ trẻ mai sau và lới trẻ hôm nay đọc được. Chứ đừng
cứ than vãn hay hoài niệm mãi. Mong thay” !
Lời
nhắc như nhát dao cứa. Tôi về đem câu nhắc nhở ấy đến cho nhiều bạn làm văn
chương. Có người đang chăm bẳm dựng cốt truyện cho những cuộc thi mới phát động.
Có người chuyên lục, xào những bài báo để biến thành bút ký để trả nợ cho những
ngày được đi giao lưu, nghỉ dưỡng từ nguồn kinh phí mang danh đi thực tế. Người
suốt ngày hí hố lên “phây”-(Face book) tự cho mình tự do nhất lập tức ngụy biện
rằng ta viết cho muôn đời, trước sau đều có thể đọc, chứ việc gì phải đặt vấn đề
cũ rích là “viết cho ai” !
Vô thường !
Tôi
giao thiệp khá nhiều lứa cầm bút. Chuyện văn chương mà, “văn mình vợ người” ! Thôi
thì “Xấu đẹp tùy người đối diện”. Câu đùa giỡn ngày xưa về những chàng hoặc
nàng chuyên tham gia “tìm bạn bốn phương”, không ngờ là cách trả lời khéo nhất
để tránh mất lòng nhau. Từ bao năm nay, tôi luôn nhắc mình không để lệ thuộc vào yêu cầu của
các phe nhóm cầm chịch việc đăng tải. Vậy thì nhân dịp hết năm, thử điểm qua
vài tác phẩm của những anh em quen biết vậy.
“Dì
Lucia”, tập truyện ngắn của Mang Viên Long, cùng tập thơ “Phục Hưng Tôi &
Em” của Từ Hoài Tấn phát hành trong tháng 12-2013. Hai tác phẩm được các tác giả
gửi gắm nhiều tâm trạng. Cả 2 đều là tác giả quen thuộc, nhiều triển vọng trước
năm 1975. Dì Lucia gồm 13 truyện ngắn được Mang Viên Long viết cả trước và sau mốc
lịch sử đáng nhớ (1975). Dưới mỗi truyện đều có ghi ngày hoàn thành. Truyện “Những
Mùa Trăng Có Nhau” đã đăng trên Tuổi Ngọc, tạp chí dành cho tuổi mới lớn ở Sài
Gòn năm 1972; Dì Lucia đăng trên tạp chí Bách Khoa tháng 11-1973. Còn “Điều Bất
Ngờ Đã Đến” được viết năm 1985; “Dọc Theo Một Dãy Phố” được sáng tác vào tháng
12-2012.
Người
ta dễ nhận ra một Mang Viên Long trước sau như một trong cách hành văn, cách chọn
và diễn tả nhân vật. Mang Viên Long khác với một Võ Phiến chi ly khi diễn tả
bên ngoài mà lắt léo khi suy diễn nội tâm của con người, sự việc. Anh cũng rất
khác với Võ Hồng, vị thầy giáo đôn hậu, chi tiết nào cũng mang tình cảm hướng về
cái đẹp. Đó là 2 nhà văn Miền Trung khá gần gũi, nên hình như anh thừa hưởng được
sự tinh tế của cả 2 vị. Anh không nói thẳng về nỗi đau mình phải chịu đựng sau
ngày “mất dạy”; không oán trách cũng không than thở. Chỉ cho nó trôi đi như
dòng đời. Nhưng nếu để ý, người ta nhìn thấy sự mất mát đâu đó làm trái tim tiếc
nuối. Trong truyện ngắn “Chim Bay Về Đâu” viết năm 1985, nhân vật cô giáo
Thương bị gia đình chồng buộc phải tự nguyện ly hôn vì lý do lý lịch, cho con
đường thăng tiến của chồng được thênh thang. Đầu đuôi là 2 anh trai của Thương
“vượt biên”. Ai đã sống ở Miền Trung những năm sau ngày hòa bình mới cảm thông
được sự dòm ngó, tác động đến “sinh mệnh chính trị” của những người thuộc gia
đình có người vượt biên. Cô giáo Thương sau khi ký đơn ly dị, đã bồng con về sống
với cha mẹ ruột. Nhưng mỗi tuần cô phải bồng con đến trình diện công an xã một
lần ! Cuối cùng nàng chọn cách lẳng lặng bỏ đi xứ khác ở. Bức thư để lại cho
cha mẹ viết:
Ngày
23 tháng 10 năm 1978
Kính
thưa Ba Má
Con
đã đắn đo, suy nghĩ kỹ rồi, con không thể
sống ở nơi đây được nữa, con phải đi đến một nơi xa, thật xa, để kiếm một
việc làm,để nuôi con, để có thể giúp đỡ ba má, để khỏi phải chết mòn vì kỷ niệm.
Con
có để lại chút ít tiền trong ngăn tủ, ba má hãy cứ lấy ra mà chi tiêu. Con sẽ
xin làm bất cứ việc gì để sống, miễn sống xa nơi này. Con xin gửi cháu Hải ở lại
với Ba Má. Rồi con sẽ trở về đón cháu khi đã có nơi ăn ở, việc làm ổn định.
………..
Đoạn cuối, Mang Viên
Long diễn tả cảnh người thiếu phụ một mình ra khỏi nhà:
“Buổi sớm mai thật tĩnh lặng. Thương
thoáng ngước nhìn lên bầu trời, những cánh cò trắng đang chao đi, vỗ cánh lặng
lẽ, không biết sẽ dừng nghỉ nơi đâu? Thương chợt dừng lại. nàng quay n hìn quê
nhà một lần nữa. Làng xóm đang ngủ thiếp. Vạn vật im ắng, hoang sơ, n hư một
thuở đất trời vừa mới được tạo dựng. Thương nghĩ thầm: Trong cõi đất trời mênh
mông lạnh buốt này, ta sẽ đi về đâu ?”
Chắc
có người đọc truyện này sẽ thốt lên rằng “nỗi khổ đau quá lớn mà tác giả hiền
quá” ! Thực ra, ở đoạn trước, tác giả đã cho người cha của Thương nói với vợ: “Bà tưởng tôi là gỗ đá hay sao ? Nhưng bà phải
hiểu rằng, trên cõi đời này, không có ai lột da sống đời được cả. Đêm nào bà
cũng tụng kinh mà không nhớ lời Đức Phật dạy là: “Vạn vật đều vô thường và khổ
đau” sao ?
Quả
nhiên vạn vật đều vô thường. Người vượt biên năm xưa, nay trở về sẽ trở thành
“Việt Kiều yêu nước”. Nhưng còn nhân vật Thương ? Có lẽ số phận nàng cũng đã
bình yên nhưn tác giả. Trong những năm thất nghiệp, Mang Viên Long dựng quầy “sửa
khóa, làm chìa”. đêm về anh yên bình viết văn. Từ 2003 anh liên tục xin “liên kết”
xuất bản tác phẩm mới. Dì Lucia được NXB Hội Nhà Văn cấp phép, là tác phẩm thứ
18, là tập sách thứ 13 in sau 1975. Sách được tác giả tự phát hành, nhưng nghe
đâu cuốn nào cũng thu hồi được đủ tiền in !
Búp vẫn còn non ?
Khác
với Mang Viên Long, các bài thơ đưa vào “Phục Hưng Tôi & Em” đều được Từ
Hoài Tấn sáng tác trước 1975. Ngoài nhiều tập thơ in chung, năm 2003 và 2012
anh đã xuất bản 2 tập thơ riêng nhưng không để nhiều dấu ấn. Ngược lại, những
bài sang tác trước 1975 lại được độc giả đón nhận. Chính nhiều bạn bè, than hữu
ở trong nước và nước ngoài đã giúp anh thực hiện tuyển tập thơ này. Một cách
hoài niệm chăng ? Hỏi cũng là trả lời.
Có
mặt trong tuyển tập “Bông & Giấy” (NXB Lao Động 2010), Từ Hoài Tấn từng được
xếp vào các tác giả “hậu hiện đại Việt Nam”. Nhưng đọc Phục Hưng Tôi & Em,
người ta lại thấy giọng thơ phá cách của anh đã có từ xưa, như trong bài:
trên những búp non báo hiệu
Nơi
ấy, nơi tất cả những khổ đau đã mọc thành cây cổ thụ và hoàng
hôn không bao giờ dời đi
Mọi người sống và chết
Dưới trời cô đơn
Nơi ấy, nơi những bàn tay rời rã đưa
lên không kịp chào
Giữa hai chuyến xe tốc hành về vực thẳm
Những người yêu nhau trong một thời đại
cuối cùng
Không bao giờ nữa
Không bao giờ nữa
Nơi ấy, nơi những chùm hoa đầy giọt độc
Là thức ăn từng ngày của mọi người
Hãy vui sước hãy ca hát
Hãy xum xoe hãy đòa giỡn
Trong bóng tối của lưỡi hái khổng lồ
Cái chết khôn g ngừng bủa xuống
Cùng với lời kêu gọi
Cùng với lời ca ngợi
Những chùm nho thành sủng
Nơi ấy, có những điều nghe không được
nói không được
Và phải bịt chặt hai lỗ tai phải khâu
lại mồm mép
Con mắt đượic chế tạo sẵn trưng bày ở
các cửa hàng
Cùng những hình nhân qua lại trong lồng kiếng
Nơi ấy không có gì để nói
Nhưng
Trên những búp non vừa mới thấy đêm
qua
Trong khu vườn của loài hoa tội ác
Như báo hiệu một điều gì
(1969)
(Lưu
ý : tựa bài không viết hoa)
Qua
Từ Hoài Tấn, tập thơ này cho thấy mọi phân định, gán ghép về trường phái đều
khiên cưỡng. Sau trường thơ tự do mà Thanh Tâm Tuyền khởi xưởng, nhiều nhà thơ Việt
Nam cũng biết nhìn sự vật với cặp mắt sắp đặt sự vật. Cái bí của các nhà thơ tự
nhận là đang “đương đại” là đã không thấy hết dòng chảy thơ ca Miền Nam
1954-1975. Phải chăng búp thơ năm nào nay vẫn còn non ?
“…Phê
bình đã bỏ quên thơ Miền Nam sau 1954-đây là mảng rất quan trọng. Thơ hiện nay
vẫn nằm trong lãnh địa mà thơ Miền Nam cũ tạo ra…Thơ hôm nay đang cố vươn lên
thơ Miền Nam trước đây và thơ chống Mỹ.”
Nguyễn
Thụy Kha
( trích từ Tạp chí Văn học số 1-1994)
Trong
những ngày tất niên Quý Tỵ, tôi muốn trích những dòng mà nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Thụy Kha ở đất Bắc đã
viết từ 20 năm trước để tạm dừng chuyện “Dọc Đường”.
Võ Chân Cửu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét