Kỳ 19
Con Chữ Nhạt
Phai
Giọt nước khá
nhẹ nhàng và êm đềm; nhưng lâu ngày
chúng có thể làm bong rỗ cả mặt đường bê tông. Con chữ cũng vậy, âm
thanh dìu dặt bổng trầm, tạo nên những nhịp điệu, có thể làm lòng người say mê
đến muôn đời…
Nhưng người làm thơ có một
ngày đã thấy: nếu cứ ôm mãi một tiết tấu, thì dòng thơ có khi lại đi vào ngõ
cụt.
Chuẩn bị sang thập niên ’70
của thế kỷ 20, dòng thơ ca ở Miền Nam như phân thêm nhiều nhánh rẽ. Cảm hứng
từ cõi siêu nhiên gần như đã không còn
độc quyền, dù là từ Thiền học hay là sự cứu rỗi của Thượng Đế. Hơi thở hiện
sinh từ các nhóm Hiện Đại, Văn Nghệ, Nghệ Thuật qua âm hưởng của Nguyên Sa,
Cung Trầm Tưởng, Viên Linh, Du Tử Lê…đã gảm dần sự thu hút với lớp trẻ. Cánh
cửa êm đềm của cõi tịnh độ qua những vần điệu ru người của Nhất Hạnh, Phạm
Thiên Thư… gần như sắp nhạt xa. Những tiếng la hét lập dị kiểu “tôi nguyền rủa
mặt trăng, thù ghét mặt trời…” như kiểu Phạm Công Thiện, Nguyễn Đức Sơn… cũng
làm chính những người tuyên bố tự thấy trở nên lố bịch, nên trở lại hòa nhã
hơn. Dòng thơ phản kháng, chối bỏ cuộc chiến lại không thể diễn tả hết sự bất
lực của con người trước tai họa của chiến tranh, dù có người như Trần Đắc
Thắng, cố tình mở đầu mỗi bài thơ bằng
tiếng chửi thề với hai chữ “Đ.M.”
Cái đẹp thường trụ
Trong nghĩa nào đó, thì
những người làm thơ có nội lực những tháng năm này đã không muốn sa vào sự “uốn
éo” hoặc làm dáng nữa. Họ tìm sự rung động và diễn tả nó bằng những âm điệu của
riêng mình, tất nhiên vẫn cố tạo giòng thơ riêng.
·
Lê Nghị
Liễu Trăng Vàng
Ta nghe vắng
trên đồi mây dưới lá
Hoàng hôn về
tiếp bụi nối vu vơ
Ngàn tiếng kèn
hội xưa chiều giục giã
Rừng bên kia
khói núi gọi sương mờ
Ta đứng lại
giữa thu bay thường trụ
Dòng tiếp dòng
nắng hạ mới qua đây
Và em đã vết
chân mùa gió bụi
Thôi còn đâu
một chút nắng hao gầy
Thôi em nhé
ngàn thông hồ tịch thủy
Lưỡi trăng
vàng đáy nước đẹp chiêm bao
Gió có đến
trận bão cuồng tàn hủy
Thì ven khe
lại nở nụ anh đào
(1972)
Nhà thơ Lê Nghị, tác giả bài
thơ khá đẹp trên lúc bấy giờ là đang một tu sĩ Phật giáo chính hiệu. “Chính
hiệu” theo nghĩa không mang “khẩu Phật-tâm xà”, hay “mặc áo nhà sư-tay ôm chồng
sách triết” vào quán cà phê để làm dáng. Lúc này Lê Nghị ở một cốc riêng trong
chùa Vạn Thọ-Tân Định. Thi sĩ Phạm Thiên Thư cũng đang khoác áo tu tại đây.
Nhưng đi vào cõi thơ thì có lẽ mỗi người theo một cách. Thi sĩ Lê Nghị vẫn hay
ghé lại nhà trọ tôi ở để chuyện trò (Nhằm khi tôi chưa nhận lương gia sư mà lại
thèm uống bia, ông vẫn sẵn sàng lục đãy lấy ra ít tiền, và không hề khuyên tôi
phải…giữ giới).
Bài thơ “Liễu Trăng Vàng”
cho thấy tác giả chịu ảnh hưởng triết học Phật giáo, đưa cả ngôn ngữ nhà Phật,
như “thường trụ” vào câu thơ. Nhưng
nhà thơ đã không nhằm “thi hóa” việc hành đạo mà diễn tả cái đẹp bất tử mà
trong những giây khắc hiếm hoi, con người có thể nhìn thấy. Một thời gian dài
sau ’75 không có dịp gặp lại nhau, nên không rõ việc ông hoàn tục có phải vì lý
do thời cuộc ? Tôi và các bạn văn chỉ hay ông rất yên ổn theo nghề dạy học. Nghe
đâu vẫn tiếp tụcsáng tác, nhưng không hề xuất hiện trên bất cứ tờ báo văn nghệ
nào. Bài thơ “Liễu Trăng Vàng” hiện diện trên cả 2 tuyển tập: Thơ tình Miền Nam
của Thư Ấn Quán và Thơ Tình Nam ’75 của
mạng“gio-o”; nhưng 2 nơi lại
có một vài từ khác nhau. Ở câu mở đầu là “nghe
vắng” với “nghe vẳng”; ở câu áp
chót là “bão cuồng” với “bạo
cuồng”, xin đưa ra với sự tồn nghi.
Mối tình
“không”
Bài thơ này trong sưu tập
của “gio-o” ghi rõ rằng nguồn: Tập san Tư Tưởng, số tháng
5-1972. Người chọn thơ của Tập san bấy giờ là vị Thư ký tòa soạn ẩn danh: Đại
đức Thích Chơn Hạnh, tức nhà thơ Trần Xuân Kiêm. Sau biến cố ’75, nhà sư này
cũng hoàn tục, nhưng bước hẳn vào lĩnh vực nghiên cứu khoa học xã hội. Ông lấy
bằng tiến sĩ kinh tế ở một Trường Đại học Hoa Kỳ năm 2001.
Thi sĩ Trần Xân Kiêm đến nay
không công bố bài thơ nào mới làm, nhưng nhiều người đọc vẫn nhắc, vẫn thuộc
lòng những bài thơ tình buồn mà ông làm từ đất B’Lao trước đó.
* Trần Xuân Kiêm
Thuở Xa Người
Một sớm người đi theo mây
bay
Ta say nằm lạnh buốt đêm dài
Tỉnh ra thấy cụm hoa đầu ngõ
Ta vẫn còn, hay nỗi tàn phai?
Ta say nằm lạnh buốt đêm dài
Tỉnh ra thấy cụm hoa đầu ngõ
Ta vẫn còn, hay nỗi tàn phai?
Nửa đêm tỉnh dậy thấy sao
rơi
Ta nghĩ người đang ở cuối trời
Ơi những đám mây còn lãng tử
Xin để hồn chùng trong đêm khơi
Ta nghĩ người đang ở cuối trời
Ơi những đám mây còn lãng tử
Xin để hồn chùng trong đêm khơi
Ôi má người từ nay thôi hồng
Gió cũng trầm thương tóc thôi hong
Mai sau thoảng nhớ mây vườn cũ
Ta yêu người bằng mối tình không
Gió cũng trầm thương tóc thôi hong
Mai sau thoảng nhớ mây vườn cũ
Ta yêu người bằng mối tình không
Là dịch giả của nhiều sách triết lý và văn học thời thượng vào những năm trước và sau 1970, nhưng tuyệt nhiên trong bài thơ tình nêu trên, Trần Xuân Kiêm không hề đá động gì đến cõi siêu hình hay khát vọng giải thoát. Câu thơ mang mùi “suy tư” duy nhất là “Ta vẫn còn, hay nỗi tàn phai”. Nhưng ở đây, nỗi “tàn phai” được nhắc đến khi nhà thơ thấy “cụm hoa đầu ngõ”. Tàn phai không phải vì kiếp người mong manh mà là “nỗi tàn phai” của tình yêu ! Nhà thơ mang cảm giác buồn vì “má người từ nay thôi hồng”. Tình cảm chân thật được diễn tả bằng thứ ngôn ngữ chân thật, đã làm lay động lòng người xiết bao. Soi toàn bài và xét thật kỹ từng câu, người đọc càng nhận ra thêm tài thơ của ông: không để cho âm điệu ngôn ngữ dẫn dụ, dẫn dắt vào cõi mê hồn, cũng không trưng những hình ảnh kỳ bí hay huyền hoặc. Nhịp thơ thất ngôn ở đây cũng không khác biệt với các bài thơ tình mà nhiều người đã làm. Câu thơ kết thúc nói với người đọc về một “mối tình không”-hiểu thông thường là “tình yêu đơn phương”, nhưng người đồng cảm dễ nhận ra nỗi đau của người thi sĩ, khi: “một sớm người đi theo mây bay”.
Ở một số bài thơ tình làm bằng thể lục bát, Trần Xuân Kiêm cũng vài lần diễn giải về “mối tình câm” này. Như qua bài:
Vườn trăng
áo người in một tà trăng
bay trong huyễn mộng cuối vườn tịch liêu
lạnh hồn xưa tiếng chim kêu
trăm bông quỳnh ngủ đìu hiu lá cành
ta ngồi im bóng đêm thanh
yêu em vô lượng cũng đành câm hơi
bay trong huyễn mộng cuối vườn tịch liêu
lạnh hồn xưa tiếng chim kêu
trăm bông quỳnh ngủ đìu hiu lá cành
ta ngồi im bóng đêm thanh
yêu em vô lượng cũng đành câm hơi
Cái đẹp của nghệ thuật thơ ca quả là vô bờ
bến. Nhưng cái tình, tức sự chân thật trong tỏ bày xúc cảm của nhà thơ, có khi
lại quyết định cho sự in bóng của tác phẩm qua bao năm tháng.
cõi vô ngôn
Có thể là một ngẫu nhiên khi trong Tản Mạn
kỳ này, tôi đã đưa quý bạn đến với 2 người bạn vong niên làm thơ, lúc họ đang
còn là tu sĩ Phật giáo (nay cả 2 đều trở về với đời). Tôi xin được nói thêm
luôn về vị tu sĩ làm thơ thứ 3 khá thân thiết: nhà thơ Nguyễn Đức Nhân. Anh vốn
cùng hoạt động văn học cùng thời. Nhưng cuộc đời riêng của vị thi sĩ này…ly kỳ
hơn. Ông xuất gia từ thuở còn nhỏ, đã thành danh trong làng văn khi đang mặc áo
nhà sư. Sau 1975, ông trở lại nhập thế. Nhưng sau năm 2000, khi con cái đã
trưởng thành, Nguyễn Đức Nhân lại xuất gia lần 2. Trở về dưới mái chùa, ông
hiện trụ trì một ngôi chùa của phái Phật giáo Nguyên thủy trên miền núi cao
vùng biên giới Thái Lan-Myanma !
Năm 1970, từ những bài ngũ ngôn tứ tuyệt đầu tiên in trên
Tập san Văn, nhà sư đạo hạnh này đã biết làm thơ tình.
·
Nguyễn Đức Nhân
Buồn Thấm
Một mình trong hiên vắng
Bên rào ấy sứ xưa
Em trồng chi bông trắng
Anh chảy dài theo mưa.
( Tập san Văn)
Người tinh ý dễ thấy xu hướng cõi đạo của
ông, cả khi ông mượn hình ảnh người con gái để diễn cảm. Về sau, nó xuất hiện
cả trong những vần lục bát nhuần nhuyễn:
Đến Di Linh Cảm
Tác
Qua
rừng nhớ áo em xanh
Lệ
xưa em đẫm hồn anh bạc màu
Thu
sang vàng một cơn đau
Mù
sương anh gửi mai sau tặng ngưởi
Tuổi
xuân anh mấy nụ cười
Và,
tóc xanh khéo ngậm ngùi phố xưa
Tây
nguyên mai nắng chiều mưa
Đời
anh một tiếng gà trưa điếng hồn.
(Tập san Thời Tập-1974)
“Tây nguyên” trong bài là lúc ông cùng tôi
về Bảo Lộc. Tiếng gà trưa từng khiến cho nhiều người nao lòng, dứt cơn nghĩ
ngợi mông lung. Nhưng tiếng gà làm cho một người điếng hồn, có lẽ là lần đầu
tiên được nhà thơ Nguyễn Đức Nhân diễn tả. Trong một thư điện tử gần nhất,
Nguyễn Đức Nhân khẳng định với tôi và Nguyễn Lương Vỵ rằng anh chưa bao giờ qua
thơ để so đọ về tài năng. Vì đó là cõi thị phi của làng văn nghệ. Những con chữ
rồi cũng sẽ nhạt phai. Và điều anh để tâm nhất là: “làm sao có thể từ thơ đến
được với cõi vô ngôn”.
Ở ý này, tôi rất tâm đắc với những điều mà
Giáo sư Sture Allen đã thay mặt Viện Hàn Lâm Thụy Điển đọc diễn từ Tuyên dương
Joseph Brodsky, nhà thơ Nga có quốc tịch Mỹ, tại lễ trao giải Nobel văn chương
năm 1987: “…Chiều kích tôn giáo mà ta
nhất định có thể tìm thấy trong tác phẩm của ông (J.Brodsky) không gắn liền với
một tín điều cụ thể nào…”
Lời Thưa:
* Sau 19 kỳ, Tản Mạn “Mặt Tiền
Nghệ Thuật” xin tạm ngừng lên mạng. Mong
người đọc thông cảm khi một số hình tượng có trùng lập với Tản mạn “Chắp Tay Dòng Đời”. Xin được
xem đây là tiếp nối của tập sách “Võ Chân Cửu 22 Tản
Mạn” (đã phát hành tháng 6-2013).
* “Mặt Tiền Nghệ Thuật” với
các phần còn lại khá xúc tích (6 chương) hy vọng sẽ trở thành ấn bản vào cuối
năm 2013.
Võ Chân Cửu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét