Về đi thôi !
Chim bìm bịp
không có giọng hót hay, nhưng trên những cành ngang nhô ngoài lùm
bụi ven suối,
chúng vẫn nhoài thân để khoe bộ cánh vàng nâu, vỗ nhẹ trước khi bay
tìm bạn.
Nhưng năm nay sau mấy ngày nghỉ tết, trở về mảnh vườn hoang, tôi không
còn gặp hình
bóng thân quen ấy nữa…
Bìm bịp
chuyên săn tìm rắn lục. Nó mổ ngay huyệt hiểm trên lưng cho con
rắn lục rồi
đưa chân gắp lên nuốt sống. Có lẽ nhờ vậy nên loài chim này có bộ
xương cốt rất
dẻo dai. Loài người thấy vậy quyết tìm cách bắt nó đem về ngâm
rượu. Có mặt
tôi, những kẻ săn, bẫy chim đều bị cấm cửa. Hay chúng đã lần lượt
thiên di, vì
trước đó nữa tôi đã đi vắng khá lâu ?
Cũng như
chim và muôn loài động thực vật khác, con người thường không
thấy hạnh
phúc khi bị tước mất sinh cảnh của mình. Gửi lòng làm nên một bài thơ,
đi tìm bạn
tri âm để đọc nghe, hoặc đưa đăng trên một tạp chí định kỳ để nhiều
người đọc, cảm
nhận…là một trong những cái sướng trên đời, tương đương như
khi được gặp,
được thấy người mình thương nhớ. Nhưng đã gần 38 năm, với nhiều
người làm
văn chương ở Miền Nam, niềm vui sướng ấy không còn nữa. Lịch sử
khắc nghiệt
đã làm một cuộc chia lìa định mệnh. Nhiều người khi bỏ nước ra đi,
hành trang
quý nhất là những bản thảo còn dang dở, chưa in. Lắm kẻ ở lại, trước
trang giấy
phải uốn từng câu chữ, đổi lại bút danh, hoặc “tự nguyện” viết lên rằng
mình được
“sinh ra lần thứ hai”.
Một nhà thơ
khá quen thuộc ở đất Tuy Hòa ngày trước có đời sống khá giả
từ kinh
doanh. Ông từng đứng chủ trương nhà xuất bản Đồng Dao, chuyên in các
tác phẩm của
anh em văn nghệ miền Trung. Sau biến cố tháng 4-75, anh ta trở
thành một
người viết mang tên mới, đem trình với giới cầm quyền những sáng tác
mới rặt hơi
hướm của Chế lan Viên thời đánh Mỹ. Không lâu sau, anh liền được
kết nạp vào
Hội nhà văn, rồi leo tên tới ghế Phó chủ tịch Hội văn nghệ tỉnh. Nhưng
đến nay, tên
tuổi ông không còn được ai, cả ở trong Nam lẫn ngoài Bắc nhắc đến.
Văn chương
khác với nghề mua bán. Câu nói ấy từ xưa nhưng nay vẫn không sai.
Trong khi đó
từ khoảng giáp thập niên 1980, người đọc ở cả trong, ngoài
nước đã truyền
tụng một bài thơ hay, khá xúc động của Du Tử Lê:
KHI TÔI CHẾT
HÃY ĐEM TÔI RA BIỂN
Khi tôi chết
hãy đem tôi ra biển
đời lưu vong
không cả một ngôi mồ
vùi đất lạ
thịt xương e khó rã
hồn không đi
sao trở lại quê nhà
Khi tôi chết
hãy đem tôi ra biển
nước ngược
dòng sẽ đẩy xác trôi đi
bên kia biển
là quê hương tôi đó
rặng tre xưa
muôn tuổi vẫn xanh rì
Khi tôi chết
hãy đem tôi ra biển
và nhớ đừng
vội vuốt mắt cho tôi
cho tôi hướng
vọng quê tôi lần cuối
biết đâu chừng
xác tôi chẳng đến nơi
Khi tôi chết
hãy đem tôi ra biển
đừng ngập ngừng
vì ái ngại cho tôi
những năm
trước bao người ngon miệng cá
thì sá gì
thêm một xác cong queo
Khi tôi chết
hãy đem tôi ra biển
cho tôi về gặp
lại các con tôi
cho tôi về
nhìn thấy lệ chúng rơi
từ những mắt
đã buồn hơn bóng tối
Khi tôi chết
hãy đem tôi ra biển
và trên đường
hãy nhớ hát quốc ca
ôi lâu quá
không còn ai hát nữa
(bài hát giờ
cũng như một hồn ma)
Khi tôi chết
nỗi buồn kia cũng hết
đời lưu vong
tận tuyệt với linh hồn.
(12-1977)
Du Tử Lê gần
như là nhà thơ không xếp vào “trường phái” nào. Sinh năm
1942, ông có
thơ đang trên mo655 vài tạp chí văn nghệ ở Saigon, mới vừa 17-18 tuổi, rồi trở
thành người
có thơ được
các nhạc sĩ tài hoa phổ nhạc nhiều nhất. Đến nay ông vẫn nổi tiếng với
những bài
thơ tình mới làm. Ngôn ngữ thơ Du Tử Lê diễn tả được đến từng chi tiết
cảm xúc về
cái đẹp, nhất là từ thân xác, như câu “ơn em ngực ngải môi trầm”. Nó
làm những
người đang yêu có thể thăng hoa từ nỗi đau quằn quại. Bài thơ của “một
người lưu
vong” ở thời đểm này không hề đao to búa lớn, hay mạt sát chửi rủa vì
thua cuộc,
mà nói lên nỗi buồn đau khi phải xa đất nước : “Bên kia biển là quê
hương tôi
đó…”. Bài thơ này sau khi được nhiều người chép tay qua làn sóng điện
radio, đã được
các “nhà phê bình văn học” dẫn đăng lại trên các báo chính thống.
Những năm
này ở trong nước, một trong những người bị tước mất sinh cảnh
văn nghệ là
Nguyễn Đức Sơn. Ông đã đưa vợ và con cái lên sinh sống tại một
vùng rừng
hoang vu. Có lần, ông đã được chính quyền nửa đêm đến mời về đồn,
hình như vì
lý do “chưa khai báo làm sổ hộ khẩu”. Khi diện kiến vị Đại diện nhà
chức trách vốn
là một cây bút tranh đấu ở tại tỉnh lỵ B’Lao cũ, nay hiện nguyên
hình một ông
“Cách mạng 30”, Nguyễn Đức Sơn đã mỉa mai rằng : “Làm cách
mạng như các
anh thì phải có cái gì mới chứ ! Nếu lại vẫn “bắt nhốt”, thì ngày
trước khi
còn trốn lính, tôi đã từng gặp rồi” !
Sau đó là một
bài thơ cảm thán, mở đầu với 2 tiếng chửi thề:
Đụ mẹ
Cây bông
Hắn không
Lao động
Ai trồng
Chật chỗ
Mày nhổ
Xem sao
Máu trào
Thiên cổ
Nguyễn Đức
Sơn sinh năm 1937 ở một vùng biển Ninh Thuận. Ông cũng đã
có thơ đăng
trên Tạp chí Sáng Tạo từ khi còn rất trẻ (với bút hiệu Sao Trên Rừng).
Ông là người
làm văn nghệ độc lập, rất đúng như hình ảnh mà người bạn Bửu Ý đã
diễn tả trên
một tờ Tạp chí Văn năm 1973: “Hình ảnh của con tê giác, từ tính tình
đến cách ăn
nói, dáng đi…Chỉ thong dong ở chốn không người: rừng và biển…”
Ở trong nước,
không phải mang “nỗi buồn xa xứ” vì có được thiên nhiên,
cảnh vật
hoang dại do mình lựa chọn. Nhưng có lẽ vì mất đi sinh cảnh văn chương,
nên “con tê
giác lầm lũi” ấy nhiều lần cũng đã nổi khùng. Có ai ngờ cái con người
từng có những
năm tháng nương nhờ cửa Phật như ông, lại dùng đến những từ ngữ
khá thô lỗ
khi đến thăm một cửa Thiền (vì tế nhị, tôi xin không ghi đầy đủ tựa đề
của bài thơ)
:
Thăm Thiền
viện
Về đi thôi,
kiếm chỗ nằm
Mõ chuông
đang nện, trăng rằm ngất ngư
Thiền sư ăn
thịt thiền sư
Niết bàn nhiều
giống, chân như nhiều nòi.
Tim teo tóp,
trí cọc còi
Ma đang thuyết
pháp, quỷ đòi giảng kinh.
Này em, tịnh
thủy một bình
Cửa không ai
viếng, cửa mình anh thăm !
Bài thơ gần
như chỉ được truyền khẩu, nhưng được nhiều người nhớ. Vì
hai câu kết
nghe như xúc phạm đến đấng linh thiêng. Hai chữ “cửa mình” vốn rất
tục, nhưng ở
đây có người lại rất đắc địa, vì ông dùng diễn tả với nhiều nghĩa, như
một… “công
án” thơ. Bài thơ biểu lộ tính cách rất Nguyễn Đức Sơn, sau khi ông
đã than là:
Về đi thôi…
Vạn ngã “Về”
Trước những
nghiệt ngã khi chứng kiến những chuyện đời : những người “tu
có lương”
chuyên nghề thuyết pháp, giảng kinh ở trong nước; hay các nhà chuyên
hô hào “vận
động” để quyên tiền ủng hộ ở nước ngoài, thì chốn nào là cõi riêng
cho người
mang nghiệp văn chương ?
Đi về sao chửa
về đi ?
Nhà hoang vườn
rậm còn chi không về
Đem tâm để
hình kia sai khiến
Còn ngậm
ngùi than vãn với ai…
(Bản dịch
Đào Tiềm-Quy khứ lai từ)
“Về” của các
thi sĩ đời xưa xuất phát từ mơ ước “từ quan”. Người nay dù coi
nhẹ mối ràng
buộc quan trường, dẫu đã chọn “Về đi thôi”, thì cuộc sống chưa hẳn
đã yên ổn. Ở
hải ngoại, Du Tử Lê có thể nối tiếp các nẻo “về” trên con đường nghệ
thuật. Cùng
với thơ ca, tiểu thuyết, tùy bút, ông bước chân sang cả khung trời sắc
màu của hội
họa. Với ông, “đi với về cũng một nghĩa như nhau”! Có lẽ nguồn năng lượng
nghệ thuật
đã giúp ông vượt qua được căn bệnh ung thư năm 2005. Trong nước,
nơi thị
thành nhiều người chọn cách về theo con ma men, hoặc đẩy đưa theo những
cuộc tình,
quên bằng thú vui nhục dục. Người thì chọn cách ngụy biện “tu giữa chợ
đời”.
Chữ nghĩa
như những chiếc vảy cá lấp lánh muôn màu. Nhưng khi bị đánh
hết vảy đi,
thì con cá chỉ còn trơ khối thịt…
Tôi rời vùng
đông bắc Hoa Kỳ về lại khu Little Saigon hai ngày trước
khi cơn bão
Sandy ập tới. Một tuần trước, tôi rất vui mừng vì vợ chồng nhà văn
Trần Hoài
Thư từ tiểu bang New Jersey đã sang tận Virgina để thăm tôi tại nhà
anh Phạm Cao
Hoàng. Trần Hoài Thư đang bị bệnh “gút” nên tự tay vợ anh - chị
Nguyễn Ngọc
Yến đã cầm lái. Suốt hàng chục năm qua, ấy từ tình yêu với chồng
và nền văn
chương miền Nam, người phụ nữ ấy đã vào lùng sụp khắp các thư viện
có lưu giữ
sách báo Sài Gòn cũ để chụp hay scan lại. Tất cả được sưu tập về để anh
mua giấy, tự
in thành tập cho bộ tủ sách Thư Ấn quán-di sản Văn chương Miền
Nam. Các
sách này chỉ để tặng người đọc và thân hữu. Cảm động biết bao tấm
lòng “yến
huyết ròng” của chị.
Trở về quê
nhà không lâu thì tôi nghe tin chị Yến bị stroke, đột quỵ. Đôi
chân không
không thể còn di chuyển xa được nữa…Cầu mong sức khỏe chị hồi
phục nhanh.
Và ước mong là tại các xứ người, sẽ có nhiều nhà tiếp nối công việc
mà vợ chồng
nhà văn Trần Hoài Thư đã làm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét